Phan Nhật Nam
Tôi đã cố bám lấy đất nước tôi!
Nguyễn Đình Toàn (1936-2023)
Lời người viết: Bài viết nguyên ủy “Văn/Thơ/Ca Từ Nguyễn Đình Toàn- Như Một Lời Tuyên Cáo” được thành hình từ 24, Tháng 4, 2022 nhân buổi Ra Mắt Sách nơi nhà sách Tự Lực do Đinh Quang Anh Thái tổ chức, điều hành. Buổi Ra Mắt Sách có mặt hai Danh Tính Lớn/Lớn Nhất của nền Văn Học Miền Nam trước 1975 ở Sàigòn, và sau 1975 nơi hải ngoại: Nhà Văn Niên Trưởng Doãn Quốc Sỹ, và Nguyễn Đình Toàn. Một khách mời tham dự, Cô Nhã Lan, Đài Little Sàigòn có nhận xét: “Khi hỏi chuyện, Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ 100 tuổi (sinh 1923) chỉ ngồi cười không nhớ!, và Nhà Văn Nguyễn Đình Toàn (sinh 1936) thì: “Tay run không ký tròn chữ được trong tập "Thơ và Ca Từ”. Bài viết nầy vì thế được viết nên (lần thứ nhất) nhằm nói cho ra lẻ: Dạng Tướng-Tính Chất-Tiếng Lời riêng biệt của Nhà Văn-Nhà Thơ-Nhạc Sĩ Nguyễn Đình Toàn. Và nay, kể từ 17:15 giờ, Ngày 28 Tháng 11, 2023, Nguyễn Đình Toàn không còn nơi cuộc sống trần thế. Người Nghệ Sĩ Lớn của Miền Nam/của Việt Nam dần mất dấu như âm thanh thăm thẳm thắm thiết của Sài gòn đã, đang dần xa…
Một:
Suốt một thời gian qua hơn nửa thế kỷ cầm viết, bản thân anh luôn (tự) giữ nguyên tắc: Không viết hay nói đến những nhân vật trong giới văn học-nghệ thuật đương thời, còn sống... Cụ thể (nếu) nói, viết về Đỗ Ngọc Yến, Như Phong, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Huấn, Nguyễn Chí Thiện, Bùi Bảo Trúc, Đào Vũ Anh Hùng, Huy Phương… chỉ sau khi những người thân nầy đã qua đời. Anh (tự) giải thích về “nguyên tắc tự biên/tự diễn” nầy như sau: Không viết/nói về những người còn sống nhằm tránh rơi vào “khuyết điểm/thật là một cái bẩy” những người cầm bút Miền Nam trước 1975, hoặc sau nầy ở hải ngoại hầu như thường vấp phải: Ấy là quá xưng tụng, tung hô, hoặc đối lập là phê phán, chỉ trích theo quan điểm cá nhân chủ quan.Thế nhưng, hôm nay anh cần nói (thêm một lần) về Niên Trưởng Nguyễn vì hai lẻ, khách quan và chủ quan, với mục đích và yêu cầu trình bày đủ/chính xác Sự Lớn Lao của Chữ và Người Nguyễn Đình Toàn – Qua tác phẩm cuối cuộc của một Tác Giả với độ tuổi 80, 90 vẫn tiếp tục làm việc, sau cơn bão lửa rúng động tận căn cơ mấy chục triệu người Miền Nam/Cũng toàn thể Việt Nam suốt 48 năm sau Ngày 30 Tháng 4/1975. Sự đơn giản tưởng như một phép lạ nầy sao không ai thấy ra? Sao không mấy ai nói ra?
Anh cũng cần phải viết lên vì còn mấy ai hiện nay nơi hải ngoại, ở trong nước biết rõ, đủ về người và việc tại những năm 50, 60, 70 nơi Miền Nam, ở Sài Gòn… mà (chỉ) thoáng 40 năm hơn sau 1975, những sự kiện, con người mươi năm trước đã hóa nên cũ kỷ, mau chóng lãng quên!
