• MỖI NGÀY MỘT BÀI VIẾT
Tưởng Niệm Tháng 4 Đen của VNCH
• Phan Nhật Nam
Trung Tướng
Ngô Quang Trưởng,
1 đời trung liệt, 3 lần giữ nước
Lời Giới Thiệu: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng – một trong những người anh cả của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Thế Hệ Quân Nhân Thứ Nhất thành lập cũng với nền Đệ Nhất Cộng Hòa, 1955 nơi Miền Nam - một đời chiến đấu, đi từ cấp thấp nhất của hệ thống chỉ huy quân đội, trung đội trưởng trung đội tác chiến Đại Đội I/Tiểu Đoàn 5 Nhẩy Dù đến Tư Lệnh Quân Đoàn I/QK1,VNCH. Vị Tướng Quân được lòng tin cậy từ toàn thể Quân-Dân Miền Nam; tướng lãnh, quân nhân các cấp Quân Lực Mỹ và Đồng Minh kính phục; và phía đối thủ, những người cộng sản dẫu đã đoạt thắng quân sự 1975, cũng phải thành tâm ngưỡng mộ.
Chúng tôi, những người dân sống tại miền Nam Việt Nam trước 1975, thuộc những thế hệ kế tiếp, được bảo vệ bởi một đời binh nghiệp của ông, cùng chịu chung cảnh huống bi phẫn nước mất tan quân từ những ngày Tháng Ba, 1975 khi Quân Khu I, Quân Khu II uất hờn tan vỡ.. Trong lần tử biệt, viết lại chiến công của vị Tư Lệnh cùng các Chiến Hữu để hằng nhắc nhở: Cuộc chiến đấu nơi Miền Nam hôm nay vẫn được tiếp tục dẫu đã bốn mươi-lăm năm sau ngày 30 tháng 4, 1975, vì đấy là cuộc chiến đấu chính nghĩa cho những giá trị vĩnh cữu - Dân Chủ-Tự Do .
Như tiếng lời chân thực cao thượng từ Đại Tướng H. Norman Schwarzkopf, Tư Lệnh Bộ Chỉ Huy Trung Ương Quân Lực Hoa Kỳ & Đồng Minh Chiến Dịch Bão Sa Mạc, 1991..
“Tôi rất hãnh diện với mối tự hào mà Tướng Quân dành cho tôi, cũng bởi, Tướng Quân là một trong những Người Thầy kiệt liệt nhất. Những chiến thuật mà tôi áp dụng hằng ngày nơi chiến trường Trung Đông nầy là những điều mà Ông đã chỉ dẫn tận tình cho tôi từ 25 năm trước- Ngày chúng ta chiến đấu sát cạnh nhau - Ở Việt Nam.. Hơn bao giờ hết, một trong những điều kiêu hãnh nhất của suốt cuộc đời binh nghiệp của tôi vẫn là, luôn là những ngày Tôi cùng Tướng Quân chiến đấu bên nhau vì Lý Tưởng Tự Do”.
Thư của Đại Tướng H. Norman Schwarzkopf viết ngày 26 Tháng 2, 1991 từ mặt trận Iraq gởi về cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng.
*
1963, 64, 65.. LẦN GIỮ NƯỚC THỨ NHẤT
Bắt đầu năm 1963, tình hình quân sự Miền Nam đã có những chỉ dấu suy thoái, lực lượng du kích, địa phương cộng sản được thành lập từ hai năm trước với những vũ khí đơn sơ, tự chế tạo như súng ngựa trời, đạp lôi, mìn bẫy, nay được tăng cường thêm thành phần cán bộ hồi kết, lẫn cán bộ Bắc Việt mới xâm nhập, cùng với những vũ khí mới, hữu hiệu nhất do khối cộng sản viện trợ. Lực lượng nầy biến cuộc nổi dậy của du kích địa phương nên thành một cuộc chiến tranh bán quy ước, chuyển qua giai đoạn chuẩn bị tấn công lật đổ chính quyền hợp hiến Miền Nam.
• Trận Ấp Bắc mở màn ngày 2 tháng 1, 1963 là một trận chiến điển hình của giai đoạn vừa kể trên, mà từ đó, góp phần vào việc thành hình những quyết định chính trị, quân sự quan trọng của chính phủ Mỹ, dẫn dắt đến lần chung cuộc của Miền Nam vào năm 1975. Cũng nói rõ một điều - Trận đánh xẩy chỉ sau ngày Tướng Huỳnh Văn Cao (Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long) nhận nhiệm vụ một ngày, và cao điểm chiến trường xẩy ra vào ngày nghỉ cuối tuần, thứ Bảy (mồng 5), và Chủ Nhật (mồng 6) tháng Giêng năm 1964, khi Tướng Cao chỉ huy cuộc hành quân truy kích lực lượng cộng sản. Có một yếu tố ít ai để ý, cho dù người nhạy cảm nhất - đấy là, “ngày N của cuộc hành quân là 3 tháng 1”- Sinh nhật Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Không biết phía bên nào đã chủ động giăng ra “cái bẫy hào nhoáng 3 tháng 1” nầy, nhưng chắc một điều- Ngày N của cuộc hành quân đã không còn là một điều bảo mật quân sự.
Được tin quân báo khoảng hơn 100 lính cộng sản (của hai đại đội trừ) bố trí dài theo các ấp chiến đấu Ấp Bắc, Tân Thới, thuộc Xã Ấp Bắc, Quận Tân An, Tỉnh Mỹ Tho, khoảng 40 dặm Tây-Nam Sàigòn, ngày 2 tháng 1, năm 1963, Đại Tá Bùi Đình Đạm, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh xử dụng một tiểu đoàn cơ hữu trực thăng vận xuống bãi đáp phía Bắc mục tiêu, từ đây đánh vào Aáp Bắc băng qua những khu đồng ruộng trống trải sau mùa gặt. Lực lượng địa phương gồm hai tiểu đoàn Bảo An (sau 1965, cải danh thành Địa Phương Quân) tỉnh Mỹ Tho do Thiếu Tá Lâm Quang Thơ chỉ huy, di chuyển từ phía Nam làm thành phần chận bít không cho bộ đội cộng sản rút ra hướng nầy. Đại Úy Lý Tòng Bá điều động Đại Đội 7 Cơ Giới gồm bốn chi đội thiết vận xa M113 (một chi đội chỉ huy, và ba chi đội tác chiến) dự trù tấn công dứt điểm mục tiêu từ hướng Tây. Khoảng đồng ruộng phía Đông được bỏ trống để đánh lừa thành phần bộ đội cộng sản tháo chạy khỏi Aáp Bắc, và sẽ là mục tiêu để phi, pháo dứt điểm, tiêu diệt đối phương. Cuộc hành quân đặt dưới quyền chỉ huy tổng quát của Tướng Huỳnh Văn Cao, tư lệnh quân khu với ngày “Chiến thắng dự trù- 3 tháng 1 để dâng lên Tổng Thống một món quà sinh nhật có ý nghĩa”.
Và khi trận chiến kết thúc, Tướng Cao báo cáo về Bộ Tổng Tham Mưu, và Dinh Độc Lập những chiến thắng to lớn; Tướng Paul Harkins, Tư Lệnh MACV tiếp lời gởi về Ngũ Giác Đài, đến Tướng Maxwell Taylor, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, và Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamarra những tin tức thắng lợi “có tính khả quan”. Viên bộ trưởng tài giỏi nầy liền ra lệnh Đô Đốc Harry Felt, Tư Lệnh Hạm Đội Thái Bình Dương đến ngay Sài Gòn hai ngày sau để xét xem sự thực chiến thắng. Vị đô đốc đưa ra nhận định: “Đấy là một chiến thắng của Quân Đội Nam Việt Nam vì quân cộng sản đã bỏ vị trí mà chạy!” Nhận định được quan chức quân sự, chính khách cao cấp người Mỹ tán đồng, vì họ cho rằng, theo chiến tranh quy ước (như vừa xẩy ra ở Đại Hàn, 1950-1953), khi địch quân (nay cũng là một đối tượng có chung tính chất, phương thức tác chiến như bộ đội cộng sản Bắc Hàn) bỏ vị trí, tức là quân chính phủ đã thắng lợi. Nhưng Trung Tá J.P. Vann, cố vấn của Đại Tá Bùi Đình Đạm thì lại có nhận định khác hẳn, và chuyền cho báo chí bản đánh giá của riêng mình về cuộc hành quân: “Đấy là một cuộc trình diễn thãm hại chẳng ra cái đếch gì cả.. Chẳng biết căn cứ vào đâu, Vann cho rằng: “Thay vì thả Tiểu Đoàn 1 Dù xuống phía đông của Ấp Bắc để chận đường tháo lui của lực lượng cộng sản, thì Tổng Thống Diệm lại ra lệnh thả xuống phía tây vào lúc trời hoàng hôn, gây nên cảnh giao tranh hỗn loạn giữa hai đơn vị bạn (quân Dù và Sư Đoàn 7 bộ binh)”.
Nhưng dù có ác tâm, thiên kiến bao nhiêu, những cây viết “trung trực, giỏi gian” kể trên của báo giới Mỹ cũng không thể có một lời xuyên tạc nào đối với Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù, đơn vị chịu hoàn cảnh tác chiến bất lợi nhất- thả xuống trận địa lúc trời sập tối, không định rõ được địa thế, vị trí quân bạn - Và tất nhiên, cũng chịu thiệt hại lớn nhất, chết 19, bị thương 33, gồm Đại Úy Nguyễn Trung Hiếu, chỉ huy đại đội nhảy xuống đầu tiên, và viên trung sĩ Cố Vấn Mỹ. Phía Mỹ bị thiệt hại năm trực thăng, và những phi hành đoàn đồng tử trận.
