Trần Kiêm Đoàn, 50 NĂM SAU NHÌN LẠI HUẾ

Trần Kiêm Đoàn

50 NĂM SAU NHÌN LẠI HUẾ

 

HUẾ 26 THÁNG 3

Lịch sử chép – ngày nầy – 26 tháng 3:

Trên xứ Huế dân mình nhìn mặt dân ta,

Như hai kẻ vừa quen vừa lạ,

Quê hương ơi xao xuyến tấc lòng.

 

Ngoảnh mặt nhìn từ Bắc vô Nam;

Ngoái trông nhau từ Nam ra Bắc:

Có kẻ buồn, người vui; nỗi lòng còn mất,

Có bước chân về bén gót bước chân đi.

 

Tháng Tư: dân tản cư trở về,

Băng đèo Hải Vân dắt dìu nhau ra Huế,

Thành phố tản cư đìu hiu vắng vẻ,

Không có người nắng vẫn đỏ vàng hoe.

 

Đời mới bắt đầu khăn gói về quê:

Vườn ruộng ê chề quay lên phố chợ,

Sống giữa bạn bè đứa hăng, đứa sợ,

Đứa theo bộ đội miền Bắc, đứa đi lính miền Nam.

 

Đứa lon ton làm cách mạng 75,

Đứa trình diện tập trung cải tạo.

Dậy mà đi chưa thành cơm áo…

Ai nên khôn không khốn mấy lần.

 

Nghệ sĩ, văn nhân thế thời phải thế,

Trịnh Công Sơn gảy đàn hát kể:

“Gánh, gánh, gánh… gánh rau ra chợ,

Hôm nay đây thống nhất đã về!”

 

Miên Đức Thắng hát… cho dân ta nghe,

Gặp Trần Hoàn chì chiết khen chê:

“Giải phóng đưa ta lên tầm cao vũ trụ,

Sao gánh rau ra chợ kéo xe hề?!”

 

 

Nắng tháng ba mà Huế lạnh tanh,

Bửu Chỉ vẽ phông treo trước Mô Ranh,

Hình công nông lên đường sản xuất;

Lãnh đạo lắc đầu chê tranh chưa đạt:

 

“Nhà máy công trường sao ống khói không phun?!”

Đành trở về vẽ “Ngựa Đá Sang Sông”,

Dấu đá rạn điểm thêm dòng chia biệt!

Nguyễn Đính Trần Vàng Sao cười khan cay nghiệt:

 

Chưởi toáng… cuộc đời quá vô hậu,

Chung cuộc canh tàn vẽ thánh lang thang.

Thằng bạn dãi dầu thi sĩ Thái Ngọc San:

Nói bất chấp quá lề tê vị đắng!

 

Thầy thời Trung học Hoàng Phủ Ngọc Tường,

Về lại Huế xưa như người hái phù dung;

Mơ một thuở tên đường không ai đặt,

Quốc Học bơ phờ Đồng Khánh pha sương,

 

Thầy thuở Văn khoa: Tiến sĩ Giáo sư Lê Văn Hảo,

Từ núi về thành đường phượng bay mờ ảo,

Ôn Thiên Mụ mái chùa xưa nẻo đạo,

Tiếng kinh khuya thấm đẫm ba đào.

 

Trải nghiệm đầu đời hăm sáu tháng ba.

Đời lưu ly giấc ngủ yên hà,

Ra trận vào bưng những chàng trai xứ Huế:

Yêu nước, yêu quê lãng mạn rứa răng… “tề!”

 

Sông núi đó bỗng nhiên buồn vô kể,

Khát vọng, ước mơ, chung dòng thế hệ:

Những hư danh, ảo tưởng buổi giao thời,

Đường nhân văn tìm lại bóng con người?

 

Ngày du thủ trải vàng ra ái ngại,

Đêm tâm kinh nghe mãi chiếc loa rè,

Đốt nhiệt tình tuổi trẻ đam mê.

Dòng lịch sử mô tê đành hoang tưởng.