Là một người lính đơn vị đóng ở Phi Trường Biên Hòa, mỗi lần về phép Sàigòn thường đến quán La Pagode (Cái Chùa), góc đường Tự Do/Lê Thánh Tôn nơi tụ họp thường xuyên giới làm báo, viết văn Sàigòn để gặp những bạn bè cùng thế hệ (Phần đông gốc người Bắc, hay Trung) trong báo giới, văn giới. Tới Quán Chùa, anh thường thấy NĐT, người đàn ông gầy, ngồi lặng lẽ trong chiếc ghế bành màu đỏ với chiếc tẩu thuốc. Cách ngồi trầm tĩnh với ống tẩu tạo cho ông một cách thế riêng biệt rất dễ nhận trông đám đông ồn ào xởi lởi của một quán nước, nơi tập trung của giới người chuyên nghề “nói và viết”. NĐT vốn ít nói, có nói cũng chỉ với tiếng nhỏ, ngắn lời. Tuy nhiên mỗi lời nói ngắn, nhỏ kia chứa đựng sức nặng đáng kể khó ai phản bác, chống đở. Ví dụ, khi nhận xét về một nhân vật đang giữ chức vụ cao trong chính quyền có thói quen tuyên bố lớn tiếng, ồn ào, thái độ, đi đứng mạnh mẽ trong khi thể hình không mấy cao lớn… NĐT đưa nhận xét: “Nện gót giầy kêu to, vung tay mạnh mẽ, tuyên bố ồn ào không làm cho người... cao thêm chút nào cả!” Kẻ bị/được nhận xét không (thể) có được một lời, một tiếng phản đối! Tất cả người ngồi bàn nước chững lại không một ai biết được sau khuôn mặt bình thản kia có những phản ứng dữ dội ngấm ngầm thế nào?
Từ lời nói, việc làm cụ thể như vừa kể ra, dẫu không phải là người thân cận, anh nhìn thấy NĐT quả là một người có bản lãnh, sắc sảo đáng quý trọng. Ông không hề khoa trương, lớn lối. Đoạt Giải Văn Học Nghệ Thuật 1973 với giá hiện kim tương đương 40 lượng vàng, được hỏi sao không mua chiếc xe hơi đi cho nhàn hạ. Ông chỉ cười kín đáo: Thì đi Honda cũng sang chán!
Nhận xét khách quan như trên về NĐT thêm được củng cố sau năm 1968, khi gia đình người em gái có chồng là nhân viên hành chánh Ban Mê Thuột đổi về Tỉnh Gia Định. Gia đình em anh trở nên là hàng xóm thân thiết với nhà NĐT qua hai căn nhà đối lưng trong Khu Làng Báo Chí Thủ Đức. Sau năm 1975, bản thân gia đình anh, người em, và NĐT đồng lâm cơn đại loạn cùng lần nước mất nhà tan mà sống qua mỗi ngày, mỗi đêm là một lo sợ. Sợ ngày mai sẽ đến! Gặp lại ở Mỹ, vùng Nam Cali, anh và NĐT là hai người cầm bút còn (sống) sót của Miền Nam vẫn tiếp tục công việc từ trước 1975 ở Sàigòn: Sống/Chiến Đấu/Viết không khoan nhượng với người, chế độ Hà Nội. Dẫu Nguyễn Đình Toàn không hề lên tiếng phê phán gay gắt. Mến mộ trong lòng anh trước 1975 trở thành một Niềm Kính Phục toàn phần cố kết.
Hai:
Hiện nay, nước Việt Nam bên kia Thái Bình Dương bị độc trị bởi một chế độ chủ trương tận diệt tất cả di sản của người, và việc VNCH. Chủ trương độc hại nầy được hiện thực với Nghị Quyết 36 nhằm đánh sập Hệ Thống Chính Trị-Kinh Tế-Văn Hóa-Xã Hội” của Người Việt Tỵ Nạn CS nơi hải ngoại. Chiến Dịch NQ36 nầy được khỏi động từ 2008 với mục tiêu điễn hình cụ thể, Vùng Little Sàigòn, Nam Cali. Trong cuộc chiến đấu không cân sức quyết liệt nầy – Chữ và Lời của NĐT nói chung/cụ thể qua Thơ và Ca Từ có giá trị chiến đấu với công lực vô cùng mạnh mẽ.Trước tiên, liên quan đến những cuốn sách viết trong một thời gian dài từ sau thập niên 1950, 60… đến trước 1975, và sau 1975 ở hải ngoại; điễn hình với Thơ và Ca Từ được giới thiệu hôm 24 Tháng 4, 2022. Nhằm để trình bày đầy đủ, người viết xử dụng hai tiểu luận: Một của NTVinh, hai của Lưu Na về NĐT. Hai tiểu luận của hai tác giả khác xa thế hệ, viết trước, sau 1975 ở SG, và nay ở hải ngoại với hai nhận định khác hẳn… Từ đấy, có thể tìm ra Điểm Chung Nhất về NĐT mà bài viết (lần thứ hai) muốn nêu rõ.