Báo cáo về kết quả trận đánh không chỉ giới hạn trong phạm vi quân sự, những thành phần chống đối chiến tranh Việt Nam, hoặc có hiềm khích với cá nhân Tổng Thống Diệm, vợ chồng cố vấn Nhu, nhân cơ hội, nại cớ chính quyền Miền Nam bất lực, thúc dục Tổng Thống Kennedy quyết định loại bỏ người khai sinh nên nền cộng hòa Miền Nam. Tân Đại Sứ Henri Cabot Lodge đến Sài Gòn, tháng 8, 1963 bật đèn hiệu cho đám tướng tá để thực hiện âm mưu nhẫn tâm, vụng về nầy mà thật sự đã có mầm mống sâu xa từ nhiều phía. Trước tiên, phải kể đến Averell Harriman, sau nầy là đại sứ toàn quyền của chính phủ Johnson (1965), người được đánh giá là một nhà ngoại giao đa năng, tinh khôn qua chủ trương hòa hoãn với phe cộng sản (cụ thể với Liên Sô từ những năm 40 khi làm đại sứ ở đây), và sau nầy, năm 1963, khi thương thảo cùng Liên Sô về Hiệp Ước Ngưng Thử Vũ Khí Nguyên Tử; hoặc đồng thuận cùng Trung Cộng về một giải pháp trung lập Lào, có thêm sự tán đồng mạnh mẽ của phụ tá bộ trưởng ngoại giao Chester Bowles với lời nói tin tưởng:”Biện pháp trung lập hóa Lào là mẫu mực mở rộng cho toàn vùng Đông-Nam Á”, và nhất là Roger Hilsman, thứ trưởng ngoại giao, đặc trách Đông-Nam Á Vụ. Nhưng bởi Tổng Thống Diệm lại hoàn toàn phản đối quan điểm nầy vì, “trung lập hóa Lào tức bật đèn xanh cho bộ đội Bắc Việt xâm nhập vào Nam theo đường Hồ Chí Minh” chạy dọc bên sườn tây Trường Sơn. Từ Đèo Ngang, Bắc Đồng Hới, đoàn xâm nhập rẽ vào đất Lào, thay bộ đồ xanh của bộ đội Pathét Lào và chiếc nón lưỡi trai, rồi từ đó đi theo hành lang an toàn (do Pathét Lào chiếm đóng, kiểm soát) để về Tchépone, đi sâu xuống vùng Ba Biên Giới, chấm dứt nơi điểm hẹn Lộc Ninh, Hớn Quản của miền đông Nam Bộ.
Trở lại vấn đề quân sự của Nam Việt Nam, hiệp định đình chiến ở Lào ký kết ngày 23 Tháng 7, 1962 có ngay hệ quả, từ những nhóm du kích cấp tiểu đội, trung đội với những vũ khí thô sơ như súng ngựa trời, lựu đạn nội hóa, lôi, chông, mìn tự chế.. lực lượng cộng sản chỉ trong một thời gian ngắn sau khi “đường đi B (Miền Nam) được thông do hiệp định “đình chiến” ở Lào tạo điều kiện, hoàn cảnh thuận tiện” đã có khả năng phát triển những trận đánh lên cấp đại đội, tiểu đoàn. Trận Ấp Bắc đầu năm 1963 vừa kể trên là một khởi đầu nguy biến, tiếp theo cuộc biến loạn 1-11 cuối năm như một đập vỡ tồi tệ với lần giải thể ngay lập tức 2000 ấp chiến lược theo lệnh của Dương Văn Minh đẩy tình hình quân sự Miền Nam vào thế hiễm nghèo, thụ động. Ngày 1 tháng 11, 1964, lần đầu tiên phi trường Biên Hòa bị pháo kích; cũng là một căn cứ quân sự lớn đầu tiên của miền Nam bị tấn công phá hoại bởi một đơn vị hỏa lực pháo, cối, loại vũ khí của chiến tranh, quy ước; tháng 12 cùng năm 64, Tiểu Đoàn 39 Biệt Động Quân, Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến bị tổn thất nặng bởi rơi vào thế trận phục kích ở Bình Giả, Phước Tuy (Đông-Nam Sài Gòn khoảng 100 cây số đường thẳng) do một trung đoàn cộng sản thực hiện (các trung đoàn nầy sau đó biên chế thành sư đoàn - Công Trường 7, thành phần nòng cốt của lực lượng vũ trang thống thuộc Bộ Tư Lệnh Mặt Trận Giải Phóng); tháng 6, 1965 hai Trung Đoàn Q762 và Q763 của Công Trường 7 trên lại thực hiện một cuộc vận động chiến quy mô hơn ở xã Đồng Xoài, Bình Dương (Bắc Sài Gòn) gây thiệt hại lớn cho Tiểu Đoàn 2/7 Sư Đoàn 5 Bộ Binh, Tiểu Đoàn 7 Dù và Tiểu Đoàn 52 Biệt Động.
Sài Gòn lẫn Tòa Bạch Ốc rúng động, bởi chiến trường chỉ cách thủ đô miền Nam không quá 100 cây số đường thẳng. Ấp Nhà Việc, Phú Hòa Đông bên sông Sài Gòn đã là những chiến trường phải dùng đến máy bay dội bom yểm trợ lực lượng bộ binh mới vào được. Thế nước quả đã đến hồi thật sự nguy ngập. Nhưng trước khi Thủy Quân Lục Chiến Mỹ kịp phối trí quân để tăng cường phòng thủ vùng biển Miền Nam thì đơn vị bách thắng, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù với người chỉ huy Ngô Quang Trưởng đã lập nên kỳ tích hiển hách - Chữ nghĩa không là lời nói văn hoa, chúng ta hãy cùng sống lại khúc hùng ca với máu mỗi người lính đổ xuống nơi những chiến địa hung hiểm trên từng vùng đất khổ quê hương.
Với 100 trực thăng đổ quân và võ trang yểm trợ, ngày 27 tháng 4, 1964 Tiểu Đoàn 5 nhảy xuống mật khu Đỗ Xá, vùng Quận Minh Long, Tây-Bắc Quảng Ngãi sát biên giới Kontum, chận đứng kế hoạch điều quân của Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B1 (danh hiệu phân chia vùng tác chiến của bộ tổng quân ủy cộng sản Hà Nội- Miền Nam - Khu “B”), mưu định cắt Miền Trung nước Việt theo đường hành lang chạy dài từ vùng núi rừng Kontum xuống bờ biển Quảng Ngãi (như đã thực hiện một lần trong chiến tranh 1945-1954). Mười lăm trực thăng trúng đạn, tiểu đoàn chịu tổn thất ngay từ giờ phút đầu tiên xuống bãi đáp, bốn đại đội tác chiến lẫn đại đội chỉ huy liên tiếp chạm địch, nhưng với chiến thuật điều binh tấn công thần tốc, sau ba ngày kịch chiến, tiểu đoàn phá vỡ căn cứ địa kiên cố bất khả xâm phạm của cộng sản đã xây dựng từ giai đoạn chiến tranh lần thứ nhất 1945-1954. Từ căn cứ địa nầy, lực lượng cộng sản mới có thể tràn xuống đồng bằng, thành lập những “vùng giải phóng” mới. Các chiến khu Ba-Tơ, Mộ- Đức một thời vang danh là mở rộng từ căn cứ địa Đỗ Xá nầy. Tiểu đoàn tịch thu 160 súng đủ loại, kể cả những súng cộng đồng (của phía cộng sản) được tìm thấy đầu tiên ở chiến trường miền Nam.
Muốn biết tầm quan trọng của trận chiến, ta hãy lưu ý đến chỉ tiêu kỹ thuật: “Theo thống kê của chuyên viên quân sự - “Muốn lấy được 1 vũ khí thì ít nhất phải có 3 binh sĩ bị tử thương, và nếu đã có 1 binh sĩ tử thương thì ắt phải có 3 binh sĩ bị thương, mất năng lực chiến đấu”. Đơn vị cấp tiểu đoàn nhảy dù vào thời điểm kia có quân số hành quân trung bình từ 500 đến 600 người, khinh binh chưa được trang bị súng XM16, một trung đội tác chiến chỉ có hai khẩu AR 15 - Cần biết như thế để thấy ra sức chiến đấu uy mãnh của Tiểu Đoàn 5ø đối với một lực lượng địch chắc hẳn phải là cấp trung đoàn chính quy (không kể đơn vị du kích, lực lượng địa phương) mới có được thành quả chiến thắng với số vũ khí tịch thu như trên.
Trở lại chiến trường Miền Nam, chiến thắng ở Đỗ Xá năm 1964 được lập lại thêm một lần nơi cửa ngỏ Sàigòn, một năm sau đánh tan lời tự tán dương “bộ đội anh hùng vũ trang mặt trận giải phóng miền Nam - Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành; khó khăn nào cũng vượt qua; kẻ thù nào cũng đánh thắng” của những đơn vị cộng sản vùng miền Đông Nam Bộ. Tháng 2, 1965 dọc Quốc Lộ 15, đường đi Sài Gòn - Vũng Tầu, phối hợp với đơn vị bạn, Tiểu Đoàn 7 Dù, làm thành phần nút chận để không cho địch quân chạy qua Quốc Lộ 15, khoảng núi Ông Trịnh, Phước Tuy (Bà Rịa), tiểu đoàn trực thăng vận nhảy xuống Mật Khu Hắc Dịch, xong từ trong lòng địch đánh bung ra. Trận chiến kéo dài từ lúc ngày vừa rạng qua đêm khuya.. Khoảng rừng tối tăm dày đặc sau hai ngày tác chiến rụng sạch cành lá bởi đạn pháo, đến sáng ngày thứ ba, lính Tiểu Đoàn 7 thấy qua màn khói đục bóng dáng quân bạn chạy thấp thoáng truy kích tàn binh địch, thực hiện cuộc rượt bắt cá nhân đối với những cán binh cộng sản còn lại của trung đoàn thuộc Công Trường
Tiểu Đoàn 5 không chỉ đánh phục hận cho đơn vị bạn, những tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân bị tổn thất trong trận chiến mùa đông 1964, cũng do những kẻ địch chung phiên hiệu Công Trường 7 kia, cũng nơi vùng rừng Bình Giả, Tỉnh Phước Tuy (Bà Rịa) nầy - Nhưng đã lập nên thế cân bằng an toàn chiến thuật cho mặt trận Vùng III và khu vực Biệt Khu Thủ Đô. Bởi nếu phía cộng sản thắng lợi nơi vùng chiến trường nầy - Đường về Sài Gòn chỉ cần một đêm điều quân (Năm 1975, chúng ta đã chứng kiến hướng tấn công (Sài Gòn) nầy được thực hiện với thời gian chưa tàn điếu thuốc ở những ngày cuối tháng Tư.)
Lần cứu nước đầu tiên nầy nào có mấy ai hay, kể cả những chuyên viên nghiên cứu tình hình, hoạït động chính trị-quân sự của hai phía Mỹ,Việt?
Thiếu Tá Ngô Quang Trưởng vinh thăng trung tá tại mặt trận, ân thưởng Đệ Tứ Đẳng Bảo quốc Huân Chương vào năm 33 tuổi, chuyển về nhậm chức Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn Nhảy Dù (đến 15 tháng 12, 1965, đơn vị mới biên chế thành cấp sư đoàn). Hằng ngày, ông đi lặng lẽ từ văn phòng tham mưu trưởng xuống nhà ăn binh sĩ, qua khu trung tâm huấn luyện tân binh, huấn luyện nhảy dù. Ánh mắt sắc, nghiêm, nhưng nhân hậu không bỏ sót một hình ảnh, sinh hoạt nhỏ nhặt nào dù chỉ là của một tân binh.