 

Những bi phẫn lạnh lùng treo cuộc sống,

Những bon chen, nông nổi gối lên nhau.

Không biết mai tê bầy đàn con cháu,

Vết cắt lòng thành sẹo có còn đau?

 

Mà thương về thế hệ mai sau,

Ai đi qua, ai ở lại bên cầu,

Trên Quê Mẹ chớ một đời đất khách;

Đá vàng phai sông núi bạc màu.

 

Tuổi trẻ lên đường em ở nơi đâu,

Mưa gió tháng Ba khi nào mới tạnh?!

Trần Kiêm Đoàn

 

ảnh minh họa

 

Bài thơ cột vào đời như một số phận.

 Bài thơ đầy tâm sự trăn trở tôi làm trong thời gian dạy học, phụ trách Đoàn Trường, tham gia Ban Giám Hiệu tại hai trường Nguyễn Tri Phương và Đồng Khánh Huế trong suốt hai niên khóa từ 1975 đến 1977. Bài thơ là nguyên nhân khiến tôi bị cho nghỉ dạy khi đang còn là phó hiệu trưởng của trường Đồng Khánh. Sau 50 năm nhìn lại ở tuổi 80, vẫn còn miên man dư cảm xót xa của một thời tuổi trẻ, tôi lại mỉm cười khi hồi tưởng lại cái “vụ án văn chương” tuy nhỏ như tô cơm hến Cồn; nhưng tôi vẫn thấy thương mình, thương người và thương Huế của một thời, bây giờ và có lẽ là mãi mãi.

 Sau mùa Hè đỏ lửa 1972, là một thầy giáo trường trung học Nguyễn Hoàng Quảng Trị, tôi cùng đồng nghiệp, học trò và bà con Quảng Trị đành phải rời một Quảng Trị, Đông Hà, Gio Linh, Cam Lộ… điêu tàn và khói lửa đằng sau để chạy vào Đà Nẵng tỵ nạn chiến tranh.

 Ngày 26 tháng 3 năm 1975, tin Huế đã “hoàn toàn giải phóng”, mấy hôm sau chúng tôi khăn gói trở về Huế. Cả thành phố Huế từ nội thành đến tả và hữu ngạn sông Hương cũng như vùng phụ cận đều vắng hoe. Trên đường đây đó, có những nhóm hay đội quân di chuyển trong im lặng quanh thành phố. Tôi về làng Liễu Cốc Hạ, quận Hương Trà… tất cả vẫn còn nguyên vẹn. Dân làng, người dè dặt ở trong nhà, kẻ tham gia các sinh hoạt xã hội, văn nghệ, họp hành khá sôi nổi trong những ngày đầu mới mẻ nhắc tôi nhớ lại thời “tập kết” 1954; chỉ khác nhau là làng xóm, dòng sông và cảm nhận từ đứa bé quê đến chàng trung niên mới đó.

 Tình hình sinh hoạt của thành phố Huế nhanh chóng trở nên rộn ràng khi lượng người từ Nam ra, Bắc vào, rừng núi xuống, sông biển lên… Tôi biết từ lâu trong im lặng thâm cung của Huế nhưng đôi khi vẫn ngỡ ngàng vì sự xuất hiện bất ngờ của lớp người lạ mà quen; quen mà lạ. Cái quen và lạ đâu phải do hình tướng mà do những điều chưa tri ngộ trong thế giới tâm hồn. Giữa buổi giao thời, anh chị em nhìn rõ mặt nhau thật khó. Giữa hai khuynh hướng cực đoan: Giữ miệng như bình, giữ ý như thành và huyên thuyên khẩu nghiệp thì sự dè dặt “thi hành trung đạo, báo cáo trung dung…” là tấm áo giáp an toàn hơn cả. Tôi được bạn bè tốt bụng, những anh chị đã có chân đứng vào hàng ngũ cơ sở cách mạng, giúp xin ở lại Huế dạy học, thay vì phải về lại trường Nguyễn Hoàng Quảng Trị, với điều kiện tiên quyết là phải vào đoàn Thanh Niên (vì tôi mới 27 tuổi, theo hồ sơ sinh năm 1948) và tham gia Ban Giám Hiệu, phụ trách Đoàn Trường.

