Cựu tổng thống Nga
Mikhail Gorbachev vừa qua đời
Theo New York Times/ @Bản dich của Saigon WeeklyẢnh của © Fred R. Conrad/The New York Times
Tin ông Gorbachev qua đời đã được các hãng thông tấn Nga loan báo vào thứ Ba 30 tháng 8 và lý do ông qua đời là vì một "căn bệnh nghiêm trọng và kéo dài" nhưng không xác định là bệnh gì.
Rất ít nhà lãnh đạo trong thế kỷ 20, hay trong bất kỳ thế kỷ nào, có ảnh hưởng sâu sắc đến thời đại của họ như ông. Chỉ trong vòng hơn sáu năm cầm quyền, ông Gorbachev đã vén bức màn Sắt, làm thay đổi hoàn toàn sân khấu chính trị của toàn thế giới. Tuy đã tuyên bố không có ý định thanh lý đế chế Xô Viết, nhưng chỉ trong vòng 5 năm sau khi lên nắm quyền, ông ta đã chủ trì việc giải thể Liên bang Cộng hòa XHCN Xô viết. Ông đã kết thúc sự thất bại của Liên Xô ở Afghanistan và, trong một năm 1989, hệ thống Cộng sản đã được giải thể từ Baltic đến Balkan ở các quốc gia thuộc Liên Bang Sô Viết vốn đã suy yếu và cạn kiệt bởi nạn tham nhũng lan rộng và các nền kinh tế lạc hậu.
Ảnh © Rex Features, Associated Press
Ông đã bị chống đối bởi cả hai phía: phía những người Cộng sản bảo thủ và phía những người theo khối tự do. Nhóm đầu tiên lo sợ rằng ông sẽ phá hủy hệ thống cũ và nhóm còn lại lo rằng ông sẽ không làm nổi việc dẹp bỏ chế độ Cộng sản.
Mikhail Sergeyevich Gorbachev sinh ngày 2 tháng 3 năm 1931. Hình chụp cậu bé Misha với ông bà nội lúc 3 tuổi. © Associated Press
Ở ngoài nước Nga, ông được ca ngợi là một anh hùng. Theo George F. Kennan, nhà ngoại giao Hoa Kỳ chuyên về các vấn đề Xô Viết, ông Gorbachev là “một điều kỳ diệu”, một người nhìn thế giới như “nó phải là như thế” và không bị ràng buộc bởi hệ tư tưởng Xô Viết.
Khi lên nắm quyền, ông Gorbachev là một người con trung thành của Đảng Cộng sản, nhưng ông đã nhìn mọi thứ bằng con mắt mới. “Chúng ta không thể sống theo cách này nữa,” ông nói với Eduard A. Shevardnadze, người sẽ trở thành bộ trưởng ngoại giao thân tín của ông, vào năm 1984.
Trong vòng 5 năm, ông đã thi hành nhiều điều mà đảng Cộng sản Nga coi là bất khả xâm phạm. Là một người cởi mở, có tầm nhìn và năng lực tuyệt vời, ông nhìn vào di sản của bảy thập kỷ cai trị của Cộng sản và thấy nạn tham nhũng đã trở thành quốc nạn, lực lượng lao động thiếu động lực và kỷ luật, các nhà máy sản xuất hàng kém chất lượng và hệ thống phân phối không đảm bảo đến tay người tiêu dùng – cái gì cũng không có trừ rượu vodka.
Liên Xô đã trở thành một cường quốc lớn trên thế giới đang đi xuống vì một nền kinh tế yếu kém. Khi Đông-Tây hòa nhập, xã hội khép kín Nga được mở cửa, những tầng lớp tinh hoa về công nghệ, khoa học và văn hóa của Nga không thể không đánh giá đất nước tồi tệ về mọi mặt của họ so với phương Tây và dĩ nhiên là ai cũng muốn theo kịp thế giới. Vấn đề thì rõ ràng nhưng các giải pháp, thì rất ít hay có thể nói là không có. Ông Gorbachev nhận ra con đường của mình là phải tái cấu trúc hệ thống kinh tế và chính trị của Liên Xô như đã hứa nhưng ông lại bị kẹt giữa những thế lực đối lập to lớn: Một bên là những thói quen đã ăn sâu bởi 70 năm từ cái nôi của chủ nghĩa cộng sản; mặt khác, yêu cầu phải thay đổi nhanh chóng và bất cứ chướng ngại nào cũng chỉ là tạm thời và nước Nga phải nổ lực để vượt qua.
Không giống như hầu hết các lãnh tụ Cộng sản, ông Gorbachev biến việc tiếp xúc với công nhân thành một thông lệ thường nhật. Hình trên, Ông đã gặp gỡ các công nhân tại một nhà máy ở Kuibyshev vào năm 1986. Ảnh © Keystone-France / Gamma-Keystone, qua Getty Images
Hậu quả của sự mâu thuẫn này là một cuộc đảo chính chống lại ông bởi những người Cộng sản bảo thủ mà chính ông đã đưa vào chính phủ của mình. Sự cởi mở chính trị mà ông Gorbachev tìm kiếm - cái được gọi là glasnost - và chính sách cãi cách perestroika của ông, nhằm tái cấu trúc nền tảng của xã hội, đã trở thành một con dao hai lưỡi. Như ông đã nói, khi bắt tay điền vào những “chỗ trống” của lịch sử Liên Xô, bằng việc thảo luận thẳng thắn về những sai lầm của chế độ, ông đã cố gắng dung hòa với các đồng minh thiếu kiên nhẫn đã không hoàn toàn tin tưởng ông và bộ máy quan liêu Cộng sản đe dọa tấn công ông.
Tuy nhiên, năm năm cầm quyền đầu tiên của ông Gorbachev được đánh dấu bằng những thành tích đáng kể, thậm chí có thể gọi là phi thường:
■ Ông đạt một thỏa thuận vũ khí với Hoa Kỳ, lần đầu tiên loại bỏ toàn bộ loại vũ khí hạt nhân, và bắt đầu rút hầu hết vũ khí hạt nhân chiến thuật của Liên Xô khỏi Đông Âu, nhất là Ukraine.
■ Ông đã rút các lực lượng quân sự Liên Xô khỏi Afghanistan, thừa nhận ngầm rằng cuộc xâm lược năm 1979 và cuộc chiếm đóng kéo dài 9 năm của Liên Xô tại đây đã thất bại.
■ Cuối cùng ông đã phơi bày thảm họa nhà máy điện hạt nhân ở Chernobyl trước công chúng, một hiện tượng chưa từng thấy ở Liên Xô XHCN.
■ Ông ủng hộ các cuộc bầu cử đa đảng ở các thành phố của Liên Xô, một cuộc cải cách dân chủ ở nhiều nơi đã khiến các nhà lãnh đạo Cộng sản choáng váng vì mất việc.
■ Ông đã giám sát một cuộc tấn công chống tham nhũng trong giới thượng lưu của Đảng Cộng sản. Cuộc thanh trừng này đã loại bỏ hàng trăm viên chức đảng viên Cộng sản khỏi chức vụ của họ.
■ Ông trả tự do cho nhà bất đồng chính kiến bị giam giữ Andrei D. Sakharov, nhà vật lý có công trong việc phát triển bom khinh khí của Liên Xô.
■ Ông đã dỡ bỏ các hạn chế đối với các phương tiện truyền thông, cho phép xuất bản những cuốn sách đã bị kiểm duyệt trước đây và những bộ phim bị cấm trước đây được chiếu.
■ Trong một sự khác biệt hoàn toàn so với lịch sử chính thức của chủ nghĩa vô thần ở Liên Xô, ông đã thiết lập các mối quan hệ ngoại giao chính thức với Vatican và giúp ban hành luật tự do lương tâm đảm bảo quyền của người dân được “thỏa mãn nhu cầu tinh thần của họ”.
Nhưng nếu ông Gorbachev được tuyên dương ở nước ngoài là đã góp phần thay đổi thế giới - ông được trao giải Nobel Hòa bình năm 1990 - thì ở quê nhà ông đã bị chỉ trích là đã không thực hiện được lời hứa về thay đổi kinh tế. Nhiều nhận định quốc tế cho rằng trong một cuộc bỏ phiếu tự do, ông Gorbachev có thể đã được bầu làm tổng thống ở bất kỳ đâu ngoại trừ Liên Xô.
Sau 5 năm của tổng thống Gorbachev, các kệ hàng vẫn trống trơn trong khi liên minh Xô Viết tan rã. Ông Shevardnadze, người từng là cánh tay phải của ông trong việc chấm dứt hòa bình sự kiểm soát của Liên Xô ở Đông Âu, từ chức vào cuối năm 1990, cảnh báo rằng một chế độ độc tài đang đến và những kẻ phản động trong Đảng Cộng sản sắp sửa cải cách theo chiều hướng thuận lợi cho họ. .