Bắt đầu Mùa Hè 1966, miền Trung dậy nên cơn bão lửa ly khai từ sự kiện Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Vùng I (Đà Nẵng) vào Sàigòn họp Hội Đồng Quân Lực (10 tháng 3) và bị những tướng lãnh trung ương (Nguyễn Văn Thiệu, chủ tịch hội đồng; Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch ủy ban hành pháp; Nguyễn Hữu Có, tổng ủy viên quốc phòng) cách chức. Ngoài lý do Tướng Thi “bất tuân thượng lệnh” vì đồng thuận để những nhân vật khuynh tả, phản chiến (lãnh tụ Phật Giáo khối Ấn Quang, Trí Quang; nhóm giáo sư Đại Học Huế; thị trưởng Đà Nẵng, Bác sĩ Mẫn, một người du học Pháp về) khuynh loát, giật dây, ông còn là một đe dọa chính trị đáng ngại đối với chức chủ tịch hành pháp (thủ tướng) của Nguyễn Cao Kỳ; cũng cần tính đến những hiềm khích, đấu đá vì hành vi, tư cách cá nhân giữa hai người. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh (Huế) được cử vào Đà Nẵng thay thế Tướng Thi giữ chức tư lệnh quân đoàn; Đại Tá Phan Xuân Nhuận, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân thay thế Tướng Chuân chỉ huy Sư Đoàn 1.
Ngày 12, tháng 3, 1966 lấy cớ yêu cầu phục hồi chức vụ cho Tướng Thi, phong trào chống đối chính phủ trung ương nỗ bùng ở Huế, Đà Nẵng, cũng đồng thời đòi chính quyền quân nhân (Sàigòn) giải tán, thành lập một chế độ dân cử. Sinh viên, thanh niên võ trang thuộc Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng (LLTTCM) dưới quyền điều động của nhóm tăng sĩ Phật Giáo quá khích thực sự tiến hành cuộc khởi loạn (trong giai đoạn nầy cũng như vào thời gian sau, có nhiều xác chứng phong trào đã hoàn toàn bị dẫn dắt bởi cán bộ cộng sản nội thành của những tỉnh cực bắc Trung bộ. Sau vụ biến động, các tướng lãnh chỉ huy những đơn vị Vùng I bị đưa ra tòa, chịu hình phạt quân kỷ, và buộc giải ngũ. Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh (Quảng Ngãi) được chỉ định nhậm chức tư lệnh Quân Đoàn I. Đại Tá Ngô Quang Trưởng, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn Nhảy Dù giữ nhiệm vụ tư lệnh Sư Đoàn I. Đại Tá Trưởng có Đại Tá Lê Văn Thân phụ tá - Đại Tá Thân, một trong tứ kiệt của binh chủng pháo binh. Người đứng đầu nhóm bốn người tuấn kiệt nầy là Trung Tướng Nguyễn Đức Thắng, vị tướng thanh liêm nhất (theo dư luận chung của quân, dân Miền Nam mà Báo Diều Hâu (1970-1972), Sàigòn đã phổ biến, đề cao.)
Đại Tá Ngô Quang Trưởng nhận đơn vị, Sư Đoàn 1 Bộ Binh trong một hoàn cảnh bất lợi toàn diện- Những quân nhân giữ chức vụ trọng yếu, kể cả sĩ quan chỉ huy trung cấp, và hạ sĩ quan (nếu là gốc Phật Giáo) đồng bị thuyên chuyển sang những đơn vị thuộc các vùng chiến thuật khác; người còn lại không tin những bạn đồng ngũ mới thuyên chuyển đến (tình hình tương tự ở các cấp chính quyền, quân sự Miền Nam như sau đảo chính 1 tháng 11, 1963). Nhưng Đại Tá Trưởng vững tin nơi bản lĩnh cá nhân mình, cùng khả năng đơn vị, đã được thử sức sau hơn mười năm dài chiến trận nơi một vị trí quan yếu nhất của thế chiến trận Miền Nam. Ông cũng rất cậy trông vào vị tư lệnh phó, người có khả năng tham mưu, tổ chức cao, tâm chất trung trực, đạo đức, thế nên chỉ sau một thời gian ngắn, sư đoàn đã chỉnh đốn lại đội ngũ, phục hồi tư thế chiến đấu như hằng có. Bắt đầu với những sĩ quan trẻ, những sĩ quan cấp úy thuộc các khoá 14, 16 đến 20 Võ Bị Đà Lạt, hoặc các khoá tương đương của Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, đơn vị dần thâu đạt những tiến bộ vượt bực sau một thời gian ngắn ngủi trong vòng một năm. Chiến trận Mậu Thân, 1968, Hành Quân Lam Sơn 719 (1971) và cuộc phản kích Mùa Hè 1972 sau nầy là những bằng cớ chứng thực: Đơn vị thuộc quyền của Người Chỉ Huy Ngô Quang Trưởng là Sư Đoàn Bộ Binh tác chiến hàng đầu của quân lực- Không chỉ riêng với quân đội Miền Nam nhưng nếu so sánh cùng thế giới, chúng ta vẫn giữ toàn quyền hãnh diện. Đại Tướng Abrams sau nầy, khi thay thế Tướng Westmoreland chỉ huy quân đội Mỹ tại Việt Nam đã nói cùng những sĩ quan, tướng lãnh của ông: “Sư đoàn của Tướng Trưởng tác chiến trong rừng giỏi hơn chúng ta”. Sự biến đổi thần kỳ nầy không là chuyện hoang đường. Trận làng Lương Cổ, Thừa Thiên đầu năm 1967 là một thí dụ điển hình của lần vượt dậy hào hùng kia.
Hệ thống các Làng Lương Cổ, Đồng Xuyên, Mỹ Xá thuộc Huyện Hương Trà, Thừa Thiên, Tây- Bắc thành phố Huế, kết thành một giải hành lang thiên nhiên mà các đơn vị bộ đội cộïng sản từ các mật khu vùng Tây-Nam Huế (A-Sao, A-Lưới), thường xử dụng để xâm nhập tiếp cận thành phố (do cố tránh các tiền đồn thượng nguồn sông Hương, mặt nam thành phố). Những làng nầy từ chiến tranh 1945-1954 đã là những căn cứ địa vững chắc ‘“những chiến khu- vùng tự do”, mà quân đội Liên Hiệp Pháp không thể nào kiểm soát được, bởi hệ thống kinh lạch của ba con sông, sông Hương, Sông Bồ, Sông Mỹ Chánh tạo nên một vùng trũng thấp nằm giữa Phá Tam Giang, cửa Thuận An và Quốc Lộ I ngăn cản sức tiến của bộ binh, khả năng cơ động của các đơn vị cơ giới. Đại Tá Trưởng xử dụng một tiểu đoàn bộ binh cơ hữu làm thành phần nút chặn; dùng đại đội thám kích của sư đoàn, Đại Đội Hắc Báo và Tiểu Đoàn 9 Dù (tăng phái), hợp cùng Chi Đoàn 2/7 Thiết Vận Xa M113, đơn vị thống thuộc của sư đoàn mở hai mũi dùi tấn công chính vào hệ thống công sự, giao thông hào mà có lẽ đã đào từ ngày bắt đầu cuộc chiến, và càng ngày càng củng cố độ dày để chịu đựng nổi pháo binh cùng phi cơ oanh kích.
Và cũng có thể đây là lần đầu tiên phía bộ đội cộng sản gặp phải một đối thủ kỳ lạ - Những địch thủ tiến thẳng vào hàng rào hỏa lực của họ. Trận chiến kéo dài từ sáng sớm kéo qua trưa, phía nhảy dù, bộ binh, thiết giáp đồng bị thiệt hại khá nặng nhưng vẫn không thể tiến vào khu làng qua những cánh đồng ngập nước.. Và trên cánh đồng loáng nước, trong ánh sáng chập choạng của buổi chiều diễn ra một cảnh tượng khốc liệt hùng tráng.. Những chiếc M 113 theo lệnh của Đại Úy Hóa, chi đoàn trưởng đồng mở bung pháo tháp, các xạ thủ đại liên 50 siết cứng ngón tay vào lẩy cò tuông loạt đạn công phá mở toang các vị trí cố thủ của đơn vị Việt cộng, lính nhảy dù tùng thiết vượt qua mặt chiến xa, tiến lên thanh toán mục tiêu bằng cận chiến. Những Thiếu Úy Thuận Văn Chàng, Phạm Văn Thành, Chuẩn Úy Nguyễn Thành Văn của Tiểu Đoàn 9 Dù xông lên trước hàng quân với lựu đạn mở chốt cầm sẵn ở tay. Thân hình họ lảo đão ngã xuống bờ ruộng, xong đứng lên lại với những tiếng hô... xung phong... xung phong hòa lẫn tiếng đạn súng tay nổ bục trong thân thể, da thịt người vì đường đạn đi quá ngắn.
Trận chiến kết thúc với lời khai của tù binh cộng sản: “Chúng cháu được lệnh cố thủ vị trí vì đây là vùng giải phóng, quê nhà của đồng chí đại tướng!” Hóa ra Đại Tá Ngô Quang Trưởng đã phá vỡ huyền thoại từ đã lâu được phổ biến trong bộ đội cộng sản Miền Bắc: “Quân giải phóng đã kiểm soát được ba phần tư lãnh thổ Miền Nam - nhất là những vùng căn cứ địa cách mạng cũ (trước năm 1954), hoặc cơ sở địa phương, quê hương các đồng chí lãnh đạo”. Nhưng phải đợi đến buổi thử sức toàn diện - Khi cộng sản quyết tâm giải phóng Miền Nam bằng cuộc tổng công kích, tổng nổi dậy theo lời thúc dục từ Hà Nội, với lời thơ “Chúc Tết” của Hồ Chí Minh đọc trong đêm Giao thừa Tết Mậu Thân 1968. Trận thử sức làm sáng tỏ một điều đơn giản cao quý: Quân đội của bên nào thật sự nắm giữ sắc cờ Nhân Nghĩa của Quê Hương.
27 Tháng Hai, 1968. Những giờ cuối cùng ở Ngũ Giác Đài, McNamara xử dụng phần quyền lực còn lại sau 1558 ngày nắm giữ chức vụ trọng yếu nhất nền quốc phòng Mỹ để phủ quyết yêu cầu của Tướng Westmoreland về đề nghị tăng cường thêm 200.000 nhân sự bổ sung trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự và chiến tranh tâm lý.