 Với tình trạng gia đình vợ và 4 con dại, cùng lúc tôi vừa cần phải lao vào công việc ở trường học; vừa phải có trách nhiệm với gia đình riêng. Khi một người đồng thời phải dấn thân vào hai đối cực công việc thì hệ quả không tránh khỏi là rất dễ bị tha hóa: mình bỗng nhiên trở thành một người khác với bản chất không phải là chính mình. Tôi bị rơi vào một trạng thái tâm lý phức tạp “phản kháng thụ động” (passive resistance) – một loại hình tâm lý “tiểu tư sản trí thức” phổ biến và bị phê phán gay gắt…  đương thời – trước hoàn cảnh khó khăn, tình người bất trắc, phương hướng tiến thủ mịt mù.

 Thế nhưng trải qua hơn hai năm còn ở trường học, tự mình vẫn đứng vững giữa sân trường Nguyễn Tri Phương và Đồng Khánh, hoặc ở trong các đợt học tập và thảo luận chính trị tại chức, tôi đã hành xử với nhiệt tình và biểu hiện đầy trung thực trước học sinh và đồng nghiệp; nhưng sau gần ba năm cũng bị chao đảo khi phải đối diện đồng thời với thực tế trường học công cộng màu hồng và hoàn cảnh riêng tư cơm áo màu xám của chính mình.

 Khi tâm lý riêng và hoàn cảnh chung ở giữa hai bến bờ đối đãi thì sự “yên thân đối trọng” sẽ khó tồn tại trong hiện thực mà chỉ hiện thân trong cõi mơ mòng của nghệ thuật và thi ca.  Tôi đã làm thơ và viết cho chính mình để tự đứng dậy trong một hoàn cảnh…ai có qua cầu mới hay! 

 Bởi thế, trong số những bài thơ, bài viết của một kẻ xuất thân thầy giáo, cầm bút như cầm phấn trên bục giảng trong 50 năm qua thì bài thơ “Huế 26 tháng 3…” bây giờ đọc lại tôi vẫn còn cảm thấy sự chân thành một thuở đến rưng rưng. Bài thơ như một ngấn lệ nhưng có hết niềm tâm cảm của một tấm lòng chân thật giữa buổi giao thời.

 

Huế ơi! Từ 26 tháng 3…

 Sau 43 năm xa Huế, tôi đã về lại với quê hương “núm ruột” của mình nhiều lần. Lần đầu (1992) sau 10 năm xa Huế, tôi được Đoàn Phạm Túy Linh cho bản viết tay nhòe mực bài thơ “Huế 26 tháng 3…” của mình mà bạn hiền còn giữ. Đọc thơ và nhìn cảnh đâu đó quanh mình, tôi thấy Huế vẫn ngủ cơn đò dọc: Nước trôi thì thuyền trôi chứ chẳng có gì đổi khác.

 Sau đó, cứ vài ba năm tôi về lại một lần.

 Huế đã qua tuổi… “dậy thì cách mạng”.

 Cả con người và sông núi bớt dần những ảo tưởng viễn mơ để bước đi cùng hiện thực. Huế từng bước vươn lên cùng nỗi khó khăn chung cả nước. Một thời “cái khó BÓ cái khôn” từ từ nhường bước cho “cái khó LÓ cái khôn.” Người dân quê mỗi làng có một sắc thái khác nhau về cái khôn ló dạng, nhưng bản năng sinh tồn tự nhiên được phát huy trong một hoàn cảnh thuận lợi hai chiều: Người và ta!