Peter Reddaway, một tác giả và học giả về lịch sử Nga, cho biết vào thời điểm đó: “Chúng tôi nhìn thấy khía cạnh tốt nhất của lãnh tụ Gorbachev. Nhưng người dân Liên Xô không nhìn thấy điều này, và đã quy trách nhiệm thất bại về kinh tế cho ông”.
Hình chụp năm 1983 ông Yuri V. Andropov, người đứng đầu K.G.B. và là thủ tướng một thời gian, cố vấn của ông Gorbachev. Ảnh của © Sovfoto / UIG, qua Getty Images
Người Con của nông dân
“Tôi thích ông Gorbachev,” Thủ tướng Anh Margaret Thatcher tuyên bố “Chúng ta có thể kinh doanh cùng nhau.” Ảnh chụp cùng vợ chồng ông Gorbachev. Ảnh © Keystone / Getty Images
Trong thời kỳ đầu của cuộc đời ông, có rất ít điều khiến người ta nghĩ rằng Mikhail Gorbachev có thể trở thành một nhà lãnh đạo năng động như vậy. Tiểu sử chính thức được phát hành sau khi ông trở thành chủ tịch đảng, chỉ ghi ông là một người Cộng sản tốt, trung thành.
Mikhail Sergeyevich Gorbachev sinh ngày 2 tháng 3 năm 1931 tại Privolnoye, một làng nông nghiệp ở vùng Stavropol của Caucasus. Cha mẹ anh là những người nông dân chân chính, kiếm cơm bằng mồ hôi trên những thửa ruộng. Trong thời thơ ấu của ông, việc cưỡng bức hợp tác xã đất đai đã biến một vùng đất từng màu mỡ thành “một vùng thảm họa đói kém”. Nhà văn và nhà sinh vật học Zhores A. Medvedev đã viết trong tiểu sử về ông Gorbachev : “Số người chết vì đói rất cao. “Ở một số làng, tất cả trẻ em từ 1 đến 2 tuổi đều chết”.
Trong vòng bảy tháng với tư cách là lãnh đạo đảng, ông Gorbachev đã thay thế hầu hết các thành viên cũ của Bộ Chính trị. Eduard A. Shevardnadze, phải, một bí thư đảng tương đối ít tên tuổi và có tư tưởng cải cách từ Georgia, đã trở thành ngoại trưởng. © Dominique Faget / Agence France-Presse - Getty Images
Misha, như Mikhail được biết đến, là một cậu bé có đôi mắt sáng và những bức ảnh ban đầu cho thấy cậu đội chiếc mũ lông thú của Cossack. Cậu lớn lên trong một ngôi nhà rơm rạ trộn lẫn với bùn và phân và không có hệ thống nước trong nhà. Nhưng gia đình của ông rất được kính trọng trong số những người theo đảng Cộng sản. Ông Gorbachev đã viết trong cuốn sách “Hồi Ký” rằng cả hai ông nội, ngoại của ông đã bị bắt vì tội chống lại nhà nước Nga Hoàng. Tuy nhiên, ảnh hưởng của tư tưởng Xô Viết không phải là tất cả; Mẹ và bà của cậu bé Gorbachev đã làm lễ rửa tội cho ông.
Sau khi tốt nghiệp trường tiểu học của làng, ông theo học trường trung học ở Krasnogvardeisk và gia nhập Komsomol, tổ chức đoàn thanh niên của Đảng Cộng sản. Trong khi cha ông chiến đấu trong Thế chiến thứ hai, cậu Gorbachev làm việc như một đoàn viên hậu cần. Sau chiến tranh, ông được ban cho Huân chương Lao động Cờ đỏ.
Năm 1950, ở tuổi 19, ông rời nhà để theo học Đại học Tổng hợp Moscow, một cuộc hành trình dài hơn 850 dặm đưa ông qua một vùng quê nghèo khó, bị tàn phá đầu tiên bởi quá trình hợp tác xã hóa và sau đó là cuộc chiến tranh với Đức trong Thế chiến thứ hai. Trạm cuối của chuyến đi là Stromynka, một ký túc xá rộng lớn, khắc khổ và đông đúc - tám đến 15 sinh viên một phòng - từng là doanh trại quân đội vào thời Peter Đại đế.
Sau khi trở thành sinh viên luật, đoàn viên Gorbachev được phép đọc sách, những cuốn sách bị cấm đối với các sinh viên khác, về lịch sử các ý tưởng chính trị. Cậu trở nên quen thuộc với Machiavelli, Hobbes, Hegel và Rousseau. (Nhiều năm sau, trong cuộc họp của Đại hội Đại biểu Nhân dân đã bổ nhiệm ông làm tổng thống kiểu Mỹ, các đại biểu được nhìn thấy ông mang theo các bản sao của Hiến pháp Hoa Kỳ và hỏi các quan sát viên Hoa Kỳ về hệ thống phân quyền “kiểm tra và cân bằng”.)
Vào tháng 3 năm 1990, ông Gorbachev trở thành tổng thống đầu tiên của Liên Xô, giành được 59% số phiếu trong Đại hội đại biểu nhân dân. © V. Armand / Agence France-Presse - Getty Images
Ông Gorbachev là nhà lãnh đạo Liên Xô đầu tiên kể từ thời Lenin đã theo học trường Luật, và kinh nghiệm khi còn là sinh viên của khoa hùng biện trong phòng xử án đã giúp ông trở thành một nhà hùng biện trước công chúng. Các sinh viên Nga Sô thời đó nhớ lại ông là người tự tin, thẳng thắn và cởi mở, nhưng cũng có thủ đoạn không liêm chính khi cần khai trừ đối thủ. Theo tạp chí Time, ông đã tự nhận để chiếm được ghế đoàn trưởng đoàn thanh niên Cộng sản của lớp, ông đã tìm cách làm cho người tiền nhiệm say xỉn và sau đó tố cáo đạo đức của người này trong cuộc họp ngày hôm sau.
Để bắt đầu tiết kiệm chi phí quốc phòng, ông Gorbachev đã kết thúc cuộc can thiệp quân sự của Nga vào Afghanistan, kéo dài từ 9 năm kể từ tháng 12 năm 1979. Ảnh © Vitaly Zaporozhchenko / Associated Press
Hầu hết các tài liệu đều nói rằng sau khi gia nhập Đảng Cộng sản, ông Gorbachev là một đảng viên trung thành, mặc dù trong cuốn sách “Về đất nước tôi và thế giới”, ông viết rằng ông có những dè dặt về Stalin, điều mà ông chỉ bày tỏ một cách riêng tư.
Một buổi tối, bạn bè lôi kéo ông đến một lớp học khiêu vũ cổ điển, nơi ông thấy mình nhảy waltz với một nữ sinh viên triết học sống động và hấp dẫn tên là Raisa Maximovna Titarenko. Họ bắt đầu hẹn hò. Là một người tỉnh thành hơn cậu bé nhà quê Gorbachev, Raisa đã đưa Mikhail bảo thủ và nghiêm túc đến các buổi hòa nhạc và các viện bảo tàng, lấp đầy các khoảng trống trong giáo dục văn hóa của ông. Họ kết hôn vào năm 1953.
Nhưng một cuộc sống hào nhoáng thành thị trong một xã hội đang trong giai đoạn phát triển của Moscow không phải là điều mà cậu đoàn viên đảng Cộng sản thích hợp ngay lập tức. Cậu Gorbachev trở về tỉnh nhà vào năm 1955, dẫn theo người vợ trẻ của mình. Năm tiếp theo, ông được bổ nhiệm làm bí thư đảng cho vùng Stavropol.
Đó là bước khởi đầu cho sự nghiệp chính trị của ông - ông bắt đầu thăng tiến trong các chức vụ ở thành phố - nhưng nó cũng giữ ông ở lại Stavropol trong 22 năm tiếp theo. Đến năm 1970, ông được bổ nhiệm làm tỉnh ủy toàn vùng Stavropol, một chức vụ tương đương với thống đốc một tiểu bang của Mỹ trên một số khía cạnh. Ông cũng tốt nghiệp về canh nông và trở thành một nhà cải cách, sẵn sàng thách thức một số nguyên tắc của nền kinh tế hợp tác xã tập trung. Chủ trương trả đất về lại cho tư nhân làm chủ và chính sách tiền thưởng, sản xuất nông nghiệp ở một số nơi đã tăng tới 50%. Nhưng thời tiết xấu và sự phân phối máy móc nông trại không đồng đều vì thiếu thốn đã gây ra tình trạng mất mùa, một thất bại mà những người chống đối đã vu toàn bộ trách nhiệm cho ông.
Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa một nhà lãnh đạo Liên Xô và người đứng đầu Giáo hội Công giáo La Mã, Giáo hoàng John Paul II diễn ra vào năm 1990. © Luciano Mellace / Reuters
Trong một vài tháng của cao trào đòi hỏi cách mạng dân chủ vào năm 1989, sân khấu chính trị của châu Âu đã thay đổi. Vào tháng 12, nhà viết kịch lưu vong Vaclav Havel được bầu làm tổng thống Tiệp Khắc. © Lubomir Kotek-Gerard Fouet / Agence France-Presse - Getty Images
Ảnh hưởng bởi Khrushchev
Một người có ảnh hưởng lớn đối với ông Gorbachev thời trẻ là nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita S. Khrushchev. “Bài phát biểu bí mật” của Khrushchev trước Đại hội Đảng lần thứ 20 năm 1956 đã phơi bày sự thống trị của khủng bố thời Stalin - các cuộc thanh trừng, bắt bớ hàng loạt và các trại lao động - và làm thay đổi cục diện chính trị Liên Xô, tạo ấn tượng sâu sắc đối với ông Gorbachev.
Chiến dịch chống tham nhũng, đặc quyền của đảng và sự kém hiệu quả của bộ máy hành chính của Khrushchev cũng vậy. Ông Gorbachev và những người khác trong thế hệ của ông đã tự gọi mình là “những đứa trẻ của Đại hội 20”.
Không giống như hầu hết những người hoạt động trong đảng, ông Gorbachev dành thời gian tiếp xúc với công nhân thành một thói quen. Nhưng quan trọng hơn đối với tương lai chính trị của ông, vị trí lãnh đạo đảng tại Stavropol cho phép ông tiếp cận với tầng lớp tinh hoa của đảng Cộng sản, những người đã đến vùng này vì những trung tâm nghĩ dưỡng - dachas, trong số đó có những nơi hầu như chỉ dành cho các Ủy viên của Bộ Chính trị, cơ quan cầm quyền của đảng.
Nhiệm vụ của ông Gorbachev với tư cách là lãnh đạo đảng địa phương là chào đón họ, đưa họ đến các dachas, chiêu đãi họ và đưa họ ra tận ga xe lửa để họ trở về lại Moscow. Nhiều người đã già yếu, mang nhiều bệnh tật, lãnh đạo ốm yếu này tiếp nối lãnh đạo già nua khác: Thủ hiến Alexei N. Kosygin, bị bệnh tim; Yuri V. Andropov, người đứng đầu K.G.B. trong một thời gian ngắn bị vấn đề về thận; Mikhail A. Suslov, nhà tư tưởng đảng, người đã gắn bó với ông Gorbachev như một đối trọng trẻ tuổi đối với bè phái già cỗi xung quanh nhà lãnh đạo tối cao, Leonid I. Brezhnev.
Đám đông leo lên xe tăng ở Quảng trường Đỏ sau khi hãng thông tấn chính thức Tass thông báo rằng ông Gorbachev đã bị lật đổ. © Boris Yurchenko / Associated Press
Ông Suslov và ông Andropov đã trở thành những người đồng minh đắc lực của ông Gorbachev, cũng như Fyodor D. Kulakov, người được đưa vào Bộ Chính trị năm 1971 phụ trách về nông nghiệp. Khi ông Kulakov, người được coi là người có thể kế vị ông Brezhnev, qua đời vào năm 1978, ông Gorbachev đã được chọn để đọc diễn văn chính thức của đảng trong tang lễ. Đó là bài phát biểu đầu tiên của ông Garbachev tại Quảng trường Đỏ, và đó cũng là lần đầu tiên khán giả truyền hình Nga nhìn thấy người đàn ông có vết bớt hình quả dâu tây đặc biệt trên trán.
Trở lại Stavropol, ông Gorbachev đã có mặt để đón tiếp ông Brezhnev và Konstantin U. Chernenko, một Ủy viên Bộ Chính trị quan trọng. Ông Andropov, người đang nghỉ ngơi tại một dacha gần đó, cũng đến chào đón họ. Đó là một khoảnh khắc đáng chú ý trong lịch sử Liên Xô. Như tạp chí Time đã ghi nhận “Trên sân ga hẹp có sự hiện diện của bốn người đàn ông sẽ thống trị Liên Xô: Brezhnev, Andropov, Chernenko và Gorbachev.”
Cuộc họp dường như đủ để thuyết phục ông Brezhnev rằng ông Gorbachev là người tiếp quản vấn đề “cốt lõi” nông nghiệp cho Ủy ban Trung ương. Ý kiến của ông có thể đã được củng cố bởi lời phê bình đầy ngưỡng mộ của ông Gorbachev đối với cuốn hồi ký viết của ông Brezhnev, “Vùng đất nhỏ”. Trong cuốn sách “Lăng mộ của Lenin: Những ngày cuối cùng của Đế chế Xô Viết”, David Remnick đã trích lời ông Gorbachev viết, “Những người cộng sản và tất cả những người lao động ở Stavropol bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với Leonid Ilyich Brezhnev về tác phẩm văn học thấm nhuần triết học sâu sắc này.”
Đó là thứ ngôn ngữ “con vẹt” của đảng. Nhưng ẩn bên trong, là một lòng nhiệt thành với cải cách.
Có nhiều điều phải cải tổ khi ông Gorbachev trở lại Moscow vào năm 1978 sau chuyến công tác dài ngày ở các tỉnh. Hầu như không có nỗ lực nào để giải quyết tình trạng tham nhũng tràn lan. Ông Brezhnev đã già và ốm yếu. Bà con của ông ta đang bị điều tra vì những giao dịch mờ ám. Bộ máy hành chính đã phình to. Tiền lương thấp; mọi người đứng xếp hàng tại các cửa hàng trong giờ làm việc, dù thường không tìm thấy gì để mua. "Họ giả vờ trả tiền cho chúng tôi", một khẩu hiệu phổ biến thời đó "và chúng tôi giả vờ làm việc."
Chính ông Andropov, lãnh đạo cao cấp trong Bộ Chính trị, người đàng sau sự thăng tiến của ông Gorbachev ghê tởm với tình trạng tham nhũng lan tràn đã tìm cách ngăn chặn nó, nhưng ông biết rằng để làm được điều này ông sẽ phải “đụng” với đám “cận thần” của ông Brezhnev. Ông Andropov nhìn thấy ở ông Gorbachev một đồng minh đắc lực để chống tham nhũng.
Sự thăng tiến của ông Gorbachev vào Bộ Chính trị nhanh hơn bất kỳ ai kể từ thời Stalin. Trước sinh nhật lần thứ 50, ông Gorbachev đã là Bí thư Trung ương đảng, một vị trí đặt ông vào trọng tâm sau cùng của quyền lực. Khỏe mạnh và đầy năng lực, ông nổi bật giữa hàng ngủ đảng viên Cộng sản, trẻ hơn một phần tư thế kỷ so với 20 người ở những vị trí cao hơn ông. Ông trở thành thành viên chính thức của Bộ Chính trị vào năm 1980.
Ông Brezhnev qua đời vào ngày 10 tháng 11 năm 1982, và người kế nhiệm ông, ông Andropov, đã tiến hành một chiến dịch chống tham nhũng kéo dài một năm - buộc những công nhân vắng mặt không nghỉ phép trở lại làm việc, thanh trừng bộ máy quan liêu và bổ nhiệm những người trẻ hơn làm các văn phòng hàng đầu. Ông giao cho ông Gorbachev trách nhiệm lớn hơn đối với nền kinh tế và bổ nhiệm ông làm thành viên Bộ Chính trị kiêm bí thư ủy ban phụ trách tư tưởng, coi như ông là nhân vật số 2 trong đảng và như thế ông là nhân vật quyền lực thứ 2 của cả nước Nga sau Andropov.
Nhưng khi ông Andropov qua đời vào ngày 9 tháng 2 năm 1984, ở tuổi 69, sau một năm dài bệnh tật suy nhược, Bộ Chính trị không chỉ định ông Gorbachev mà là ông Chernenko, 72 tuổi, làm tổng bí thư. Ông Gorbachev được chỉ định đọc bài phát biểu đề cử này trước HĐ Xô Viết Tối cao, cơ quan lập pháp cao nhất của quốc gia, một vai trò khiến ông trở thành vị trí thứ hai. Thế hệ cũ sẽ được phép rút lui một cách nhẹ nhàng. Nhưng ông Chernenko yếu vì bệnh khí thũng đến mức không thể nhấc tay để khiêng quan tài người tiền nhiệm vào Quảng trường Đỏ. Hơn một năm sau, hài cốt của chính ông đã được đưa đến cùng một điểm đến cuối cùng.
Ông Gorbachev đã trải qua cảm giác kinh tế đất nước đình trệ và tham nhũng trong những năm Brezhnev, nhưng phải đến khi chuyển sang các chức vụ quyền lực dưới thời Andropov và Chernenko, ông mới thấy vấn đề tê liệt như thế nào. Với tư cách là Bí thư Ủy ban Trung ương, ông đã sắp xếp một khóa học về khủng hoảng kinh tế và tổ chức các cuộc hội thảo đặc biệt về giải cứu ngành nông nghiệp.
