Người Vợ Lính
Phương Lâm
Tiếng đạn quân thù rền vang đây đó
Lửa bùng lên rực đỏ cháy quê hương
Máu chiến binh hồng thắm nhuộm chiến trường
Quyết giữ lấy phần biên cương Quốc thổ
Là vợ của lính trong thời binh lửa
Mái pông sô hứng đạn tưởng trời mưa
Súng vang trời cứ ngỡ pháo giao thừa
Mùi thuốc súng chưa khi nào được ngửi
Thị xã Trà Vinh tôi sống không lâu nhưng nơi nầy đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm, đã cưu mang tôi hai lần trên bước đường trốn chạy nạn cộng sản. Lần thứ nhất vào khoảng tháng 2 năm 1975 khi đồng bào tỉnh Quảng Trị lục đục kéo ngang qua Huế, anh bà con của tôi là cố Trung Tá Nguyễn Văn Bình Sư Đoàn 1 Bộ Binh đến nhà đề nghị với má tôi:
- Dì nên đưa các em về Trà Vinh ở với chị Thảo một thời gian, dì bảo các em chuẩn bị vài hôm nữa con lên lại đưa dì và các em đi.
Gia đình tôi đông chị em, ba tôi bị Việt Cộng chôn sống năm Mậu Thân nên chúng tôi lúc nào cũng được lưu tâm của mọi người thân trong gia tộc.
Mặc dù anh Bình không nói lý do gì mà đi, nhưng một vị trung tá nói như thế cũng hiểu ngầm rằng tình hình chiến sự căng thẳng. Thảm cảnh Mậu Thân còn đó, những bộ hài cốt trắng hếu bị quấn chặt dây kẽm gai, xương đầu dập nát trong những hố chôn tập thể như hiển hiện trước mắt, hình ảnh những tên đao phủ trợn mắt nhe răng, cầm búa, cầm mã tấu đánh vào đầu người dân lành vô tội làm tôi rởn ốc nổi da gà, khi nghe anh Bình nói như vậy tụi tôi cuống cuồng, chị em mỗi đứa một túi xách nhỏ mang theo ít đồ cá nhân ngồi bắt mặt ngó ra đợi anh Bình.
Nhà chị Thảo ở đầu sân bay Trà Vinh, gần cổng Đại Đội Tổng Hành Dinh của Sư Đoàn 9 BB, chồng chị Thảo làm đại đội trưởng, căn nhà lợp lá dừa nước, vách toàn là ống đạn, chiều dài căn nhà quá cỡ nhà bình thường ,từa tựa như khu gia binh.
Vô tới đây ai nấy thở phào nhẹ nhõm, chạy một mạch xa như vậy cứ nghĩ rứa là ổn nào ngờ chết điếng người khi nghe tin QLVNCH nhận lệnh phải buông súng.
Thế là hết! Chị em chúng tôi nước mắt lưng tròng nhìn nhau trong âu lo, thương hận.
Cho tôi thước vải thô màu trắng
Quấn ngang đầu buộc chặt nỗi hờn căm
Ba mươi tháng tư một chín bảy lăm
Cúi đầu xuống bịt tang ngày Quốc Hận.
Đất nước đã nhuộm đỏ màu tang tóc, đại nạn cộng sản bao trùm, không biết tương lai về đâu, nơi bám víu sau cùng là chấp tay xin ơn trên che chở .Trong thế chẳng đặng đừng chúng tôi bầu đoàn thê tử lục đục trở lại Huế, nhà của tôi đông chị em nên ba tôi xây rất to, căn sau nối liền với nhà trước, nhà đúc mái bằng dự tính lên lầu, Tết Mậu Thân bị mấy trái pháo mà không sập, vô tới cửa ngõ thì tá hỏa tam tinh, một nhà toàn là lính Việt Cộng, khi đến tột cùng của sợ hãi thì không còn biết sợ là gì nữa, tôi bước vào nhà như một con điên liệng mạnh túi xách xuống nền, hét lớn:
- Mấy ông ở mô mà vô đây! Đi ra ngay! Ra khỏi nhà ngay lập tức!
Đám lính cộng sản phần nhiều là choai choai cỡ mười lăm mười bảy, đứa nào đứa nấy nghe tôi hét chúng quờ quạng kéo nhau dồn lui qua phòng sau, rồi có một tên lớn tuổi ra điều đình:
- Không biết mẹ và các cô về nên chúng cháu không chuẩn bị, mẹ cho chúng cháu ở tạm nhà sau một hai hôm để chỉ huy sắp xếp, chúng cháu sẽ đi ngay.
Ai nấy đều mừng thầm, xuống nước nhỏ tức là nhà mình không mất.
Bạn còn nhớ cuối mùa xuân năm nớ
Quê hương chìm trong biển đỏ thương đau
Tang thương ly hận chồng chất oán sầu
Đất nước khởi đầu thiên niên mạt vận.