 

Sau 20 năm xa Huế, tôi về lại Làng trong dịp Tết và cảm thấy vui đến ngỡ ngàng khi thấy hơn một nửa Làng đổi mái nhà tranh sang lợp ngói. Được biết dân làng làm ruộng tốn ít công chăm sóc việc đồng áng hơn nhờ máy móc trợ lực nên có được thì giờ đi khắp từ Nam ra Bắc thu nhặt và mua bán phế liệu như một nghề kiếm ra tiền khiêm tốn tự phát mà không lo ảnh hưởng thời tiết mất mùa! Và một khi nguồn kinh tế được cải thiện thì đời sống phương tiện vật chất được cải thiện đã đành nhưng số con em vào đại học cũng tăng theo. Các làng khác cũng chung nhịp với bằng cách nầy hay thế nọ không để tự mình tụt lại đằng sau.  

 

Cứ mỗi lần sau về thăm, đời sống bà con ở làng cùng với đời sống Huế có nhà cửa tươm tất hơn, áo quần lành lặn hơn và miếng ăn có thêm chút rau, chút cá, chút thịt thường xuyên hơn lần trước. Trải nghiệm thực tế đã huấn luyện tôi thành một kẻ “duy thật”, nghĩa là biết thật, làm thật, có thật mới tin. Tâm lý “duy thật” rất gần với lời Phật Như Lai: “Tin ta mà không hiểu ta và thiếu kiểm chứng thực tế là đồng nghĩa với phỉ báng ta.”

 

Lần tôi về lâu nhất vào năm 2013, ở luôn ba tháng với Huế và Làng. Giao Thừa năm đó, đứng trước hiên nhà bên cạnh sông Bồ, tôi điểm lại những niềm mơ ước trong suốt cả một thời tuổi trẻ. “Tứ Đại Cầu”… bốn điều ước mơ lớn nhất cho làng quê tôi là:

-         Ước chi có điện thay cho đèn dầu.

-         Ước chi có nước máy để khỏi oằn vai ra sông Bồ gánh nước.

-         Ước chi có đồ nấu để khỏi tối mắt vùi khói rơm rạ và khỏi oằn vai đi mót củi nấu ăn.

-         Ước chi có con đường tử tế từ làng qua Huế để khỏi lội bùn quá “trốt cúi” (đầu gối).

Và có thêm một ước mơ ngỡ như hoang tưởng là có điện thoại đứng ở Làng mà gọi người cách xa năm đồng bảy đội quanh mình hay “ghê gớm” hơn nữa là gọi khắp năm châu…

 

Tất cả bốn điều ước “tứ đại cầu” thời 50 năm trước thì tất cả bây giờ đã có ở quê tôi và kể cả điều ước “ghê gớm” cũng chỉ còn là nhấn nút. Chiều nay, giờ đi ngủ ở Làng là giờ thức giấc ở Cali, tôi gọi Lê ở Sacramento và nghe nàng nói là “nghe rõ như nhà dưới nói với nhà trên”. Với kỹ thuật số thời đương đại thì “tứ đại cầu hay nhất ghê gớm” nơi nào mà chẳng có. Nhưng trên những nẻo đường du lịch ở nhiều vùng đất thế giới vẫn còn biết bao đất nước và vùng đất vẫn còn xa ngoài tầm… ước chi mà tôi đã đi qua và trải nghiệm thực tế.

 

 

 ảnh minh họa

 

Những chuyến về thăm Huế năm lần bảy lượt, tôi có những tâm sự xao xác nổi lên như thách thức là:

  “Huế sẽ có còn là Huế nữa hay không?!” giữa cuồng lưu đổi đời cho kỹ nghệ kiến trúc tầm Dubai (sa mạc biến thành cảnh quan lâu đài sông nước tráng lệ) hay tầm Do Thái (đồi cát biến thành đồng xanh). Trước nhu cầu hiện đại hóa du lịch thì liệu dân Huế và giới lãnh đạo Huế có đủ căn cơ tầm nhìn và bản lĩnh đổi mới để đừng “phương tiện hóa” Huế thành “một nơi nào khác” như những thành phố phía Bắc và phía Nam của Huế chăng?