Ông đã thể hiện sự linh hoạt hiếm có đối với các nhà lãnh đạo Liên Xô. Trích lời Lenin trong một bài phát biểu, ông nói nhiệm vụ chính của đất nước là "huy động tối đa sáng kiến và thể hiện tối đa nền độc lập." Từ perestroika (tái cấu trúc) đã hình thành trong tâm trí ông.
Tuy nhiên, ông đã gây ấn tượng với Tây Phương như một người Mác-xít tận tâm sẵn sàng chấp nhận những báo cáo không nghi ngờ về tình trạng nghèo đói của Nga phổ biến ở Hoa Kỳ và quan điểm chung rằng các tổng thống Hoa Kỳ đã nhận lệnh từ những đại công ty sản xuất vũ khí. Ông dường như tin rằng Hoa Kỳ đang có xu hướng xâm lược quân sự.
Vào ngày 26 tháng 12 năm 1991, sự kết thúc chính thức của Liên Bang Xô Viết trở thành chính thức khi ông Gorbachev từ chức chủ tịch Liên minh các nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết. © Vitaly Armand / Agence France-Presse - Getty Images
Nhưng ông cũng hiểu sức mạnh của ý kiến quần chúng phương Tây và vấn đề nhân cách. Năm 1983 trong một chuyến thăm Canada, lần đầu tiên có một chuyến công du chính thức của một lãnh tụ Xô Viết trò chuyện với phụ nữ, chú tâm đến con của họ và công khai bày tỏ sự ngạc nhiên trước hiệu quả của người lao động Canada và sự màu mở của đất cát nước này.
Một năm sau, ông đến Anh, nơi ông đã gây ấn tượng với người Anh về kiến thức của mình về văn học của họ. Đến thăm Bảo tàng Anh, nơi Karl Marx đã thực hiện nhiều nghiên cứu của mình, ông đã đùa rằng, "Nếu mọi người không thích Marx, họ nên đổ lỗi cho Bảo tàng Anh."
Nhưng khi một nhà lập pháp người Anh đề cập đến vấn đề đàn áp các nhóm tôn giáo ở Liên Xô, sự hài hước tốt đẹp của ông Gorbachev đã biến mất. “Bạn quản lý xã hội của bạn,” ông cáu kỉnh, “xin bạn để chúng tôi điều hành xã hội của chúng tôi.”
Tuy nhiên, dân Anh đã được đưa đi cùng với ông Gorbachev và người vợ thời trang của ông, bà Raisa được nhìn thấy sử dụng thẻ vàng American Express để mua sắm tại Harrods. “Tôi thích ông Gorbachev,” Thủ tướng Margaret Thatcher nói vào năm 1984. “Chúng ta có thể hợp tác cùng nhau.” Sau đó, bà khuyến khích Tổng thống Ronald Reagan và ông Gorbachev cũng nên hợp tác với nhau.
“Nụ cười đẹp, hàm răng sắt”
Với cái chết của ông Chernenko vào ngày 10 tháng 3 năm 1985, ông Gorbachev, người thay thế vị lãnh đạo ốm yếu này, tiến hành việc giải giới phe đối lập và nắm quyền. Tại một cuộc họp được gọi là cấp tốc của Bộ Chính trị, Andrei A. Gromyko, bộ trưởng ngoại giao lâu năm, đã tranh luận về trường hợp của ông Gorbachev. "Các đồng chí," ông nói trong một bài phát biểu, "người đàn ông này có một nụ cười đẹp, nhưng ông ta có hàm răng sắt."
Bộ Chính trị Trung ương - Politburo chấp thuận đề cử vào ngày 10 tháng 3 năm 1985. Thật nhẹ nhõm, một thành viên của Politburo đã nhận xét: “Sau một lãnh đạo đã chết nửa người, một lãnh đạo sống nửa người, xuất hiện một người khác trẻ trung, tràn đầy năng lượng. Gorbachev rất được hoan nghênh. ”
Các nhà lãnh đạo Liên Xô từ lâu đã giữ chặt quyền lực thông qua việc sùng bái cá nhân, đã sử dụng tối đa việc tuyên truyền và các phương tiện truyền thông nhà nước để tôn vinh họ. Ông Gorbachev đã chấm dứt điều đó. Sẽ không có những bức chân dung khổng lồ của ông dọc theo các con đường chính. Ông kêu gọi các tờ báo ngừng trích dẫn lãnh đạo đảng trong mọi bài báo; viết về Lenin đã đủ rồi. Trong một trường hợp, ông vượt trội hơn các đối thủ trong đảng, trong một ví dụ, ông sắp xếp việc từ chức của chủ tịch đảng tại Leningrad, người nổi tiếng với các sở thích giàu có và thói quen thâm lạm quyền lực cũng như những màn say xỉn của ông ta.
Perestroika và Glasnost (cởi mở) đã trở thành những từ khóa của thời đại Gorbachev. Ông ta sẽ cho mọi người gặp trực tiếp khi ông ta đến thăm bệnh viện, nhà máy và trường học, và sẽ hỏi họ nghĩ rằng mọi thứ đã sai ở đâu.
Sẽ không có làng Potemkin: sau khi thông báo rằng đang đến thăm bệnh viện này thì ông Gorbachev đến một bệnh viện khác, để không ai có thời gian để bày ra một bình phong giả dối. Những gì ông ta nhìn thấy và nghe thấy khiến bí thư đảng ở Moscou lúng túng, và ông Gorbachev đã thay thế ông ta, bổ nhiệm ông Boris N. Yeltsin vào vị trí này vào năm 1985 và mở ra một nửa thập kỷ cạnh tranh và hợp tác giữa hai người.
Vào tháng 5 năm 1985, ông Gorbachev đã chọn Viện Smolny, trung tâm của học thuyết Cộng sản, nơi Lenin đã tuyên bố chiến thắng của chủ nghĩa Bolshevism vào năm 1917 để kêu gọi cải cách táo bạo.
Không cần ghi chú, ông ta đã đi tới đi lui, vừa ra hiệu bằng tay, vừa cố khuyên nhủ, vỗ về. Ông nói: “Chúng ta phải thay đổi thái độ của mình, từ công nhân đến bộ trưởng, bí thư Trung ương và các nhà lãnh đạo chính phủ địa phương. Những người không có ý định thay đổi sẽ là trở ngại cho việc giải quyết các nhiệm vụ mới phải đơn giản tự thoát ra khỏi con đường phải đi” ông tiếp tục. “Tránh ra! Đừng cản trở! " Ông yêu cầu làm việc chăm chỉ hơn và các sản phẩm "đạt tiêu chuẩn thị trường thế giới - không kém."
Bài phát biểu được phát trên truyền hình nhà nước ba ngày sau đó. Ông Medvedev, người viết tiểu sử của ông, viết: “Công chúng, từ lâu đã không còn hứng thú với sự xuất hiện trước công chúng của các nhà lãnh đạo đảng, đã bị thu hút.”
Trong vòng bảy tháng, ông Gorbachev đã thay thế hầu hết các ủy viên nồng cốt của Bộ Chính trị. Năm sau, ông thay thế 41% số thành viên bỏ phiếu của Đại hội Đảng lần thứ 27 và đẩy các sĩ quan quân đội hàng đầu và hàng nghìn quan chức về hưu.
Ngay cả ông Gromyko, người có uy tín trong đảng đã đề cử ông, đã bị cách chức ngoại trưởng sau 28 năm và sau khi được thăng cấp lên vị trí chủ tịch của Đoàn Chủ tịch Xô Viết Tối cao, hoặc chủ tịch nước. Ông được thay thế bởi ông Shevardnadze, khi đó là một bí thư đảng tương đối vô danh và có tư tưởng cải cách từ Georgia.
Nếu phong cách của ông Gorbachev khiến ông nổi tiếng, thì những cải cách của ông sẽ ít được hoan nghênh hơn, vì nó không khác gì chiến dịch kiềm chế cơn khát rượu của cả nước. Ông Gorbachev từ những năm còn sống dưới thời ông Andropov biết rõ vodka đã gây ra thiệt hại lớn như thế nào đối với lực lượng lao động và các gia đình.
Hai tháng sau khi nhậm chức, ông cắt giảm sản xuất rượu vodka, tăng tiền phạt vì say xỉn nơi công cộng, giảm số lượng các địa điểm có thể bán rượu và giới hạn giờ mở cửa của các cơ sở này, tăng giá đồ uống có cồn lên 15%. 30% và nâng độ tuổi uống rượu hợp pháp từ 18 lên 21.