Một tháng trước khi McNamara từ nhiệm, 36 của 44 tỉnh lỵ; 5/6 thành phố; 64/242 thị trấn, quận lỵ thành phố Miền Nam đồng loạt bị tấn công bởi một lực lượng 323.500 bộ đội cộng sản gồm 97 tiểu đoàn và 18 đại đội đặc-công biệt-động. Cuộc tấn công khởi đi từ đêm Giao Thừa Tết Mậu Thân, đêm 30 rạng 31 tháng 1, 1968. Và không phải Sàigòn với Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham Mưu, Tòa Đại Sứ Mỹ dẫu đã là mục tiêu hàng đầu của cuộc tấn công, nhưng Huế lại là thành phố hứng chịu tàn phá nặng nề nhất của trận chiến kéo dài 26 ngày, và không những chỉ thế, cư dân Huế lại là đối tượng phải thực hiện lần “trả nợ máu”- theo cách định giá của tập đoàn quân đội cộng sản, những tiểu tổ hành quyết nằm vùng trong những ngày chiếm đóng, khi thua trận rút lui .
Cuối cùng, Thành Phố Huế được chiếm lại, phục hồi, đạo binh xâm lược từ miền Bắc, từ các mật khu tây-nam Huế, vùng Dãy Phố Buồn Thiu dọc Phá Tam Giang buộc phải rút lui, để lại những chiến tích - những hầm chôn người tập thể tại Trường Gia Hội, Bãi Dâu, Khe Đá Mài vùng núi Ngự Bình, những truông, vực thuộc thôn Ngũ Tây, quận Nam Hòa- Cảnh tượng tàn bạo nầy càng đậm thêm tính ác độc của danh từ “Việt cộng”, cùng mối kinh hoàng do họ gây nên. Một mặt khác, khi người dân nghe tiếng báng súng đập lách cách vào những thân người di chuyển, hoặc âm động rì rầm của máy xe thiết vận xa M113, chiến xa hạng nặng, lời chuyển lệnh rì rào từ các máy truyền tin có loa khuếch đại của binh đội Mỹ.. Họ hé cửa nhìn ra từ những căn nhà mái thấp, sụp vỡ, leo lét ánh đèn dầu, qua hàng rào lá chè loang lỗ trốc gốc, cảnh tượng u tối, đe dọa của thời chiến tranh trước 1950, và thì thào lời mừng rỡ chưa hẳn tin là thật.. Lính tới, lính tới.. Lính mình tới.. Mỹ tới.. Mỹ tới... khi họ thấy chạy thấp thoáng theo đội hình, dọc hè phố vươn vãi thây người trên gạch ngói đổ nát rơi rớt, những dạng người lính với y trang màu lục đậm (bộ binh), hoặc tác chiến hoa của các binh chủng biệt động, nhảy dù, thủy quân lục chiến với ba-lô nổi gồ trên lưng, khối tròn quen thuộc của chiếc nón sắt - Tất cả đã trở nên biểu tượng của linh thiêng cứu viện, nguồn hy vọng thiết thân giữa cảnh chết, sau bao ngày đe dọa hung hiểm bởi cái chết bao vây. Và khi Huế được sống lại, qua tiếng lời người dân, danh tính vị Tướng Quân: “Ông Trưởng trong Mang Cá ra Gia Hội thăm đồng bào” gắn liền cùng chiến công Giữ Nước- An Dân, như Trần Hưng Đạo đã kiên trì bảo vệ Thăng Long (cuối thế kỷ 13); của Văn Thiên Tường đời Nam Tống (đầu thế kỷ 13) chết cùng Thành Tương Dương, hoặc M. I. Kutuzov trải thân với vận mệnh Moscow trong chiến tranh chống Napoléon năm 1812.
Thật sự trận Mậu Thân, 1968, đêm Giao Thừa ở Huế bắt đầu từ một nơi xa hơn.. Ngày 20 tháng Giêng 1968, Đại uý W. H. Dabney chỉ huy Đại Đội I, Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 26 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tiến chiếm đồi 881, cao độ giữ mặt Tây và Tây-Bắc căn cứ Khe Sanh, trên Đường Số 9 hướng biên giới Lào, mở đầu quyết định chọn Khe Sanh làm “diện”, thu hút và tiêu diệt lực lượng cộng sản trong khuôn khổ Chiến Dịch Scotland. 5 giờ 30 sáng ngày 21, những quả hỏa tiễn đầu tiên của phía cộng sản đổ chụp xuống các vị trí pháo binh, bãi đậu xe, phi đạo dã chiến, sân trực thăng, hầm phòng thủ lực lượng đồn trú. Mười ba tấn đạn đại pháo gồm 130 ly, hỏa tiễn 122, súng cối 82 ly đồng rơi xuống cứ điểm mở đầu chiến dịch dứt điểm Khe Sanh với lực lượng xung kích gồm hai sư đoàn bộ binh nặng 325 C và 304 theo lệnh điều quân của đích thân Võ Nguyên Giáp; còn có một sư đoàn khác làm trừ bị, do chưa điều động vào vùng nên chỉ danh không được xác định.
Trận đánh không hoàn toàn bất ngờ, vì từ buổi sáng Dabney đã nhận được một “người khách không mời”, viên trung úy bộ đội chính quy Bắc Việt hồi chánh với cây cờ trắng và bản tường trình chi tiết kế hoạch tấn công tiến chiếm Khe Sanh của phía cộng sản: “Từ Khe Sanh, bộ đội cộng sản sẽ điều quân về hướng Đông, dọc theo Đường 9 đánh chiếm Quảng Trị, tiếp theo sẽ là Huế.” Nói chắc một ý niệm - Hành quân chiếm đóng toàn bộ phần đất Việt Nam Cộng Hòa bắc đèo Hải Vân. Người nầy cũng không quên chi tiết chính xác: Giờ G là 12 giờ 30 của Ngày N - 21 Tháng 1, 1968. (“Giờ G” của “Ngày N”: Giờ của Ngày Quyết Định mở đầu diễn tiến hành quân).
Không chậm trễ, để đối lại, phía Mỹ huy động toàn bộ hệ thống hỏa lực gớm ghê của họ để “Khe Sanh không thể là một Điện Biên Phủ” với kế hoạch đánh bom mang bí danh Niagara, mà chỉ trong vòng 24 giờ của ngày 21 tháng 1, đã có đến 600 phi vụ do phi cơ Hải Quân và Không Lực Hoa kỳ hiệp đồng thực hiện thêm với 49 phi xuất B 52 đến từ Thái Lan và đảo Guam. Khi trận đánh kết thúc, chuyên viên hoả lực không yểm chiếc tính ra số liệu chính xác: Trong 77 ngày Khe Sanh bị vây hãm, Không Lực, Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã thực hiện 24.000 phi vụ chiến thuật với 350 phi cơ gồm các loại A. 4, 6, 8 Skyhawk và F. 4C Phantom. Đồng thời, B 52 chiến lược cũng đã tham dự với 2700 phi xuất. Chúng ta nên biết thêm chi tiết: Mỗi chiếc B 52 trung bình mang 108 quả bom; mỗi quả nặng 245 ký-lô.
Nhưng Khe Sanh chỉ là một “diện” của thế trận - là “cái cớ” thu hút quân đội của các phe tham chiến trên chiến địa. Nỗi ĐAU Mậu Thân – “Điểm” thật thực sự xẩy ra ở những nơi khác, với những người dân - Người thường dân của Miền Nam Nước Việt. Huế được chọn lựa làm địa điểm dấy lên vũng lửa cảnh xương máu chập chùng lớn nhất.
LẦN GIỮ NƯỚC THỨ HAI
Đêm Giao Thừa 1967 sang 1968, Đài Hà Nội phát ra lời “Thơ Chúc Tết” của Hồ Chí Minh có nội dung:
Xuân nầy hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà
Nam -Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên toàn thắng ắt về ta!
Pháo ở Sài Gòn, các thành phố Miền Nam nổ nhiều hơn tất cả mọi năm. Nương theo tiếng pháo nầy, bộ đội chính quy miền Bắc, lực lượng vũ trang giải phóng, du kích địa phương cộng sản miền Nam đồng nổ súng hiện thực lời “Thơ Chúc Tết” trên.
Đêm Mồng 1 rạng Mồng 2 Tết Mậu Thân, 1968, Huế, thành phố cổ hơn trăm năm, kinh đô của Nước Việt thuở hưng thịnh, lặng chìm vũng tối. Nhưng, bất thình lình, cảnh tượng bình lặng nầy bị xé rách bởi tiếng đạn súng cối, hỏa tiễn rít ngang bầu trời nháng lửa soi bóng dáng chập chờn những hình người mang lá nguỵ trang lẫn lút nương theo màn đêm trên những lối đi dưới tàng cây, lề đường kín cửa. Lực lượng cộng sản đánh Huế phối trí trận địa theo kế hoạch:
- Đoàn 5 do Nguyễn Vạn chỉ huy gồm những đơn vị K4A, K4B, K10 và Tiểu Đoàn 12 ĐặcCông phối hợp với Thành Đội Huế từ vùng núi thượng nguồn sông Hương hành quân bôn tập tấn công những cơ sở chính quyền, chiếm lĩnh vùng dân cư hữu ngạn con sông, phía Nam thành phố.
- Đoàn 6 gồm có các Tiểu Đoàn K1, K2, K6 và 12 Đặc Công với bốn đại đội cơ hữu 15, 16, 17, 18 tăng cường một đại đội súng phòng không, toàn bộ lực lượng địa phương thuộc hai quận Hương Trà, Phong Điền và hai đại đội Biệt động có nhiệm vụ tấn công từ hướng Bắc vào các mục tiêu: Bộ Tư Lệnh SĐ1BB đóng tại Mang Cá; sân bay Tây Lộc; Đại Nội hoàng thành Huế.
Hai lực lượng trên được chi viện thêm các Tiểu Đoàn 416, 418 thuộc Đoàn 9 xuất phát từ vùng núi thung lũng A-Sao Tây-Nam Huế. Đơn vị nầy trước chiến dịch mang danh hiệu Cù Chính Lan, tên một thủ trưởng đã chỉ huy đoàn nầy trong chiến dịch Hòa Bình, Bắc Việt, 1951. Vào giai đoạn sau của chiến dịch, lực lượng cộng sản được Đoàn 8 (Hậu thân Trung Đoàn Sông Lô) tăng cường, bôn tập về Huế từ mật khu hướng Tây-Bắc.
Mũi tiến công chính do Thủ Trưởng Đoàn 6, Nguyễn Trọng Dần chỉ huy đánh chiếm tất cả cơ sở quân sự trú đóng trong khu thành nội một cách nhanh chóng; ngoại trừ sân bay Tây Lộc, các cơ sở trên đều bị chiếm đóng dễ dàng bởi chỉ do các đơn vị chuyên môn, không tác chiến phòng thủ. Đoàn nầy còn có nhiệm vụ lớn, “bắt sống Tướng Trưởng” giải về Bắc.