Trà Vinh
Lần nầy trở lại với hoàn cảnh khác, tay ôm con dại, cùng chồng tránh nạn thu gom đi tù lần thứ hai.
Làng tôi có bốn người đi tù về năm 1977, anh Tùng bà con của chúng tôi, cấp bậc trung tá trước phục vụ trong ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên cùng với hai thiếu úy là anh Cam và anh Đức cùng chồng tôi.
Sau khi Trung Cộng đánh các tỉnh biên giới phía Bắc, công an vô lại nhà, bắt các anh làm lý lịch, đêm hôm sau xét hộ khẩu bắt đi luôn, chồng tôi cũng vậy, sáng hôm nay công an bắt khai lý lịch, chiều hôm đó chúng tôi vội vàng bỏ Huế ra đi.
Gia đình ba người chúng tôi vào tá túc thị xã nầy được gần bốn tháng, rất ngạc nhiên vì cuộc sống bà con ở đây chẳng khác lúc trước mấy, quán nước mía dọc đường, quán cà phê vẫn dùng nhạc cũ trước 1975, nói đến cơm độn hầu như không ai biết, so với Huế, Quảng Trị thì đây là thiên đàng.
Cuộc sống tinh thần ít căng thẳng hơn Huế, người dân ở đây không dòm ngó nhau nên tình trạng rình rập báo cáo lập công không có, nhờ vậy chúng tôi sống lậu ở đây trên bốn tháng rồi không bị xét hộ khẩu.
Mâm cơm trưa đã chuẩn bị xong để bên mép giường, chiếc chiếu cũ trải xuống nền nhà làm bàn ăn cũng đã sẵn sàng, xoong cơm trắng không độn, xoong cá kèo kho khô với hẹ ngào ngạt mùi thơm,ở Huế thời điểm nầy làm chi có được bữa cơm ngon như vậy.
Nghề đạp xe lôi giờ giấc bất thường khi sớm khi trễ, tôi bồng con ra ngồi dưới bóng mát cây xoài, nước phèn vàng quánh trong hồ nuôi cá xông lên mùi hăng hắc, nhìn ra con dốc đầu lộ chờ anh ấy về.
Rất ngạc nhiên trưa nay sau xe có hai người, một lớn một bé, tôi bồng con đứng dậy nhường bóng mát cho ảnh kéo chiếc xe vào. Tôi gật đầu chào người phụ nữ về cùng xe với ảnh, rùng mình khi nhìn qua khuôn mặt người đàn bà nầy, quá dễ sợ,một mắt tròng trắng nhô lên như muốn nhảy ra ngoài, ghèn đóng một vòng quanh con mắt, vàng vàng xám xịt , cánh tay trái treo lên cổ một vết thương dài lòi mỡ lẫn máu vàng khè ruồi bay theo, đầu đội mũ rách toe, mặt hai mẹ con dính đầy đất bụi, tay bé cầm cái tô to, họ là người ăn xin, chồng tôi nói :
- Em đưa chịvà cháu vô nhà, anh tháo cổ xe ra rồi vô sau.
Tôi đưa hai mẹ con vô nhà, đẩy mâm cơm sâu vào trong, rảnh chỗ ở mép giường mời hai người ngồi, vì sống tạm nên chẳng có bàn ghế chi hết, người phụ nữ vẫn im thin thít từ ngoài sân vào tới đây, chồng tôi vào bưng theo thau nước, kẹp cái khăn trắng đã ngả màu vì nhuộm phèn, vì thiếu xà phòng, ảnh nói:
- Chị rửa mặt rồi cho cháu ăn cơm kẻo quá trưa rồi.
Quay qua tôi anh giới thiệu:
- Đây là chị Quang, vợ của Đại Úy Quang trưởng phòng hành quân đơn vị cũ của anh, anh ấy là bạn, đầu năm 1974 anh thuyên chuyển về Đà Nẵng anh Quang ở lại đã bị bắn chết tại phòng ngủ trong bản doanh đơn vị khi Việt Cộng tấn công Ban Mê Thuột.
Chị Quang đứng dậy đưa em bé đi rửa mặt, nhìn khuôn mặt dơ hầy lem luốc của chị tôi không thể đoán chị ở độ tuổi nào, tôi hỏi chồng:
- Chị ấy làm chi mà bị thương nhiều dữ vậy, nhìn mặt chị. em rùng mình, con mắt ghê quá, lòi ra không nói mà ớn ốc, cái lớp ghèn lòng thòng bao quanh, tay bị thương há miệng, mỡ máu chảy, ruồi lằng theo cả đoàn, sao chị ấy không băng bó lại, mất vệ sinh kiểu đó lâu ngày cánh tay cụt như chơi.
Chồng tôi mĩm cười nói:
- Đó là di chứng của thời đại.
Tôi nói lại:
- Đúng là bệnh thời đại, khi xã hội là một vũng bùn thì con người lấm bùn mất vệ sinh theo.