Ông đã thiết lập các chương trình để giải quyết các nguyên nhân của chứng nghiện rượu. Trong các bữa tiệc chiêu đãi và tiệc chiêu đãi chính thức, những chiếc bàn từng chất đầy đủ loại vodka nay chỉ được cung cấp nước khoáng và nước hoa quả. Những chiếc ly thủy tinh từng là một phần của mọi bàn ăn, và được nâng lên để nâng ly chúc mừng sau khi nâng ly, đã biến mất.
Chương trình được chào đón bằng những lời càu nhàu. Vodka từ lâu đã trở thành một mặt hàng chủ lực của Nga, để thoát khỏi những điều kiện tồi tệ của cuộc sống, chưa kể đến nguồn gốc của một ngành công nghiệp nội địa trị giá hàng tỷ đô la. Nhiều người thậm chí còn tố cáo các quy định mới là một cuộc tấn công vào văn hóa Nga. Tại một vài cửa hàng bán ve chai còn sót lại, những hàng dài ngoằn ngoèo ngoài cửa và xung quanh các góc được gọi là cái mủi của Gorbachev - “Gorbachev’s nooses”.
Sự sản xuất rượu lậu khiến đường trở nên khan hiếm. Đến năm 1987, nạn buôn lậu rượu khiến thuế thu nhập giảm khoảng 100 tỷ rúp. Và mặc dù nhiều người đã được cứu sống, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng hơn 10.000 người đã chết vì ngộ độc khi uống rượu lậu, không tinh chế. Tuy nhiên, đầu hàng trước sự bất bình của công chúng, ông Gorbachev bắt đầu nới lỏng chiến dịch chống rượu vào năm 1988.
Mở rộng hệ thống Đảng
Là một người cộng sản trung thành, ông Gorbachev đã có ý định thông qua đảng để cải tạo xã hội Xô Viết. Nhưng rõ ràng với ông việc mày mò sẽ không bao giờ là đủ để sửa chữa những gì đã bị hỏng. Các thay đổi sẽ phải rộng rãi khi đụng các vấn đề sâu sắc. Ông đã thấy rằng chủ nghĩa cộng sản không còn có thể là lực lượng thống trị trong đời sống Xô Viết.
Chống lại ông tại quê nhà là khoảng 18 triệu quan chức đảng và nhà nước, những người mà sự sống còn phụ thuộc vào chế độ. Do đó, ông đi theo con đường ngoằn ngoèo giữa sự thay đổi và sự chính thống, tiến lên vài bước, rồi lùi lại vài bước, đáp ứng nhu cầu phổ biến trong khi cố gắng xoa dịu những người trung thành trong đảng. Ông kêu gọi phục hưng chủ nghĩa Mác trong khi tìm cách phá bỏ cấu trúc chính trị đã ủng hộ sự thống trị của những người Cộng sản.
Sự độc quyền về quyền lực của đảng sẽ được thay thế bằng một hệ thống đa đảng. Ông Gorbachev đã mở rộng, và làm suy yếu Bộ Chính trị, và loại bỏ chức vụ tổng bí thư, cái xác mà các nhà lãnh đạo Liên Xô đã kiểm soát đất nước kể từ thời Stalin, thay thế nó bằng một tổng thống dân cử - chính ông - được hỗ trợ bởi một hội đồng tổng thống, của các cố vấn.
Vào tháng 2 năm 1990, Ủy ban Trung ương Đảng đã tán thành. Vào tháng 3, ông Gorbachev trở thành tổng thống đầu tiên của Liên Xô, giành được 59% số phiếu trong Đại hội Đại biểu Nhân dân.
Nhiệm kỳ tổng thống mới đến với nhiều quyền lực - nhiều người sợ rằng ông sẽ vượt quá quyền hạn của một vị sa hoàng - nhưng ông Gorbachev cam kết sử dụng nó để kéo một quốc gia trì trệ hướng tới một nền kinh tế thị trường, chấp nhận những thay đổi đau đớn khó tránh.
Kế hoạch mà ông và các cố vấn của ông đưa ra ban đầu là một hình thức trị liệu sốc, chương trình "500 ngày" để hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân, xóa bỏ trợ cấp, định giá theo định hướng thị trường và tạo ra một loại tiền tệ có giá trị.
Ông Gorbachev sớm thấy mình bị kẹt giữa gọng kìm của chủ nghĩa glasnost đã thành danh và perestroika bị trì hoãn. Những thay đổi đã hứa trong nền kinh tế đã bị trì hoãn, nhưng người dân có thể thoải mái phàn nàn về khoảng cách giữa lời hứa và hiệu suất. Sự bất mãn của công chúng trở nên dữ dội đến mức lan sang cuộc diễu hành Ngày tháng Năm năm 1990, khi những người biểu tình diễu hành qua Quảng trường Đỏ, hô hào và chế giễu các nhà lãnh đạo của họ đang đứng trên đỉnh Lăng Lenin. “Gorbachev, mọi người không tin tưởng bạn - hãy từ chức,”. Một biểu ngữ khác: "Thực phẩm không phải là một thứ xa xỉ."
Ông Gorbachev cuối cùng đã từ chối việc thể chế hóa kế hoạch của mình, vì lo ngại sự chấn thương và trật chìa mà nó sẽ gây ra. Một cộng sự viên thân cận, Aleksandr N. Yakovlev, được The Washington Post dẫn lời than thở rằng ông Gorbachev đã từ chối “cơ hội cuối cùng để chuyển đổi nước Nga sang một trật tự mới”.
“Đó có lẽ là sai lầm tồi tệ nhất, nguy hiểm nhất của ông ta”.
Đến năm 1990, công cuộc cải cách - perestroika được cho là đã thất bại. Theo một cuộc thăm dò, cứ sáu người dân Moscou thì có một người muốn di cư, trong đó có 1/4 trong độ tuổi từ 18 đến 50. Tỷ lệ tội phạm đang tăng cao, và cải thiện kinh tế dường như là một giấc mơ viển vông. Cải cách thể chế chính trị, từ Caucasus đến Baltics, tỏ ra khó khăn. Tinh thần quân đội xuống thấp. Và ông Gorbachev tỏ ra không chắc chắn về phương cách sửa chữa các vấn đề.
Để thực hiện bất kỳ cải cách nào và đảo ngược sự trượt dốc kinh tế của đất nước mình, ông Gorbachev cần một thế giới hòa bình. Các thỏa thuận kiểm soát vũ khí với Hoa Kỳ sẽ cho phép ông cắt giảm ngân sách quân sự và dành tiền cho các chương trình trong nước.
Tổng thống Reagan hiểu hoàn cảnh của ông Gorbachev và tìm cách khai thác triệt để. Ông Reagan tăng ngân quỹ quốc phòng của Mỹ, làm thâm hụt ngân sách của chính Hoa Kỳ, với hy vọng rằng bất kỳ nỗ lực nào của Liên Xô để theo kịp tốc độ cuối cùng sẽ buộc Nga phá sản và làm suy yếu hệ thống phòng vệ của thế giới Cộng sản.
Để bắt đầu tiết kiệm chi phí quân sự, ông Gorbachev đã kết thúc cuộc khủng hoảng quân sự ở Afghanistan, quốc gia đã trở thành Việt Nam của Liên Xô. Sự can thiệp, bắt đầu vào tháng 12 năm 1979, nhằm mục đích hỗ trợ chính phủ theo chủ nghĩa Mác-Lênin của Afghanistan chống lại phe đối lập Bản địa, các bộ lạc Afghanistan và các tình nguyện viên nước ngoài, nhiều người trong số họ là người Ả Rập. Nhưng nó đã kéo dài 9 năm và cướp đi sinh mạng của 15.000 người Liên Xô trước khi lực lượng Xô Viết cuối cùng bị rút ra vào năm 1989.
Cuộc rút lui đã kịch tính hóa sự đoạn tuyệt của ông Gorbachev với chính sách đối ngoại linh hoạt của thời Brezhnev. Tám tháng sau, vào ngày 23 tháng 10 năm 1989, ông Shevardnadze, ngoại trưởng, nói với cơ quan lập pháp Liên Xô rằng chuyến thám hiểm Afghanistan đã vi phạm luật pháp Liên Xô và các chuẩn mực hành vi quốc tế. Ông nói, cuộc xâm lược, "với những hậu quả nghiêm trọng như vậy đối với đất nước chúng ta, đã được thực hiện sau lưng của đảng và nhân dân."
Trong bài phát biểu tương tự, một lần nữa phá vỡ quá khứ của Brezhnev, ông Shevardnadze thừa nhận rằng việc xây dựng một trạm radar cảnh báo sớm gần Krasnoyarsk ở Siberia, như Washington đã tranh chấp từ lâu, đã vi phạm Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo năm 1972 với Hoa Kỳ.
Vào thời điểm đó, Hoa Kỳ đang hướng tới một hệ thống chống tên lửa dựa trên không gian, mà các nhà phê bình cho rằng nó cũng vi phạm hiệp ước. Ông Gorbachev đang nhắm tới các thỏa thuận vũ khí mới.