Trận phản công liên quân Việt- Mỹ đã diễn ra rất mực hào hùng vì chiến trường nầy đã có mặt từ trước những đơn vị ưu tú nhất của hai quân lực: Sư Đoàn 1 Bộ binh/VNCH với đại đội xung kích trinh sát lừng lẫy Hắc Báo; Chiến Đoàn1Nhẩy Dù tăng phái gồm các Tiểu Đoàn 2, 7, 9 dưới quyền của Trung Tá Lê Quang Lưỡng. Về phía Mỹ có Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 5 TQLC với chi đoàn thiết vận xa cơ hữu; Chiến Đoàn Đặc Nhiệm X-Ray do Tướng Foster Lahue, cựu chiến binh của Thế Chiến II và Triều Tiên chỉ huy gồm ba tiểu đoàn TQLC. Ngoài ra phải kể đến hai lực lượng mạnh, hai Lữ Đoàn 1 và 2 thuộc Sư Đoàn Nhẩy Dù 101 Mỹ đóng tại Phú Bài, và một Lữ Đoàn Không Kỵ (Air Cavalry) chiếm giữ vùng núi Tây-Nam Huế, ứng chiến cho chiến trường Khe Sanh. Tất cả lực lượng quan trọng tinh nhuệ nầy đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc theo diễn tiến sau:
Đại Đội Hắc Báo, thành phần xung kích, trinh sát Sư đoàn I Bộ Binh (đơn vị đại đội QLVNCH có huy chương tuyên công nhiều nhất từ hai chính phủ Việt, Mỹ, kể cả những đơn vị biệt lập của quân lực đồng minh), có nhiệm vụ trấn giữ khu Đại Nội, Điện Thái Hòa, nơi thiết triều của các Vua Triều Nguyễn. Nhưng Đại Úy Phan Gia Lâm chỉ huy đại đội nầy với quân số thiếu hụt (do số lớn binh sĩ đã về nhà ăn tết) không thể nào chống cự nổi mũi tiến công một tiểu đoàn vào khu vực đại nội. Sau năm giờ cầm cự, 5 giờ sáng ngày Mồng 2, đại đội của Lâm phải rút ra khỏi khu cấm thành để cố thủ kỳ đài, nhưng cuối cùng, lúc 8 giờ sáng, ổ kháng cự kỳ đài cũng đành lâm chịu thất thủ. Lá cờ ba “ngôi sao vàng giữa hai nửa xanh, đỏ” của Mặt Trận Giải Phóng được bộ đội cộng sản kéo lên trên nền trời mù sương xứ Huế ngày mưa phùn.
Nhưng lần mất sân bay Tây Lộc, Đại Nội chỉ là những tai nạn ắt có đầu tiên phải gánh chịu, phía VNCH lập tức phản công với những đơn vị chưa hề thất bại. Tiểu đoàn 2 Nhẩy Dù đơn vị từ lúc mới thành lập 1965 (do Thiếu Tá Lê Quang Lưỡng chỉ huy) đã đánh những trận mở đầu ở Bà Điểm, ngoại ô Sàigòn 1966, vùng Phi Quân Sự 1967, để nên thành đơn vị được xuất sắc tuyên công chỉ sau ba năm thành lập. Đêm mồng 1, từ Quận Quảng Điền, đông-bắc Thị Xã Huế, đơn vị đã hành quân cấp tốc chạy qua cây số với tất cả sức nặng ba-lô vũ khí trên lưng người lính. Nhưng lần chạy việt dã băng đồng khó nhọc nầy không hoàn toàn bình an vì quân cộng sản đã phục kích ngay trên đoạn đường độc đạo từ quận lỵ đổ ra Quốc Lộ 1 ở An Lỗ, trên cầu sông Bồ, tuy nhiên tiểu đoàn cũng đã kịp đến cầu An Hòa, (cửa ngỏ đường lên phía bắc, hướng Quảng Trị), hiệp đồng với đơn vị bạn, Tiểu Đoàn 7 Dù, đánh qua mục tiêu làng Đốc Sơ, chiếm giữ đầu cầu, cắt đường tiếp vận về những căn cứ, mật khu cộng sản thuộc vùng Phong Điền, An Lỗ, Cổ Bi, Hiền Sĩ. Những căn cứ địa vùng Tây-Bắc Thừa Thiên - Huế đã nổi tiếng từ chiến tranh 1946-54 là những an toàn khu bất khả xâm phạm. Từ cầu An Hoà vào đến đồn Mang Cá, bản doanh Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh chỉ hơn cây số đường chim bay, nhưng hai tiểu đoàn Dù 2 và 7 phải mất một ngày sau mới vào tới được. Nơi nầy, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng đang đích thân chỉ huy cuộc chống đở với nón sắt, áo giáp, súng cá nhân như một khinh binh. Hai đơn vị Dù đi hết đoạn đường ngắn ngủi kia với hơn hai mươi-bốn giờ tác chiến liên tục, với kết quả số thương vong hao hụt hơn một nửa quân số cơ hữu. Trưa mồng 4, Tiểu Đoàn 9 Dù, đơn vị đã chạm địch từ đêm Giao Thừa ở mặt trận Quảng Trị với Trung Đoàn 812 cộng sản Bắc Việt được không vận về Huế tiếp sức với hai tiểu đoàn nhẩy dù bạn bảo vệ thành Mang Cá để từ đây Tướng Trưởng chỉ huy cuộc phản công tái chiếm thành phố.
Khi Huế bị đánh, về phía Mỹ không có một lực lượng tác chiến nào trong thành phố, ngoài Bộ Chỉ Huy MACV ở sát cạnh Tiểu Khu Thừa Thiên. Mãi đến chiều ngày mồng 3 tết (2-2) mới có một đại đội TQLC đầu tiên đến tăng cường giữ MACV. Liên tiếp trong ba ngày 1, 2, 3 tháng 2, lực lượng của Tiểu Đoàn 2/5 TQLC như trên đã nói mới vào vùng hành quân với mục tiêu là Khu Đại Học Huế và Bộ Chỉ Huy MACV. Hồi 16 giờ chiều ngày 10 tháng 2, một đơn vị TQLC trực thăng vận tăng viện cho Tiểu Đoàn 2/5. Tuy thời tiết rất xấu, nhưng cuộc chuyển quân cũng hoàn tất; trong cùng lúc một tiểu đoàn TQLC khác được đưa từ Phú Bài vào Huế bằng xe. Chính quyền và dân chúng đồng lòng nô nức trước lần tăng viện mang lại phấn khởi nầy.
Giai đoạn quyết định giải tỏa mặt trận Thành Phố Huế được đánh dấu bởi lần thay thế Chiến Đoàn I Dù bởi Chiến Đoàn A TQLC/VN. Chiến đoàn nầy được không vận từ Sài Gòn đến sân bay Phú Bài, từ đây di chuyển đến cầu tàu hữu ngạn Sông Hương, dùng thuyền đổ bộ lên bến Bao Vinh để tiếp xâm nhập vào Thành Nội Huế. Chiến Đoàn A gồm ba tiểu đoàn bộ chiến do Thiếu Tá Hoàng Thông chỉ huy, khai diễn Hành Quân Sóng Thần 739/68 với mục tiêu là khu vực Tây-Nam Thành Nội Huế, để từ đây mở rộng ra hướng cầu Bạch Hổ.
Trận chiến ở khu vực TQLC được mô tả như sau dưới mắt nhìn của Nguyễn Tú, phóng viên niên trưởng của làng báo Sài Gòn ba mươi năm trước: “Đại Đội 4 Tiểu Đoàn 1 TQLC do Trung Úy Nguyễn Xuân Tòng chỉ huy; anh chỉ cho tôi hướng tiến quân:”Địch đang ở trong cái chùa cách chúng ta 30 thước và cách trường học phía bên trái 60 thước..” Bất ngờ tiếng nổ ầm cách chúng tôi khoảng mười thước, ném tung đất bùn lên đám lính đang ngồi thấp chờ lệnh. Phía cộng sản bắn hỏa tiễn vào đội hình của đoàn quân. Đại bác chiến xa đồng khai hỏa, tiếp loạt đại liên 50 ly chém gẫy cây cành, lá rơi tơi tả. Đạn súng đã bắn ra mà tiếng dội còn vang vọng trong sương mai lạnh lẽo. Trung Úy Tòng ra lệnh cho toán quân Chuẩn Úy Nhựt tiến chiếm ngôi chùa. Nhựt dẫn đầu toán lính, vừa bắn vừa chạy, tản rộng hai bên bọc lấy những bức tường của ngôi chùa, sau đó tiếp tục đánh vào mục tiêu thứ hai, khu trường học, nơi những địch quân vừa từ chùa chạy về cố thủ.. Bỗng có tiếng la lớn: “Chết cha, Chuẩn Úy Nhựt chạy trước kìa.. Đâu đã có lệnh cho lên?!” Người lính chưa kịp nói dứt lời thì tràng đạn “tắc, tắc”nổ dòn...Một bóng người ngã gục trên khoảng đất trống, cách chùa mười lăm thước.. Có ai đó đã lấy một tấm pông-sô phủ lên hình hài Chuẩn Uý Nhựt. Gần chỗ cỏ xanh loang máu đỏ lẫn với bùn, nơi Chuẩn Uý Nhựt ngã xuống cho lần giải phóng Thành Nội Huế, một chiếc nón sắt nằm trơ, ngữa lên bầu trời vẩn mây xám, mưa phùn, gió rét. Hai bên nón sắt có giòng chữ và chữ ký ngang tàng, phóng túng:”Sống bên em. Chết bên bạn” của người lính đã chết trong buổi đầu xuân. Người lính còn rất trẻ.