Trước tiên nói về Văn. Nguyễn Đình Toàn sinh năm 1936 tại Huyện Gia Lâm, bên Sông Hồng, ngoại thành Hà Nội. Từ ngày khởi cuộc cầm bút, ông đã có lời xác nhận với cách tự tin: “Tôi qua Sông Hồng, lên Hà Nội một thân không đàn anh, bậc thầy nào nào giúp sức!” Di cư vào Nam 1954, ông cộng tác với hầu hết các nhật báo, tuần báo. giai phẩm ở SG (do các bạn gốc người miền Bắc chủ trương, điều hành); biên tập viên Đài Phát Thanh Sài Gòn, nổi tiếng với chương trình Nhạc Chủ Đề. Tác phẩm đầu tiên, Chị Em Hải do NXB Tự Do,1961. Là tác phẩm đầu tay mang dấu ấn văn phong của Con Đường Nguyễn Đình Toàn xuyên suốt qua các tác phẩm sau nầy qua hơn một thập biên ở Miền Nam. Chị Em Hải, được Phạm Xuân Ninh (Nhà Thơ Hà Thượng Nhân) chuyển tới nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến, đang là tổng thư ký nhật báo Tự Do. Như Phong nhìn ngay được viên ngọc ẩn thạch, văn tài của Nguyễn Đình Toàn từ cuốn sách đầu tiên đơn giản nầy. Hơn một thập niên sau, 1973 Áo Mơ Phai ra đời hiện thực con đường đã được vạch ra từ giòng chữ đầu tiên trong Chị Em Hải nhưng được nâng lên bởi một kỹ thuật/nghệ thuật tinh tế hơn.
Trên tạp chí Văn Học 1974, Nguyễn Đình Toàn đã nói về kỹ thuật xây dựng Áo Mơ Phai: "Mỗi tác phẩm đã viết ra như que diêm đã được đốt cháy, nhà văn có bổn phận phải sáng tạo, dù rằng toàn bộ tác phẩm chỉ là sự nối dài từ cuốn đầu tiên.. Nhân vật chính trong tác phẩm là thành phố Hà Nội.. Thành phố như giấc mơ không bao giờ phai nhạt với sương mù cơn mưa sướt mướt hơi lạnh của mùa thu… Áo Mơ Phai thoát ra từ cơn mơ đó từ khi NĐT xa Hà Nội mới 17 tuổi.” Ông nói: Tôi viết cuốn sách đó chỉ dựa trên những dự cảm đối với hoàn cảnh lịch sử cho một người chịu đựng hoàn cảnh lịch sử… Chính xác và cảm động biết bao, trước hơn ai hết, NĐT đã thấy Nỗi Đau lần Mất Sài Gòn tại Ngày 30/4/1975. Và đây là lãnh vực RIÊNG của Nhạc Nguyễn Đình Toàn –Một Vùng Đất không hề chung đụng, ảnh hưởng, tác động bởi bất cứ ai, so với giới nhạc sĩ chuyên nghiệp như Phạm Duy…
Ba:
Điểm kế tiếp cần phải nói tới là Nhạc NĐT đưa đến cho người nghe, người hát những ca từ mà (có thể) họ không (cần) biết là của ai vì đấy là “Lời Của Người/Của Cuộc Đời” được Nhà Văn-Nhạc Sĩ Nguyễn Đình Toàn viết nên từ rung động tinh tế chân thành với chữ nghĩa giản dị, trong suốt – Chữ, lời (đã) thấy ra từ Chị Em Hải, trong Áo Mơ Phai - Nhạc/Ca Từ NĐT một lãnh vực độc đáo riêng mà bản thân người viết dẫu chỉ là một kẻ thô thiển đứng ngoài cuộc của nhạc giới, cũng đã có những rúng động đến đổi lạ lẫm với bản thân qua nhiều lần