Để theo đuổi mục tiêu đó, ông Gorbachev bắt đầu gặp gỡ với ông Reagan, lần đầu tiên tại Geneva năm 1985, sau đó tại Reykjavik, Iceland, năm 1986, và một lần nữa tại Washington vào năm 1987, để ký một thỏa thuận mang tính bước ngoặt mà lần đầu tiên loại bỏ toàn bộ vũ khí nguyên tử- vũ khí tầm trung và tầm ngắn hơn ở châu Âu - đồng thời kêu gọi kiểm tra tại chỗ để xác minh về các khoản cắt giảm.
Tháng 5 năm 1988, ông Reagan trở thành tổng thống Mỹ đầu tiên đến thăm Moscow sau 14 năm. Sau đó, ông tuyên bố: “Rất có thể chúng ta đang bắt đầu phá bỏ những rào cản của thời hậu chiến. Rất có thể chúng ta đang bước vào một kỷ nguyên mới trong lịch sử - một thời kỳ có nhiều thay đổi lâu dài ở Liên bang Xô Viết ”.
Ông Reagan, người vào năm 1987 đã thách thức ông Gorbachev “phá bỏ” Bức tường Berlin và tuyên bố chấm dứt Chiến tranh Lạnh.
Người kế nhiệm của ông Reagan, George Bush, đã gặp ông Gorbachev vào tháng 12 năm 1989 trong một cuộc họp thượng đỉnh được tổ chức trên các tàu hải quân của Liên Xô và Mỹ ở ngoài khơi Malta. Cuộc gặp có ý nghĩa chôn vùi Chiến tranh Lạnh một lần và mãi mãi và củng cố mối quan hệ mới giữa các siêu cường.
Nhưng "phép thử cuối cùng" đối với sự lãnh đạo của ông, ông Gorbachev thừa nhận với ông Bush, vẫn là nền kinh tế. Sau cuộc hội đàm thượng đỉnh Malta, để khích lệ nhà lãnh đạo Liên Xô, ông Bush đã thực hiện các bước hướng tới một thỏa thuận thương mại sẽ trao quy chế tối huệ quốc cho Liên Xô, giảm thuế quan của Mỹ đối với hàng hóa của Liên Xô và giúp nước này dễ dàng tiếp cận thị trường Mỹ hơn, từ đó sẽ giúp đất nước hiện đại hóa.
Có lẽ cũng quan trọng như các thỏa thuận vũ khí là chuyến thăm của ông Gorbachev tới Vatican vào ngày 1 tháng 12 năm 1989. Cuộc gặp của ông với Giáo hoàng John Paul II là cuộc gặp đầu tiên giữa một nhà lãnh đạo của Liên Xô và người đứng đầu Giáo hội Công giáo La Mã. Chính tại đó, ông Gorbachev đã cam kết thông qua một đạo luật về tự do lương tâm, điều này sẽ đảm bảo quyền của người dân của ông được “thỏa mãn nhu cầu tinh thần của họ”.
Gần 4 tháng sau, Vatican và Liên Xô tuyên bố sẽ khôi phục quan hệ ngoại giao chính thức lần đầu tiên kể từ năm 1923.
Sự sụp đổ của một đế chế
Perestroika của ông Gorbachev đã được ghi lại bằng hình ảnh trong một chương tuyệt đẹp của lịch sử, các chế độ Cộng sản ở Đông Âu lần lượt sụp đổ.
Chỉ trong một vài tháng phấn khởi vào năm 1989, kiến trúc chính trị của Châu Âu đã bị thay đổi bởi nhu cầu về dân chủ. Bảy quốc gia đã bị nhốt sau Bức màn sắt trong hơn bốn thập kỷ một lần nữa được trao trả độc lập. Một số nhà sử học đã xếp năm 1989 có tầm quan trọng ngang bằng với năm 1789, năm khởi đầu của Cách mạng Pháp, và năm 1848, một năm biến động chính trị khắp châu Âu,.
Không có gì để nghi ngờ về việc ông Gorbachev là chất xúc tác của sự thay đổi đó. Bất cứ điều gì xảy ra trong Liên bang Xô Viết, ông Gorbachev sẽ được nhớ đến là người đã khôi phục châu Âu trở lại như trước Thế chiến II, một lục địa gồm các quốc gia độc lập.
Cho đến khi ông đến, Liên Xô đã chấp nhận cái mà phương Tây gọi là học thuyết Brezhnev, theo đó, Điện Kremlin tự cho mình quyền can thiệp vào các vấn đề của các quốc gia Cộng sản trong Khối Warszawa.
Brezhnev đã viện dẫn ngay điều đó vào năm 1968, khi ông điều động lực lượng Liên Xô tiêu diệt phong trào tự do hóa ở Tiệp Khắc, được gọi là Mùa xuân Praha, và Khrushchev đã làm như vậy vào năm 1956, khi quân đội của ông ta đánh tan một cuộc nổi dậy ở Hungary.
Ông Gorbachev đã bải bỏ chính sách đó. Ông nói, nếu một chế độ thất bại - và chỉ riêng nó – thì một tổ chức xã hội chân chính sẽ được quyết định với người dân của họ.
Gennadi I. Gerasimov, phát ngôn viên của ông Gorbachev, đã đọc văn bia trong chuyến thăm Phần Lan vào tháng 10 năm 1989. “Tôi nghĩ rằng học thuyết Brezhnev đã chết,”.
Nhiều tháng trước đó, Ba Lan đã trở thành quốc gia thuộc Khối Warszawa đầu tiên lật đổ những người Cộng sản cầm quyền và chấm dứt quyền lực độc tôn của họ. Trong một cuộc bầu cử dân chủ vào ngày 4 tháng 6, phong trào Đoàn kết đã giành được chiến thắng tuyệt vời trước các ứng cử viên Cộng sản.
Vào ngày 29 tháng 7, Tướng Wojciech Jaruzelski, người vào năm 1981 đã áp đặt thiết quân luật để phá vỡ Đảng Đoàn kết, đã từ chức lãnh đạo Đảng Cộng sản nhưng vẫn giữ chức chủ tịch. Tháng sau, ông bổ nhiệm một quan chức cấp cao của Đoàn kết, Tadeusz Mazowiecki, làm thủ tướng không Cộng sản đầu tiên kể từ những năm đầu sau chiến tranh.
Các nước Đông Âu đã nhanh chóng làm theo, lật đổ chế độ Cộng sản của họ với tốc độ chóng mặt.
Ở Praha vào tháng 10, hàng nghìn người tuần hành đã tập trung về Quảng trường Wenceslas, nơi diễn ra một cuộc đàn áp đẫm máu vào năm 1968, và một lần nữa phải đối mặt với các sĩ quan cảnh sát chống bạo động. Ngày hôm sau, hàng chục nghìn người đã có mặt tại quảng trường.
Khi các cuộc biểu tình ngày càng gia tăng, Alexander Dubcek, nhà lãnh đạo cải cách của Mùa xuân Praha năm 1968, đã được 250.000 người cổ vũ khi ông kêu gọi Tổng thống Gustav Husak và lãnh đạo đảng Milos Jakes từ chức. Ba ngày sau, ông Jakes được thay thế. (Trong bước ngoặt ngoạn mục nhất trong một năm đầy biến động, Vaclav Havel, nhà viết kịch từng bị Cộng sản kiểm duyệt và bỏ tù và người đã trở thành biểu tượng của phe đối lập, đã được bầu làm tổng thống vào tháng 12).
Ở Đông Đức, hàng chục nghìn người, hầu hết là trẻ tuổi, đã rời khỏi đất nước để hướng về phía Tây, chủ yếu qua Tiệp Khắc và Hungary. Hungary đã ký một thỏa thuận cam kết không đưa người tị nạn trở lại đất nước của họ, sau đó bắt đầu cắt qua hàng rào thép gai ngăn cách Đông với Tây tại biên giới với Áo.
Tại Leipzig, hàng trăm nghìn người Đông Đức đã tập hợp tuần hành đòi tự do hàng tuần đòi bầu cử dân chủ, các liên đoàn lao động độc lập và giải tán cảnh sát mật.
Tình trạng bất ổn sớm ập đến Đông Berlin, thủ đô và là biểu tượng hàng rào thép gai ảm đạm của căng thẳng thời Chiến tranh Lạnh. Vào ngày 7 tháng 10, ông Gorbachev, đến thăm thành phố để kỷ niệm 40 năm cai trị của chế độ Cộng sản, đã cảnh báo các nhà lãnh đạo Cộng sản không được sử dụng vũ lực đối với người dân của họ.
Đến tháng 11, các đường phố tràn ngập những người biểu tình. Chính phủ Đông Đức đã cố gắng ngăn chặn chuyến bay sang phương Tây bằng cách công bố dự thảo luật cho phép mọi công dân đi du lịch nước ngoài hoặc di cư.