Mặt trận Thành Phố Huế chấm dứt với lần tham chiến của hai Tiểu Đoàn 21 và 39 Biệt Động Quân có nhiệm vụ tảo thanh khu Gia Hội, vùng cư dân nằm dọc theo Sông Đào và Sông Hương. Vùng nầy nhà cửa ít bị thiệt hại nhưng dầy đặc những hầm xác người bị thảm sát do lần rút đi trong thất bại của lực lượng cộng sản sau 26 ngày chiếm đóng. Bốn giờ chiều ngày 24 tháng Hai, năm 1968, hình ảnh bi tráng linh thiêng của chiến tranh Việt Nam hiện thực: Người Huế, những người lính chiến đấu ở Huế đồng bật khóc khi LÁ CỜ VÀNG BA SỌC lên cao trên kỳ đài giữa mù sương và mưa bay. Và cũng như lần chào cờ đầu năm cách đó 26 ngày, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng, tư lệnh toàn thể lực lượng giải tỏa thành phố Huế suốt khoảng thời gian dài kia đã không hề nghỉ ngơi, với trang bị nón sắt, áo giáp như một người lính ở đầu tuyến. Ông có mặt nơi trung tâm hành quân, theo dõi các vụ ném bom, phản pháo, cố thủ những vị trí tái chiếm, điều quân tăng viện. Ông đến đầu giường của thương binh vừa được chuyển về quân y viện, ông có mặt với những ca mổ nghiêm trọng, an ủi thân nhân binh sĩ thiệt mạng. Ông đã là tướng lãnh độïc nhất của quân lực miền Nam sống trọn vẹn với chiến trường, với mỗi người lính, khi cần có những quyết định khẩn cấp, hiệu quả kể từ ngày khởi đầu trận đánh, để đến hôm nay trong buổi oanh liệt, chỉ huy lễ thượng kỳ. Khuôn mặt khắc khổ chĩu nặng ưu tư của người chỉ huy chiến trường lặng xuống trong khoảng khắc.
Quân và Dân thật một lần bật khóc
Khi lá Cờ Vàng Ba Sọc
Lừng lững lên cao
Giữa mù sương xứ Huế mùa Xuân nào..
LẦN GIỮ NƯỚC THỨ BA.
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, ảnh chụp tháng 3, 1975
Mùa Hè 1972, Tháng Ba, từ ngày Bắc quân khởi cuộc đại tấn công Miền Nam, thêm một lần Quảng Trị, Thừa Thiên, hai vùng đất trước tiên hứng chịu tai ương tàn khốc của bom đạn. Và người dân lại thêm một lần lập lại tình cảnh thương tâm, tay bế con, lưng cõng cha mẹ già xuôi theo Đường Số I dưới che chở độc nhất hay mối hy vọng cuối cùng - Người Lính - Lính cộng hòa ơi, cứu bà con...lính cộng hòa ơi..!! Trên đoạn đường máu La Vang, Hải Lăng, Mỹ Chánh dọc đường Số I giữa Quảng Trị và Huế không phải đôi ba người trong một tình thế riêng biệt nào đó, nhưng toàn khối dân bi thương nguy biến cùng gọi lên như thế một lần. Họ gọi với hơi thở cuối, mồm há hốc, mắt trợn đứng, khi máu chảy, nằm xuống giãy dụa, tay lần chuỗi hạt, mắt nhắm nghiền, trên đầu, chung quanh đại pháo Bắc quân nổ liên hồi, nổ tàn ác.. Đạn nổ không bỏ sót một phần đất, không quên một thân người.. Lính Cộng Hòa ơi! Người dân rất nhiều lần kêu lên như thế. Nhưng hôm nay, tháng 5, 1972 người Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế nhất định trở về, sống lại cùng làng xưa, chốn cũ bởi: Ông Trưởng đã ra Huế! Ông Trưởng đã tới ngoài Huế rồi bà con ơi! Người dân hăm hở,ï tin tưởng thúc dục nói cùng nhau, và những chuyến hàng Đà Nẵng - Huế (a) bắt đầu trở lại với hành khách chen chúc đầy ngập. Trên đoạn đường lây lất, ươn ướt thịt da người phía nam La Vang, lối “về ngoài mền..” thấp thoáng từng toán người gồng gánh chạy theo đoàn quân với lời nhắn nhủ.. “Mềm về Quảng Trị thôi bà con ơi, ông Trưởng đã vô ở trung Mang Cá (b) giư kỳ Tết Mậu Thân với mền rồi bà con nè(c)” ((a) Đà Nẵng- Huế: Khoảng cách 103 cây số, Đà Nẵng ở về phía nam Đèo Hải Vân, địa giới thiên nhiên giữa Quảng Nam - Thừa Thiên (Huế).(b) Mang Cá: Cơ sở quân sự đông-bắc Thành Nội Huế: Nơi đặt Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh, Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Đoàn I, chỉ huy mặt trận phía bắc đèo Hải Vân trong chiến dịch phản công năm 1972.
(Chú thích (c)”mền=mình”; “trung= trong”; “giư=như”)
Chiếc xe jeep mang cờ hiệu tư lệnh màu đỏ với ba ngôi sao trắng chạy chậm dọc đường Trần Hưng Đạo hướng cầu Gia Hội. Vị tướng quân khẻ liếc về hai bên, che dấu cảm xúc trong ánh mắt u uất, cố giữ vẻ bình thản, ông đưa tay lên vành nón sắt tỏ ý nhấc khẻ để đáp lễ những người dân kính cẩn chào ông với cách nhìn hàm ân, trân quý. Chợ Đông Ba ngầu đục váng vất những đường khói nhỏ bốc mùi khét, và loang lỗ vết nám đen trên lớp tường sơn vôi vàng nhạt - dấu vết của lần hỗn loạn hai ngày trước, 30 tháng 4, 1972 khi mặt trận Quảng Trị tan vỡ và đám lính phẫn nộ tràn vào thành phố với những người dân đang nháo nhác rùng rùng di tản. Huế mau chóng lâm cơn hấp hối cũng bởi ảnh hưởng, tác động kinh khiếp của Mậu Thân mà dấu vết vẫn còn rất mới - Từ đêm Giao Thừa 1968 nối tiếp, mở rộng, thấm sâu ấn tượng bi thảm của lần thất thủ kinh đô 1885, mà nay vẫn hằng lưu trong tâm hồn người Huế.. Giặc vào và hiện thực cảnh tượng nhà tan, cửa nát, người chết hằng hằng lớp lớp. Gần một thế kỷ qua kể từ năm tháng bi thảm kia, mối đau không hề giảm bớt, mà lại càng tăng thêm sắc độ khốn cùng, thương tâm. Chỉ một điều khác biệt: Thực Dân Pháp năm 1885 khi tiến đánh Kinh Đô Huế, không có được “ý niệm chính trị tiến bộ của kẻ ngụy danh cách mạng giải phóng” sau nầy - Họ chưa biết cách thực hiện, không hề có cơ tâm tàn nhẫn thực hiện kỹ thuật giết người rẻ tiền và im lặng của quần lũ gọi là “bộ đội nhân dân” - chôn sống những đồng bào, đồng loại mình. Thế nên người người hớt hải xuôi Nam hướng Đà Nẵng, rần rật chen chúc lên tất cả mọi phương tiện di chuyển. Lại một lần bỏ quê hương chạy giặc. Đấy là cảnh tượng của những ngày cuối tháng Tư, năm 1972. Nhưng, nay tình thế đã hoàn toàn khác hẳn. Bởi, Quân Lệnh Thứ Nhất của Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I/QK1 loan báo khẳng định:
“Tất cả quân nhân các cấp QLVNCH trong lãnh thổ Khu 11, Vùng I Chiến Thuật (kể cả thành phần tăng phái, thuộc dụng hành quân), quân phạm, lao công đào binh phải trở về trình diện đơn vị, hoặc tại địa điểm quân sự gần nhất trong vòng 24 giờ kể từ “Không Giờ” ngày 2 tháng 5, năm 1972.
Các trường hợp vắng mặt bất hợp pháp tại đơn vị coi như đào ngũ trong thời chiến, khi đối diện địch quân, sẽ bị truy tố ra trước tòa án quân sự mặt trận với trường hợp khẩn cấp.
Tất cả hành vi cướp giật, phá hoại, khủng bố sẽ bị trừng phạt, xử bắn tại chỗ do các đơn vị Quân Cảnh Quân LựcViệt Nam Cộng Hòa toàn quyền áp dụng, thi hành”.
Huế hồi sinh từ những giòng quân lệnh mạnh mẽ và sự hiện diện uy nghiêm của vị Tướng Quân Tư Lệnh. Và người Huế, Quảng Trị chuẩn bị trở về.
Để mở đầu cho Ngày 28 tháng 6, khai diễn chiến dịch giải tỏa toàn thể Quảng Trị, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã chuẩn bị, thực hiện những điều kỳ lạ kể từ ngày nhậm chức tư lệnh 1 tháng 5, chỉ hơn một tháng trước. Những điều kỳ lạ nầy không do phía người Việt chủ quan tự định đặt, nhưng hiện thực trong báo cáo của Tướng Fred Kroesen, cố vấn trưởng Quân Đoàn I với Đại Tướng Abrams: “Ông ta đã làm cho ban tham mưu hoạt động chưa từng có ở Quân Đoàn I. Tướng Trưởng đã đẩy bộ máy kia chạy với một cách thế khẩn cấp không bao giờ thấy từ trước đến nay. Sau đây là trận đánh điễn hình dựng nên buổi oanh liệt với mục tiêu Cổ Thành Đinh Công Tráng, Thị Xã Quảng Trị .
Sau cuộc lui binh oan nghiệt, hỗn loạn, rời bỏ Đồng Hà, Quảng Trị, căn cứ Aùi Tử, và những vị trí quan yếu bắc sông Thạch Hãn, kể từ ngày 1 tháng 5, phòng tuyến cực bắc của miền Nam dừng lại ở Sông Mỹ Chánh. Con sông rộng không quá một trăm thước chiều ngang kia thật sự không thể là tuyến phòng thủ thiên nhiên hữu hiệu, hơn thế nữa, đường tiếp cận trong Trường Sơn, qua ngã thung lũng A-Sao, A-Lưới để về Huế đã hoàn toàn thuận lợi khi các binh đoàn cộng sản chiếm được những căn cứ hỏa lực Bastogne, Checkmate, cửa vào thành Phố Huế từ ngõ tây-nam. Nếu lực lượng cộng sản tiếp tục lấn chiếm được đoạn phía nam Huế (đường đi Đà Nẵng), và cắt Đường Số I ở khoảng An Lỗ, theo chiều ngang của sông Bồ thì lực lượng thủy quân lục chiến nơi phòng tuyến Mỹ Chánh nầy sẽ nằm gọn trong một chiếc túi bị thắt chặt cả hai đầu nam lẫn bắc, không cần bị tấn công cũng sẽ phải rút đi, mà chắc gì thoát được về Đà Nẵng (Chiến trận tháng 3, 1975 sau nầy là minh chứng cụ thể của ý niệm vừa trình bày). Đoạn Mỹ Chánh- Huế chỉ khoảng năm mươi cây-số, và sau Huế là Đà Nẵng với hơn 100 cây-số còn lại. Chiến dịch tấn công Miền Nam của bộ tổng quân ủy Miền Bắc với tên hiệu Nguyễn Huệ ắt sẽ trở thành hiện thực với cuộc “Nam tiến ngụy danh giải phóng” nếu như phòng tuyến Mỹ Chánh vỡ từ đầu những ngày tháng 5, 1972. Nhưng Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến của Đại Tá Bùi Thế Lân (Đại Tá Lân thay Trung Tướng Lê Nguyên Khang giữ chức tư lệnh sư đoàn cùng ngày 1 tháng 5) với những Lữ Đoàn 147 và 258 TQLC dẫu bị tổn thất nặng trong suốt trận chiến kể từ tháng 3 nơi những căn cứ hỏa lực Holcomb, Sarge, Núi Bá Hổ, Mai Lộc nam sông Bến Hải, đã không để mưu định kia nên hiện thật. Từ phòng tuyến mong manh nầy, với lòng tin cậy đối với những đơn vị tăng phái hành quân, Trung Tướng Trưởng trả lại quyền điều động đơn vị cho Đại Tá Lân trong khu vực trách nhiệm - Lần đầâu tiên kể từ ngày thành lập, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến được xử dụng hết sức mạnh tổng hợp đúng kích thước của một sư đoàn. Nói lại thêm một lần cũng chưa đủ- Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã trả lại cho người lính ở mặt trận Trị-Thiên sức chiến đấu thần kỳ của họ.