tự hỏi: “…những chữ nghĩa đơn giản/ca từ có thể tạo rung động lòng người đến thế sao?” Cảm ứng nầy người viết cậy từ nhận định của Nhà Văn Nữ thuộc thế hệ thứ hai nơi hải ngoại – Lưu Na đã viết nên một cách chính xác.. “Lời nhạc của ông thường là những lưỡi dao đâm suốt tim .. Khi lớn lên, sau 1975 ở VN chưa bao giờ được nghe tên NĐT... Giờ đây, ra hải ngoại nghe nhạc NĐT thì hóa ra đã nghe từ lúc nhỏ.. Em Đến Thăm Anh Đêm 30, Tình Khúc Thứ Nhất.. Rồi đến ca khúc thời kỳ sau 1975: Hãy Thắp Cho Anh Một Ngọn Đèn… Lời ca hay ở chỗ giản dị, mà đúng một cách đớn đau, những con chữ của cuộc sống đời thường được tóm lại, đưa vào với một nốt nhạc, kêu lên đúng cái âm vang khổ đau, ray rứt của tâm hồn.”Phải, mỗi Người Việt/Mỗi Người Việt Miền Nam cần thắp sáng cho nhau một ngọn đèn để hy vọng, để vượt sống hơn bốn-mươi năm năm sau lần miền Nam sụp vỡ, Sàigòn mất tên.. Sài Gòn ơi! Bản thân người viết cũng như bao nhiều người Sàigòn vẫn còn nguyên Mối Đau: “Sàigòn ơi Ta mất Người như người đã mất tên. Như giòng sông nước quẩn quanh buồn. Như người đi cách mặt xa long. Sàigòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên. như mộ bia đá lạnh hương nguyền. Như trời sâu đã bỏ đất sầu…” Cám ơn Nguyễn Đình Toàn. Cám ơn Người Viết Ca Từ NĐT.
Bốn:
Cuối cùng, dẫu viết văn, viết nhạc qua mọi hình thái biểu hiện - NĐT trước tiên, chung nhất vẫn là/luôn là Một Thi Sĩ tức là tổng hợp của “Người Viết Văn-Viết Nhạc-Soạn Kịch-Viết Nhạc Chủ Đề” - Tất cả chỉ là hóa thân từ Tâm Chất của Thi Sĩ tức là Người Viết/Sống/Với Thơ là Một.Ngày trước, Nguyễn Du phải viết Truyện Kiều; thời đại chúng ta có Bùi Giáng; Tô Thùy Yên… phải làm Thơ. Tương tự Phạm Duy phải viết Nhạc. Trường hợp của NĐT, anh nghĩ cũng không khác. Cụ thể, buổi ra mắt sách (đã là cuối cuộc) trong Ngày 24 Tháng 4, 2022 là một tập Thơ: Thơ và Ca Từ - Những chữ nghĩa của ông đúc kết trong tác phẩm sau cùng nầy. Chúng ta hãy đọc lại những lời khốc liệt: “Tôi đã cố bám lấy đất nước tôi. Bằng sức người vô hạn. đầu đội tram tấn bom. Tim mang nghìn dấu đạn. Tôi đã đổ mồ hôi. Đổ máu tươi. Để mong ở lại đây. Dù thế nào. Cũng ở lại đây…”
Không thế nào có những chữ, lời can đảm, chịu đựng hơn thế nữa. Những chữ, lời đã chuẩn bị thấy ra từ ngày 17 tuổi, 1954 khi xa Hà Nội với… “những đêm khuya, những buổi chiều. Hà Nội như một cơ thể mắc chứng hoại huyết. Từ những vùng quê xa, từng đoàn người lam lũ, lầm lũi, ngày ngày gồng gánh, lếch thếch đắt díu nhau về Hà Nội.. chờ để được đưa đi tới các phi trường, bến tầu- Di cư vào Nam. (Áo Mơ Phai).”