Vào ngày 9 tháng 11, Bức tường Berlin sụp đổ và làn sóng người Đức tràn sang phía tây.
Ngày hôm sau, nhà độc tài Todor I. Zhivkov từ chức chủ tịch Bulgaria và lãnh đạo Đảng Cộng sản sau khi cầm quyền trong 35 năm, lâu hơn bất kỳ nhà lãnh đạo Đông Âu nào khác.
Ở Romania, đám đông đã tràn ra đường phố Bucharest vào tháng 12, buộc Nicolae Ceausescu, lãnh tụ tàn ác nhất và bị căm ghét nhất trong tất cả các nhà lãnh đạo Cộng sản, phải chạy trốn. Bị bắt trong vòng một ngày, ông ta và người vợ bị căm ghét không kém của mình, Elena, đã bị quân đội xét xử và hành quyết bởi một đội xử bắn.
Ngoại trừ Albania, mọi chế độ Cộng sản toàn trị ở Châu Âu đều đã sụp đổ trước năm mới và thập kỷ mới.
Với những ký ức về Thế chiến thứ hai vẫn còn nguyên vẹn, Moscou không tin rằng một nước Đức thống nhất và hồi sinh là điều đáng được mong đợi. Mặc dù nhiều nước trong Hiệp ước Warsaw hài lòng khi thấy một nước Đức thống nhất trong NATO, nhưng Liên Xô bác bỏ điều đó.
Liên Bang Xô Viết giải thể
Tuy nhiên, hòa bình không ở trong tầm tay ở mọi nơi. Nếu glasnost tự do kiềm chế các cuộc tranh luận công khai ở Liên Xô và làm sáng tỏ những sai lầm trong quá khứ cũng như các vấn đề hiện tại, nó cũng khơi dậy khát vọng dân tộc chủ nghĩa, sự ganh đua tôn giáo và hận thù sắc tộc vốn đã âm ỉ trong các nước cộng hòa thuộc Liên Xô từ trước thời Stalin, Lenin và Marx.
Tại Gruzia vào ngày 9 tháng 4 năm 1989, 19 người đã thiệt mạng khi quân của Bộ Nội vụ sử dụng xe tăng, xẻng và có thể là hơi độc để tấn công những người ly khai Gruzia khi họ đang ca hát và nhảy múa trên đường phố mà người Gruzia cho là một cuộc biểu tình ôn hòa. Cũng có những cuộc biểu tình theo chủ nghĩa dân tộc tương tự ở Uzbekistan, Kazakhstan và Tajikistan.
Người Armenia cũng lấy tự do , dân chủ làm giấy phép để giải quyết các tranh chấp cũ, đặt tầm nhìn của họ vào Nagorno-Karabakh, một lãnh thổ bán tự trị dân cư phần lớn bởi người Armenia nhưng do Azerbaijan quản lý.
Azerbaijan, quốc gia mà đa số dân là người Hồi giáo, đã có một nợ máu kéo dài hàng thế kỷ với Armenia, quốc gia chủ yếu theo đạo Thiên chúa. Trong hơn một năm những người theo chủ nghĩa dân tộc Azerbaijan đã tấn công giao thông đường bộ và đường sắt vào lãnh thổ này.
Vào tháng 1 năm 1990, ông Gorbachev đưa quân vào thủ đô Baku của Azerbaijan. Hơn 140 người đã thiệt mạng trong cuộc giao tranh diễn ra sau đó.
Vào ngày 20 tháng 1 năm 1990, ông Gorbachev đã can thiệp, đưa quân vào thủ đô Baku của Azerbaijan, một thành phố có 2 triệu người trên Biển Caspi. Trong cuộc giao tranh giữa Quân đội Liên Xô và một tổ chức bán quân sự được gọi là Mặt trận Bình dân, hơn 140 người đã thiệt mạng, ít nhất 30 người trong số họ là lính Liên Xô.
Cuộc đối đầu giữa Quân đội Liên Xô chống lại nhân dân Liên Xô không được lòng dân cả nước đến nỗi các bà mẹ đã biểu tình trên đường phố để ngăn con trai của họ bị gửi đến Azerbaijan. Hàng ngàn lính nghĩa vụ đốt thẻ quân dịch của họ, và tỷ lệ đào ngũ tăng cao.
Tại Baku, khi đám đông náo loạn, có báo cáo rằng hơn 500 binh sĩ đã bỏ trốn cùng vũ khí của họ. Ông Gorbachev cuối cùng đã nhượng bộ và rút lui. Không ai có thể nhớ được một nhà lãnh đạo Liên Xô đã từng lùi bước như vậy trước yêu cầu của công chúng.
Thách thức đối với chính quyền trung ương ở Moscow được nhấn mạnh khi người Azerbaijan và Armenia tham chiến đồng ý gặp nhau không phải tại Điện Kremlin mà dưới sự bảo trợ của các nhà lãnh đạo ly khai của ba nước Baltic, Latvia, Litva và Estonia. Các bên đã gặp nhau tại Riga, thủ đô Latvia, và vào tháng 2 năm 1990 đã đồng ý đình chiến.
Nhưng tình trạng bất ổn tại Đông Âu đã đi đến mức cao điểm. Quốc Hội Lithuania đã bỏ phiếu tuyên bố độc lập vào ngày 25 tháng 2 và tuyên bố độc lập chưa đầy một tháng sau đó. Đây là một giọt nước làm tràn ly nước. Sự ly khai này đã đe dọa tới sự tồn tại của Liên Bang Xô Viết.
Đó cũng là một sự mất mặt của tổng thống Gorbachev. Lithuania đã vượt lên phía trước bất chấp lời cầu xin cá nhân từ ông Gorbachev tiếp tục trung thành với Điện Kremlin.
Ngoài tuyên bố độc lập, Lithuania quyết định phát hành thẻ căn cước công dân của riêng mình. Khi ông Gorbachev cảnh báo về các biện pháp trừng phạt cứng rắn nếu biện pháp này không được bãi bỏ, Lithuania đã từ chối. Quốc gia này đã tẩy chay cuộc thao diễn quân sự mùa xuân với quân đội Liên Xô và đưa ra yêu sách đối với tài sản ở Litva mà Moscow cho rằng thuộc sở hữu của chính phủ Liên Xô và Đảng Cộng sản Liên Xô.
Ông Gorbachev đã sử dụng các biện pháp cấm vận mạnh mẽ hơn, từ chối cung cấp dầu mỏ, khí đốt tự nhiên và than quan trọng cho Lithuania, đồng thời áp đặt luôn lệnh cấm vận đối với thuốc men và thức ăn trẻ em. Để trả đũa, người Litva bắt đầu cắt xuất khẩu lương thực và thực hiện các thỏa thuận vận chuyển riêng với từng thành phố của Liên Xô nơi những người Cộng sản còn cầm quyền.
Ông Gorbachev cũng cố gắng ngăn cản các động thái đòi độc lập của Estonia và Latvia. Mặc dù bất kỳ nước cộng hòa thuộc Liên Xô nào cũng được cho là có quyền ly khai theo hiến pháp, ông Gorbachev đã có một đạo luật mới bằng văn bản soạn thảo kéo dài các quyền này.
Đạo luật này dĩ nhiên bị các nước Baltic phản đối trong đó quy định một cuộc trưng cầu dân ý trên toàn nước của họ sẽ xãy ra trong thời gian đàm phán 5 năm và một cuộc bỏ phiếu cuối cùng trong vòng kiểm soát của cơ quan lập pháp quốc gia. Các nước Baltic khẳng định rằng vì họ đã bị sáp nhập bất hợp pháp vào năm 1940, nên đạo luật này không áp dụng cho họ.
Vấn đề ở Baltic là cuộc khủng hoảng nặng nề nhất của ông Gorbachev và chỉ là phần nổi của tảng băng của khuynh hướng ly khai trên khắp Liên bang Xô Viết. Thách thức của ông là giữ cả liên bang lại với nhau mà không sử dụng vũ lực trong khi vẫn tiến hành được chương trình cải cách tự do của mình sau một năm do dự.
Những người Cộng sản cứng rắn
đã đứng trước cửa nhà
đã đứng trước cửa nhà
Vào Chủ nhật, ngày 18 tháng 8 năm 1991, ông Gorbachev đang đi nghỉ ở Foros, một khu nghỉ mát ở Biển Đen trên Bán đảo Crimea. Ông đang soạn thảo một bài diễn văn quan trọng về một hiệp ước liên minh mới sẽ chuyển giao quyền lực đáng kể từ Điện Kremlin cho 15 nước cộng hòa của Liên Bang và dự trù sẽ ký văn bản vào thứ Ba.