Ngày 27 tháng 7, Thủy Quân Lục Chiến thay thế Nhẩy Dù để “dứt điểm” Cổ Thành Quảng Trị. Thật ra, kể từ 25 tháng 7, Tiểu Đoàn 5 Dù đã bám được bức tường đá Cổ Thành Quảng Trị với yểm trợ tiếp cận của phi cơ A37 Không Quân Việt Nam, nhưng khi Đại Uùy Nguyễn Tấn Sĩ, Đại Đội Trưởng Đại Đội 51 của tiểu đoàn nầy thúc lính bò lên thành thì cũng là lúc Không Quân Hoa Kỳ can thiệp, dội bom nội thành.. Do những lý do kỹ thuật, hai trái bom đã đánh nhầm vào đội hình quân bạn, Tiểu Đoàn 5 mất đà, khựng lại và dội ngược. Sư Đoàn Dù lại để trống ngã Bến Chùa, đường qua sông Thạch Hãn về Nhan Biểu, Ái Tử: Đường tiếp vận quan yếu của hệ thống hậu cần Bắc quân. Chín tiểu đoàn Dù hiện có chỉ vừa đủ rải dài từ Mỹ Chánh đến Quảng Trị, từ đường chiến thuật 556B ra đến Quốc Lộ I; thế nên, cần phải có thêm một lữ đoàn (với ba, hoặc bốn tiểu đoàn bộ binh tác chiến) tăng cường để chận con đường Ái Tử - Nhan Biều - Cổ Thành là ước vọng tha thiết của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Dù hay cũng chính của Tướng Trưởng.
Gần hai tháng qua đi kể từ ngày khởi cuộc phản công, tất cả các đơn vị tham chiến bị ngừng lại bên bờ hào của vòng thành đá tảng, tuyến chiến đấu của ta và địch cách nhau đúng 400 thước (hai tầm đạn súng cá nhân), nhưng cũng có nơi không còn thước nào cả, bởi các chốt kháng cự đan kín vào nhau, nên nay đã đến lúc cần phải thay đổi kế hoạch tác chiến để thực hiện lời nguyền trước quốc dân và lịch sử.
Tư Lệnh chiến trường, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng quyết định cùng hai viên tư lệnh Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến - Hai tướng lãnh vừa được vinh thăng tại mặt trận, trên chiến địa Trị -Thiên nầy - Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng và Bùi Thế Lân một kế hoạch tái phối trí: Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến nhận trách nhiệm phần đất bên trái Quốc Lộ I chạy dài ra đến biển; Sư Đoàn Dù từ trái quốc lộ đổ sâu vào hướng núi. Tiểu Đoàn 6 TQLC thay chỗTĐ6 Dù chịu trách nhiệm góc tây-nam cổ thành, ngã tư đường Trần Hưng Đạo- Quang Trung; 3 TQLC đổi 5 Dù chịu trách nhiệm phòng tuyến dọc đường Lê Văn Duyệt đối diện Cửa Tiền; 9 TQLC đổi 11 Dù, Trâu Điên (2 TQLC), Quái Điểu (1 TQLC) chận đường cửa Bắc ngang sông Thạch Hãn, cũng là đường tiếp vận cho lực lượng cộng sản cố thủ cổ thành. Chúng ta hãy sống cùng những giờ phút dũng liệt với xương máu của mỗi một người lính - Những Người Lính Vô Danh mà linh thiêng sông núi đã hun đúc nên thành, gánh chịu suốt cuộc chiến điêu linh.
Đại Tá Ngô Văn Định, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369 TQLC, vị lữ đoàn trưởng thâm niên nhất của sư đoàn nhận nhiệm vụ chỉ huy đơn vị xung kích tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị từ hướng tây- nam; Lữ Đoàn 147 chịu trách nhiệm mặt phía Đông từ quận Triệu Phong ra đến biển. Sư Đoàn TQLC kể từ ngày thay thế nhảy dù tuy đã chiến đấu không hề ngưng nghỉ nhưng cũng chỉ đẩy các chốt địch từ ngoài vào trong cổ thành, và điểm gần nhất cũng còn cách bờ hào thành khoảng hai trăm thước. Không thể chần chờ hơn nữa, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I dưới điều hành trực tiếp của Tướng Trưởng soạn thảo Kế Hoạch Lôi Phong/Giai Đoạn 2 xử dụng tối đa hỏa lực phi, pháo trong 48 giờ liên tiếp theo diễn tiến: Không quân chiến lược B52 liên tục trải thảm từ sông Thạch Hãn (bắc cổ thành) đến Đông Hà (Bắc Quảng Trị 50 cây-số), có nhiệm vụ đập nát tất cả vị trí pháo binh, hoả tiễn, bộ chỉ huy, điểm tiếp vận; tiếp đến hải pháo từ Hạm Đội 7 bắn vào các điểm nghi ngờ liên tục trong suốt chiến dịch vào những lúc phi cơ tạm rời vùng; pháo binh diện địa 175 ly từ Phong Điền tăng cường quấy rối, đặc biệt chiếu cố thật kỹ vị trí toạ độ cổ thành; 12 khẩu đại bác 155 ly, 54 khẩu 105 ly cơ hữu của Sư Đoàn TQLC được lệnh tác xạ không ngừng một phút, pháo thủ chỉ thay nhau ngủ vài giờ nửa đêm, từng khẩu pháo được điều chỉnh để không một trái đạn rớt ra ngoài bờ thành. Đạn bắn không cần đếm, hàng trăm xe vận tải hạng nặng chở đạn đi suốt ngày đêm trên lộ trình Đà Nẵng- Quảng Trị, đạn giở xuống để ngay trên Quốc Lộ I dài hàng cây-số, lính pháo binh cứ tự động đến lấy mang đến vị trí pháo khỏi phải làm phiếu lãnh. Có người đã ôm viên đạn trong tay nhưng kiệt sức, không nạp nổi vào nòng, anh ta ngã gục bên khẩu pháo. Trong vòng 48 giờ, đã có 60.000 ngàn quả đạn bắn đi, không một phân đất nào của khu vực chung quanh cổ thành, trong thị xã không có dấu đạn rơi.
Về phần bốn bờ tường thành được dành cho không quân chiến thuật Việt Nam và Mỹ từ Đà Nẵng, Chu Lai, Tuy Hòa, Hạm Đội 7 đồng thực hiện. Các phi công phải lựa chiều đánh bom làm sao quả bom rơi đúng trên năm thước bề dày của chiếc thành, cốt triệt hạ khối đá vuông vức kia thấp xuống, càng thấp càng tốt; phải đập nát bốn lô-cốt ở bốn góc, khoá họng những thượng, đại liên mà xạ thủ đã bị xích chân vào súng. Và cuối cùng cũng phải cầu viện đến “bom mắt thần”, những quả bom nặng 500 cân Anh, điều khiển bằng ra-đa để đánh xuống những đoạn thành quá kiên cố mà pháo và bom thường không triệt hạ được. Nhưng cái tường thành ngạo nghễ kiên cố kia dầu chỉ còn thấp khoảng vài ba thước, gạch đá ngỗn ngang vẫn còn những đám con cháu “Bác Hồ” ẩn sâu trong những căn hầm chữ A, loại hầm cứng chắc có khả năng chịu được phi pháo- chỉ trừ khi bom rơi ngay vào miệng hầm. Thế nên, cứ dứt pháo thì lính cộng sản không đường rút lui nầy lại nhô đầu ra bắn điên cuồng về phía trước mặt, hiệp cùng cối pháo hỏa tiễn bên kia bờ Thạch Hãn, trong núi, nam sông Bến Hải dội xuống dồn dập. Không để bị bó buộcvì tình thế, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy quân Lục Chiến lại thêm một lần thay đổi ý định điều quân: Lữ Đoàn 369 bàn giao vị trí cho bạn, lui binh làm thành phần trừ bị, cái “bánh chưng” gọi là cổ thành kia được cắt ra làm hai: Nửa phía Đông giao cho Lữ Đoàn 147, xử dụng hai Tiểu Đoàn 3 và 8 đánh từ hướng Đông qua và chính diện mặt Nam. Lữ Đoàn 258 điều động “Trâu Điên”, 2 TQLC đánh từ hướng Tây, “Ó Biển”, 6 TQLC đánh chính diện Cửa Hữu theo Đường Quang Trung, vùng cư dân trước đây gọi là Phường Thạch Hãn. Lực lượng tấn công dứt điểm sẵn sàng trên tuyến xung phong đợi Lôi Phong chấm dứt sau 48 giờ bão lửa.
Tại hầm chỉ huy Tiểu Đoàn 3 TQLC, Thiếu Tá Cảnh nói cùng Đại Uy Thạch, Đại Đội Trưởng Đại Đội 3: “Anh Thạch, tôi biết anh mới lui về nghỉ có mấy ngày, nay giao cho anh nhiệm vụ nầy thì kỳ quá, nhưng tiểu đoàn mình chỉ còn anh là đại đội trưởng cứng nhất, kế hoạch Lôi Phong 2 đã bắt đầu từ ngày hôm qua, đợi giờ chấm dứt, tối nay anh đem đại đội lên trám tuyến cho “thằng 1” (Đại Đội 1), rồi tìm cách tiến sát vào chân thành kia trước khi trời sáng. Nếu không được thì lui về, để trời sáng tụi nó nhìn rõ là hỏng việc..” Đại Úy Thạch về họp cùng với các trung đội trưởng để bàn định kế hoạch đột kích. Anh nói với những trung đội trưởng đang ngồi chen chúc trong chiếc hầm chìm bóng tối; những tròng mắt khô rốc mệt nhọc trừng trừng nhìn xuống tấm bản đồ đặt trên đất: “Đây, cái bờ thành nầy, làm thế nào đại đội mình cũng phải leo lên cho được, điều tôi dặn kỹ là binh sĩ không được bắn vu vơ, đến sát bờ thành thì tung lựu đạn thật nhiều rồi leo lên, bám chặt vào đó. Đừng để tên nào leo xuống. Bám vào được thì mình mới có thể bung ra hai bên..”