 Cứ mỗi lần về Việt Nam, loanh quanh từ Nam chí Bắc, tôi đã đi lạc ngay giữa những “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”; đã chứng kiến những thành phố “đổi đời” táo bạo đến nỗi đã xóa đi hoàn toàn dấu cũ. Nhưng đã 50 năm qua, cứ mỗi lượt năm ba năm trở về thăm Huế, tôi thật vui mừng và xúc động khi thấy Huế vươn lên ngang tầm ngọn trào của toàn đất nước mà “Huế vẫn là Huế”. Huế thay da đổi thịt với hình ảnh kiến trúc đô thị như cao ốc, chung cư, siêu thị, nhà cao cấp… ở vùng Nam sông Hương nhưng cốt cách của Huế vẫn còn đẹp dịu dàng và khiêm cẩn như xưa. Dòng sông, dáng núi, bến cũ, hoàng thành, lăng tẩm, miếu mạo, lối xưa vẫn còn dáng thướt tha và vẻ trầm mặc uy nghi như một đời muôn thuở trước.

 

Ở tuổi 80, đã 50 năm từ ngày Huế “nối nhịp Trường Tiền”, tôi nghĩ đến nửa đời trên quê hương và nửa đời đất khách. Có lẽ phải đồng ý với Erick Erickson, nhà tâm lý học cổ điển hàng đầu của Mỹ từ thế kỷ trước khi diễn thuyết, nói đại khái rằng: Lai lịch một đời của mỗi con người được hình thành và ổn định trong lứa tuổi từ 7, 8 đến 10, 13. Bạn là ai trong lứa tuổi đó thì lai lịch cốt tủy của bạn chính là nơi đó; đã hình thành cố định rồi, suốt đời sau không còn thay đổi.

 Mượn chút suy tư của gã học giả tâm lý nầy, tôi nhìn về Huế từ California, bèn sửa (hay làm tiếp) hai câu thơ cuối của bài thơ đã làm đời tôi phong trần, lãng đãng…

 (1975)

Tuổi trẻ lên đường em ở nơi đâu,

Mưa gió tháng Ba khi nào mới tạnh?!

 (2025)

Tuổi trẻ ngày xưa bây giờ lên lão,

Mưa gió tháng Ba tạnh ráo lâu rồi!

 

California 18-3-2025

 Trần Kiêm Đoàn

 

 

THẾ GIỚI SÁNG TẠO MIỀN NAM VIỆT NAM 1954 – 1975 ĐẾN NAY
Giới thiệu của người dịchCuốn sách này là bản dịch của một tập hợp bài viết về các nhân vật, văn học và báo chí của các cá nhân người Việt đã có những đóng góp đáng kể cho văn học, nghệ thuật và khoa học. Đây là một nguồn thông tin phong phú về lịch sử xã hội, văn hóa và chính trị của Miền Nam Việt Nam, cũng như sự nghiệp cá nhân trong lãnh vực nhân văn. Những nhân vật được mô tả phần lớn đã nổi tiếng trong thời kỳ 1954 - 1975. Sau khi Miền Nam sụp đổ vào tay Bắc quân năm 1975, hầu hết trong số họ đã bị giam cầm một số năm trong các trại cải tạo cộng sản. Sau đó, vào những năm 1980, một số đã đến Hoa Kỳ và hầu hết vẫn tiếp tục hoạt động sáng tạo.
Tòa soạn
Do công ty Saigon News LLC thực hiện
Editor-in-chief: HOÀNG DƯỢC THẢO
Director of Marketing: ANDY TRƯƠNG
Với sự cộng tác của: LÊ TẤT ĐIỀU, HOÀNG NGỌC NGUYÊN, NGUYỄN THỊ CỎ MAY, TRẦN TRỌNG HẢI.

Email: saigonweeklyonline@gmail.com

Thư từ bài vở: 702-389-5729

Quảng cáo: 702-630-0234

702-426-4404

Hotline: 702-426-4404

back top