Ngay lúc đó, không một dấu hiệu cảnh báo trước, một phái đoàn gồm những người Cộng sản bảo thủ của Điện Kremlin trong quân đội và K.G.B. đến trước cửa căn nhà gỗ của ông, cắt đứt điện thoại của ông. Họ yêu cầu ông phải tuyên bố tình trạng khẩn cấp và từ chức.
Những gì xãy ra sau đó là một chuỗi các sự kiện mà một số người gọi là ba ngày làm rung chuyển thế giới. Vào lúc 6 giờ sáng thứ Hai, hãng thông tấn chính thức Tass thông báo rằng ông Gorbachev đã bị cách chức, với lý do “không đủ khả năng vì lý do sức khỏe” để thực hiện nhiệm vụ của mình. Phó Tổng thống Gennadi I. Yanayev nắm quyền dưới cơ quan mới là Ủy ban chính phủ Lâm Thời.
Một giờ sau, một sắc lệnh khẩn cấp được công bố đình chỉ các đảng phái chính trị và đóng cửa báo chí đối lập. Nơi ở của ông Gorbachev không được biết. Boris N. Yeltsin, tổng thống của cái mà ngày nay được gọi là nước cộng hòa liên bang Nga, gọi việc tiếp quản là một cuộc đảo chính.
Ông Gorbachev và ông Yeltsin thường xuyên mâu thuẫn, nhưng giờ đây ông Yeltsin đã trở thành đồng minh quan trọng nhất - và dễ thấy nhất - của ông. Đến 11 giờ sáng, quân đội Liên Xô và xe tăng đã bao vây tòa nhà chính phủ được gọi là Nhà Trắng, và đến đầu giờ chiều, hàng trăm người biểu tình đã bao vây xe tăng.
Ông Yeltsin tham gia cùng họ. Leo lên đỉnh chiếc xe tăng T-72, tay cầm chiếc loa phóng thanh, ông ta kêu gọi tổng tấn công. Cùng với ông là Tướng Konstantin Kobets, Bộ trưởng Quốc phòng của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga, người đã ra lệnh cho các lực lượng vũ trang tiêu diệt. Tướng Kobets nói: “Sẽ không có một bàn tay nào được giơ lên chống lại người dân hoặc tổng thống được bầu hợp lệ của Nga.
Tình trạng hỗn loạn nhanh chóng lan sang thủ đô của các nước cộng hòa khác. Ngày hôm sau, ông Yeltsin yêu cầu được gặp ông Gorbachev và khăng khăng yêu cầu các bác sĩ nước ngoài khám cho ông, và đám đông bên ngoài Quốc hội Nga đã tăng lên 150.000 người.
Vào thứ Tư, với tình thế chống lại những người cứng rắn, quân đội Liên Xô rút khỏi trung tâm Moscow, và các nhà lãnh đạo cuộc đảo chính bỏ chạy. Hôm thứ Năm, ông Gorbachev đã trở lại Moscow để khẳng định lại quyền kiểm soát.
Cuộc đảo chính đã được làm sáng tỏ, nhưng đòn chính trị đối với ông Gorbachev là rất quan trọng. Ông Yeltsin đã thay thế ông trở thành biểu tượng của nền dân chủ ở Nga. Vào ngày 24 tháng 8, ông Gorbachev từ chức tổng bí thư của Đảng Cộng sản và giải tán Ủy ban Trung ương Đảng. Vào ngày 25 tháng 12, sự kết thúc chính thức của đế chế Xô Viết đã được niêm phong khi ông từ chức chủ tịch Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết.
Ông Yeltsin đã cung cấp cho ông một biệt thự, vệ sĩ, tiền trợ cấp và cái mà ông Remnick, trong sách "Lăng mộ của Lenin", gọi là "một khu bất động sản tốt – một cơ sở trước đây của Đảng," mà ông Gorbachev sẽ sử dụng làm nơi làm việc để nghiên cứu nhưng không được dành để đối lập chính trị. Tuy nhiên, họ đã sớm chạm trán nhau một lần nữa.
“Các phụ tá của Yeltsin bắt đầu không đồng ý về thỏa thuận nghỉ hưu của Gorbachev,” ông Remnick viết, “đầu tiên là lấy đi chiếc limousine của ông ấy và thay thế bằng một chiếc sedan khiêm tốn hơn, sau đó đe dọa điều kiện tồi tệ hơn. "Chẳng bao lâu nữa," một tờ báo đưa tin, "Mikhail Sergeyevich sẽ đi làm bằng xe đạp."
Raisa Gorbachev, người bị đột quỵ trong cuộc đảo chính, chết vì bệnh bạch cầu vào năm 1999, và ông Gorbachev bắt đầu dành nhiều thời gian hơn ở nước ngoài để phát biểu và đi vòng quanh ngoại giao quốc tế.
Ông Gorbachev vẫn được yêu thích ở phương Tây (thậm chí ông còn được chọn làm “người mẫu” trong chiến dịch quảng cáo cho Louis Vuitton năm 2007), nhưng ở Nga, chính sách của ông đã trở nên lỗi thời khi sự tham nhũng mà ông đã đấu tranh đạt đến một tầm cao mới, với hàng tỷ USD chảy vào tay. của các nhà tài phiệt và sau đó ra khỏi đất nước.
Đến năm 2009, Anatoly B. Chubais, một nhà kinh tế học chuyển sang làm chính trị gia, người được hưởng lợi nhiều từ quá trình tư nhân hóa, nói rằng “Gorbachev là người đàn ông bị ghét nhất ở Nga”.
Trong các cuộc phỏng vấn không thường xuyên với các hãng thông tấn phương Tây, ông Gorbachev đã liệt kê những sai lầm mà ông cảm thấy mình đã mắc phải, nói rằng lẽ ra ông nên thành lập một đảng chính trị mới và đưa Đảng Cộng sản vào thùng rác của lịch sử; rằng lẽ ra ông ta nên tìm cách giải phóng các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ một cách nhẹ nhàng hơn; thậm chí rằng lẽ ra ông không nên đi nghỉ dẫn đến cuộc đảo chính.
Ông Yeltsin, đồng minh và cũng là đối thủ thường xuyên của ông, đã đưa ra đánh giá của riêng ông về ông Gorbachev vào năm 1991: “Ông ấy đã muốn thống nhất những điều không thể: Chủ nghĩa cộng sản với thị trường, tài sản công với tài sản tư nhân, đa nguyên chính trị với Đảng Cộng sản. Đây là những cặp đôi không tương tác được, nhưng ông ấy đã khăng khăng với những điều bất khả này, và ở đó là sai lầm chiến lược cơ bản của ông ấy ”.
Trong những năm gần đây, ông Gorbachev thường có những nhận định về các vấn đề trong ngày, nhưng tiếng nói của ông đã mất đi ảnh hưởng. Ông cảnh báo và chống lại sự mở rộng của Liên Hiệp Âu Châu, lo lắng công khai về khả năng xảy ra một cuộc Chiến tranh Lạnh mới và hoan nghênh cuộc bỏ phiếu của Quốc hội Nga về việc sáp nhập vùng biển Crimea của Ukraine năm 2014.
Liên hệ của ông Gorbachev và Tổng thống V. Putin khi nóng, khi lạnh. Lúc đầu, ông ca ngợi ông Putin vì đã khôi phục sự ổn định, ngay cả khi phải trả giá bằng chủ nghĩa độc tài, nhưng ông đã phản đối việc ông Putin đàn áp quyền tự do báo chí và những thay đổi trong luật bầu cử ở các khu vực của Nga.
Ông nhận xét ông Putin tự thấy mình “chỉ đứng sau Chúa” và không bao giờ hỏi hay tìm kiếm lời khuyên từ ông ấy.
Thông tin về những thân nhân còn sống sót của ông Gorbachev không có sẵn ngay lập tức. Các phương tiện truyền thông nhà nước Nga cho biết ông sẽ được chôn cất tại Nghĩa trang Novodevichy ở Moscow gần vợ nhưng không xác định ngày.
Bất chấp những khó khăn gặp phải, ông Gorbachev đã thành công trong việc thay đổi vĩnh viễn sân khấu chính trị, nền kinh tế và xã hội của nơi từng là Liên Bang Xô Viết, cũng như toàn bộ bản đồ Đông Âu. Nhưng ông, hơn ai hết, ông đã biết mình đã sai lầm và hụt hẫng đến mức nào.
Trong một cuộc phỏng vấn trong những ngày cuối cùng tại vị, ông nói với The New York Times, "Với tất cả những sai lầm, những tính toán sai - hoặc ngược lại, với tất cả những bước nhảy vọt - chúng tôi đã hoàn thành công việc chuẩn bị cơ bản về chính trị và con người."
“Theo nghĩa này,” ông nói thêm, “sẽ không bao giờ khiến xã hội có thể quay trở lại.”
Bài viết Anton Troianovski & Ivan Nechepurenko (New York Times August 30/2022)
@ Bản dịch của Saigon Weekly