Thơ Nguyễn Đình Toàn nay được viết (lại) sau năm 1975 vì những gì (chế độ cộng sản Hà Nội) đốt được thì đã không còn… Tất cả hình ảnh của ngày phát giải Văn Học Nghệ Thuật 1973 (với Áo Mơ Phai) và sách Nguyễn Đình Toàn đồng được/bị xếp vào loại “văn hoá đồi truỵ” nên tất cả đã bị tịch thu và trở thành "Tro Than", như tên một tác phẩm định mệnh trong chiến dịch đốt sách khắp Miền Nam sau 30 Tháng 4, 1975. Nhưng như một phép lạ có thật, chiếc Huy Chương Đồng mạ Vàng của giải thưởng năm 1973 xa xưa kia đã được một người trẻ tuổi (vô tình) mua lại trên vĩa hè Hà Nội và giao lại cho ông tại Mỹ. Và quả thật là một phép lạ, với vóc dáng gầy yếu thêm mang bịnh lao phổi từ thập niên 60, Người Viết Thơ NĐT đã vượt sống với một tinh thần chiến đấu quyết liệt… “Hãy thắp cho anh một ngọn đèn. Dù mịt mùng xa xăm. Một ngọn đèn trong đêm mờ ám. Hãy thắp cho anh một ngọn đèn. Dù chẳng còn hơi ấm. Và kỳ diệu biết bao… “Cố thắp cho em một ngọn đèn. Để dù trong xa vắng. Em còn được cháy trong lòng anh.”
Ai trong chúng ta có thể nói những lời yêu thương đơn giản nhưng thắm thiết đến nhường nầy. Cách nói của “Những Người Viết Thơ”: “Thế rồi, tôi sẽ đi tìm. Tìm em như thể là Người Đầu Tiên (Bùi Giáng)”; hoặc “Ta về dẫu phải đi chân đất. Khắp thế gian nầy để gặp em…” của Tô Thùy Yên. Cám ơn thêm một lần. Cám ơn rất nhiều lần những THI SĨ từ Miền Nam. Của Miền Nam.
Hậu Từ:
Nguyễn Đình Toàn khi trả lời phỏng vấn của Hoàng Khởi Phong trên hệ thống RFA năm 2006, có lời tường trình: "Có những người thức thời, nhìn xa trông rộng, có thể tiên đoán dự liệu được những biến chuyển của thời cuộc, dĩ nhiên có những điều họ tiên đoán cũng có điều sai. Mà đúng hay sai thì chỉ khi nào sự việc xảy ra thì họ mới biết được. Tôi viết cuốn sách đó (Áo Mơ Phai, SG, 1973-Pnn) chỉ dựa trên những dự cảm đối với hoàn cảnh lịch sử (Hà Nội-1954-Pnn) cho một người chịu đựng hoàn cảnh lịch sử như chịu đựng sự đổi thay của thời tiết".Phát biểu của Nguyễn Đình Toàn được NTVinh so sánh với diễn văn của Albert Camus khi dự lễ nhận giải Nobel văn chương 1957. Camus nhận định rằng: “Ngày nay nhân loại gồm số nhỏ người làm lịch sử và đông đảo những người phải gánh chịu những hậu quả do biến cố lịch sử. Và Albert Camus cho rằng vị trí của những người làm văn học nghệ thuật là đứng về phía những Người Khổ Đau Vì Lịch Sử.
Không có thể bảo: Ai khổ hơn Ai? Kẻ làm nên lịch sử, hay số đông thường nhân (vô tình/cố ý) phải nhận mối oan nghiệt lịch sử ấy?! Và nhà văn hoặc người dân thường muốn hay không muốn cũng phải nhận lấy. Chỉ riêng NĐT thì nói rõ: TÔI ĐÃ CỐ BÁM LẤY ĐẤT NƯỚC TÔI - Rất đông Người Việt cũng có quyết tâm ấy - Chỉ khác, chúng ta không có điều kiện để nói ra như Nhà Văn-Nhạc Sĩ- Thi Sĩ Nguyễn Đình Toàn mà thôi.
Nguyễn Đình Toàn lớn lao đến ngần nào.
Cali, 28 Tháng 11, 2023
Ngày Nguyễn Đình Toàn vắng mặt sau “Giờ Ra Chơi”
Phan Nhật Nam
Sàigòn ơi!
Đâu những chiều khoát áo ra đi…