Đại Đội 3 Tiểu Đoàn 3 TQLC vượt tuyến tấn công lúc nửa đêm, ba giờ sáng, đoàn quân đến mục tiêu ấn định - Bờ tường Cổ Thành Quảng Trị, nơi cách hầm đóng quân hai trăm thước - hai trăm thước khoảng cách được vượt qua bởi những người lính bò im lặng trong đêm trên gạch đá, mìn bẫy, và dưới trùng điệp lưới lửa, đạn đại pháo của cả hai bên.. Đột nhiên, một loạt đạn pháo binh nổ rền ngay đầu hướng tiến của đại đội, Thạch (Đại đội trưởng) qua ống nói máy truyền tin nghe tiếng la mừng rỡ của người trung đội trưởng: “Trình đại bàng (người chỉ huy), thằng Xuân của tôi đã qua hào vào sát bờ thành, pháo đang nổ trên đầu nó, thẫm quyền bảo ông phở Bắc (pháo binh) ngưng đi để tụi nó leo lên..” Báo cáo được nghe tiếp với những lời nói đứt khoảng dồn dập lẫn trong âm động đạn súng tay, lựu đạn, đại liên, và pháo, cối từ phía Bắc bắn xuống yểm trợ đám bộ đội cộng sản..”Thằng Xuân đã lên đến bờ tường rồi.. Chúng tôi đã sang.. bên kia.. bờ hào nước..Tụi nó.. tụi nó bắn ghê quá.. Lên.. lên.. đi”. Không đợi nghe hết lời báo cáo, Đại Uùy Thạch đứng sỗng dậy hét to: Xung phong.. xung phong! Tất cả đại đội vụt chạy nhanh qua chiếc hào thành đã cạn nước vì đất đá hai bên đổ xuống. Những người lính đồng thanh hòa theo lời hô của viên đại đội trưởng.. Xung phong! Xung phong!! Những thân người ngã xuống vật vã trên gạch đá tan vỡ, máu tươi rói bắn ra tia thấm đẫm bạt vào người bên cạnh. Không biết ai trúng đạn, ai còn sống- khoảng cách quá gần và trời quá tối - những người thoát đạn xốc tới.. Xung phong.. xung phong!!
Cùng lúc, phía tây-nam, đại đội của Đại Uùy Định (Định “con”, để phân biệt với Đại Tá Định, Lữ Đoàn Trưởng 369) thuộc Tiểu Đoàn 6 TQLC khi nghe tiếng hô rền từ cánh quân bạn cũng đồng bật dậy, bỏ vị trí xốc tới.. Xung phong.. xung.. xung phong!! Giữa bóng tối mù mịt, qua ánh chớp đạn pháo binh địch, và loé sắc của lựu đạn đánh cận chiến, bóng hình người lính thủy quân lục chiến ào lên, thấp thoáng, vùn vụt trên những khối đen của dãy tường thành loang lỗ chập chờn lửa dậy. Bốn giờ sáng, trời vừa hừng đông, được tăng thêm độ sáng do đạn lửa của pháo, hỏa tiễn cộng sản bắn tràn lên vị trí để các đơn vị bộ đội địch tháo chạy, những người lính củacác Tiểu Đoàn Thần Ưng (TĐ6), Sói Biển (TĐ3) hoàn toàn làm chủ, tràn ngập trên bờ thành phía Nam; về phía Đông, khu trách nhiệm của Tiểu Đoàn 8, Tiểu Đoàn Trưởng, Trung Tá Nguyễn Văn Phán vượt lên tuyến đầu đích thân thúc quân ép sát vào bờ thành bởi nhận ra sức chiến đấu của đám lính cộng sản cố thủ yếu dần, đang thất thần tìm đường lẫn trốn trước đợt tiến công dồn dập uy mãnh của lính miền Nam; những tên không tháo chạy được đồng bị thanh toán tại hầm bằng lựu đạn, hoặc súng tay bắn với khoảng cách gần nhất, đạn xuyên vào da thịt người nghe lụp bụp, thân người nẫy ngược lên. Hướng chính Tây, mặt tấn công của Tiểu Đoàn 2 “Trâu Điên” cùng Thiết Đoàn 20 Chiến Xa, lực lượng xung kích ào vào chân thành như thác lùa, lũ lớn theo những khoảng vỡ đỗ của bức tường thành nay đã biến dạng nên thành khối hình ngỗn ngang chồng chất, lính “Trâu Điên” xốc tới như tên hiệu đơn vị.. Đến chiều 14 tháng 9, lực lượng Thủy Quân Lục Chiến kiểm soát toàn phần bờ thành, khu vực phía nam, chia quân lục soát những khu hầm nhốt tù (do người Pháp xây dựng đầu thế kỷ) mà sau nầy, trước tháng 4, 1975, Tiểu Khu QuảngTrị, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Bộ Binh đặt trung tâm hành quân; đám lính cộng sản ném súng, lội sông Thạch Hãn tháo chạy về phía Bắc như đàn vịt nháo nhác trên khoảng sông phơi đáy cát. Một chiếc L19 (máy bay quan sát) bay lờ lững trên cao, anh phi công tinh nghịch rà xuống sát mặt nước, bắn ra trái đạn khói, những tên lính cộng sản chạy trốn hốt hoảng đưa tay đầu hàng, đứng ngơ ngác trên giòng sông mờ đục trống trải.
Đêm 14 tháng 9, lần đầu tiên sau 48 ngày, đêm, Đại Úy Thạch, Đại Đội Trưởng Đại Đội 3, Tiểu Đoàn “Sói Biển”, đơn vị tiên phong của đợt đột kích dứt điểm cổ thành được ngủ một giấc dài vì đôi giày đã được cởi ra. Nhiều người lính của mặt trận Quảng Trị cũng được “hạnh phúc” nhỏ bé tầm thường tội nghiệp nầy. Sáng hôm sau, ngày 15 tháng 9, 1972 từ căn hầm phòng thủ nơi đặt ban chỉ huy đại đội, qua lỗ hỗng, Thạch thấy rừng rực lá cờ Vàng Ba Sọc bay uy nghi trong gió sớm lẫn màn khói đạn, bom chưa tan hẵn. Anh thấy cay cay trong mắt với cảm giác nôn nao thầm lắng.. Cảm xúc từ rất lâu anh không có - Cảm giác muốn khóc về một điều bi phẫn.
Nơi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I ở thành Mang Cá, Huế, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cất chiếc nón sắc đã đội suốt từ bao ngày đêm. Người chỉ huy chiến trường ngồi lặng im rất lâu. Nét mặt không gợn nét, đổi sắc.
Để kết luận, ta thử tìm so sánh.
Người Đức bao vây Stalingrad 76 ngày; người Mỹ giữ Bataan trong 66 ngày, Corregidor 26 ngày; quân lực Anh và Khối Thịnh Vượng Chung tử thủ Tobruk trong 241 ngày; phải mất đến bốn ngày kịch chiến, một trung đội thuộc Trung Đoàn 28/Sư Đoàn 5 TQLC Mỹ mới dựng được ngọn cờ oai dũng Sao và Sọc lên đỉnh núi Suribachi của Đảo Iwo Jima.
Và thập niên 50, Điện Biên Phủ (miền Bắc nước Việt) thực sự bị bao vây 56 ngày dưới sức công phá của những sơn pháo 75 ly, và đại pháo (Trung Cộng) tương đương 105 ly.. Những trận đánh để đời của quân sử toàn cầu kia đó có là gì so với Quảng Trị, chỉ từ 27 tháng 7 đến 14 tháng 9 là 48 ngày, và nếu kể từ ngày 7 tháng 7, lúc Tiểu Đoàn 7 Dù vượt qua Ngã Ba Long Hưng, vào cách Chi Khu Mai Lĩnh 300 thước thì mặt trận thành phố Quảng Trị thực sự đã kéo dài trong 68 ngày. Trong 68 ngày ấy, lực lượng bộ chiến gồm bốn Tiểu Đoàn Dù (5, 6, 7, 11) trong giai đoạn đầu; hoặc tám Tiểu Đoàn TQLC, một liên đoàn BĐQ, và một thiết đoàn chiến xa của giai đoạn 2. Trong 68 ngày đó, chỉ riêng 48 ngày của Thủy Quân Lục Chiến, những người lính quân đội Miền Nam đã phải chiến đấu liên tục trên một chiến trường dài hai cây-số năm-trăm thước từ ngã Ba Long Hưng, ngõ vào Thị Xã Quảng Trị đến sát bờ sông Thạch Hãn, và bề ngang một cây số hay một ngàn thước - Những con số nầy phải viết chính xác để nói đủ về một chiến trường hẹp cứng, gai góc vượït hết ý niệm chiến trận - Chiến trường có diện tích “Hai ngàn năm- trăm thước vuông” đó đã được 15 tiểu đoàn bộ chiến bao vây, quét sạch từng thước đất, phải nói từng tấc đất, nếu muốn giữ độ chính xác trong 68 ngày. Quảng Trị! Muốn được kêu lên một tiếng, muốn nhỏ xuống giòng nước mắt - Không một nơi chốn nào trên địa cầu nầy phải chịu đựng cảnh huống điêu linh khốc liệt bằng vùng đất gọi tên Quảng Trị, nơi thị xã có khối Cổ Thành Đinh Công Tráng.
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu và tồn tại như một nhiệm mầu. Trên mầu nhiệm bình thường lặng lẽ này Tổ Quốc điêu linh thở từng hơi ngắn đớn đau nhưng bền bỉ. Chữ nghĩa hoàn toàn vô nghĩa trước chân dung bi tráng hùng vĩ của Người và Quê Hương- Nơi ĐẤT PHƯƠNG NAM với NGƯỜI CHỈ HUY GIỮ NƯỚC tên gọi là NGÔ QUANG TRƯỞNG.
PHAN NHẬT NAM
Để nhớ ngày Người Lính lẫm liệt giữ vững Quê Hương, Tướng Quân Ngô Quang Trưởng về trời.
22 Tháng 1, 2007