Chị ấy đưa cháu trở vào, tôi bưng mâm cơm đặt xuống chiếc chiếu, tôi chọn ngồi sát bên chị, để hai người ngồi cùng chiều khỏi nhìn thấy mặt người đối diện, kéo nồi cơm về gần, tôi ngại cánh tay lòi mỡ đó đưa qua đưa lại, nhưng tôi giật mình khi chị đưa tay nhận chén cơm, cánh tay trắng nõn nà vết thương kinh tởm đó không còn nửa, tôi ngạc nhiên hỏi chị:
- Hồi nãy tay chị bị thương mà sao bây giờ lành rồi.
Chị cười nói:
- Chuyện dài dòng lắm, chị sẽ kể cho cô nghe sau.
Tôi suy nghĩ câu nói của chồng tôi “di chứng của thời đại”, câu nói có ẩn ý nhưng mình nghĩ không tới.
Bây giờ tôi nhìn kỹ mặt chị, mắt trái tròng trắng vẫn nhô lên, nhưng ghèn bao quanh không còn, khuôn mặt trái xoan, sóng mũi dọc dừa, con mắt còn lại đen láy sau hàng lông mi dài, họ gọi là mắt bồ câu, một vẻ đẹp thanh tú, kiêu sa, nếu con mắt bình thường thì đúng là một giai nhân.
Tôi thắc mắc, nhìn dáng người của chị, chắc chắn sinh ra và lớn lên trong một gia đình bề thế đương nhiên là học hành tới nơi tới chốn, gia đình của chị, rồi gia đình bên chồng, dù khó khăn cách mấy đi nữa bộ hai gia đình không kham nổi hai mẹ con chị hay sao, mà chị lại phải dắt con đi ăn xin, chắc chắn có vấn đề.
Bữa cơm xong chị phụ tôi dọn dẹp, tôi không cho, tôi nói:
- Chị rửa tay cho cháu ngủ đi, mấy cái chén em quơ một tí là xong.
Chồng tôi vội vàng lên yên, lái xe đi lại, để dọn hàng cho chị Thảo và đưa các mối bán buôn ở chợ về nhà, tôi dặn ảnh:
- Anh nhớ nói qua với chị Thảo nhà mình có khách nghe.
Anh gật đầu quay qua nói với chị Quang:
- Tụi em ở đây khá lâu rồi chưa được ai hỏi thăm sức khỏe, đêm nay chắc cũng vậy chị phè cánh ngủ một giấc mai đi sớm.
Anh ấy ra đi chúng tôi ngồi lại với nhau nhìn thẳng vào mắt chị tôi mở đầu:
- Chị biết đó, em cũng là vợ lính, nhưng lính từ trại tù về, xã hội nầy gọi anh là ngụy quân, em không may mắn được làm vợ lính trong thời chiến để cùng chồng ngửi mùi thuốc súng, em cũng không may mắn làm người vợ bán từng CC máu để nuôi chồng trong các trại tù khổ sai khốn nạn.
Em chia xẻ nhọc nhằn thân xác của anh hiện tại và trân quý dĩ vãng oai hùng của anh, em không bao giờ đụng tới vết thương đang mưng mủ, nhức nhối từ trái tim đến thớ thịt, có những buổi chiều anh ngồi quay mặt xuống hồ đôi mắt nhìn về nơi xa xôi nào đó, có khi đứng dậy mắt đỏ hoe.
Em nghĩ đó là những phút giây thiêng liêng của cuộc sống, người anh hùng ngã ngựa, họ muốn đứng lên, nhưng đứng lên cách nào, muốn vực dậy nhưng vực cách sao đây. Em luôn cảm thông và khuyến khích tinh thần, tội nghiệp ảnh, tội nghiệp những người lính Việt Nam Cộng Hòa.
Tội nghiệp những người vợ bị lột xác trong cái xã hội quỷ quái nầy, các chị phải đầu tắt mặt tối gánh nặng hai vai, chồng trong các trại tù, con còn nhỏ dại, tứ thân phụ mẫu già yếu tật bệnh, bây giờ em đang ngồi đây cũng đang cùng anh trốn chạy, qua một ngày là mừng một ngày, được ngày nào hay ngày đó, xã hội này là một bóng đêm dài bất tận, nhìn tới phía trước lóe lên toàn dao găm mã tấu, toàn máu là máu.
Tôi nói một hơi chị ngồi yên lắng nghe, con mắt còn lại của chị sáng lên, long lanh đầy sát khí chị nói.
- Chồng của cô là bạn thân của chồng chị, họ là những người lính từng kề vai sát cánh sống chết bên nhau, bây giờ người mất người còn, chú và cô đang trên đoạn đường bôn tẩu, chú có cô cảm thông chia xẻ, chị một mình lạc lõng bơ vơ, chẳng còn ai ngoài những người bạn, trân quý nhau coi nhau như ruột thịt. Chị kể cho cô nghe về chị, sáng mai mẹ con chị sẽ đi, không biết đi đâu bạn bè bảo sao thì nghe vậy.
Chị bắt đầu kể:
Bản doanh của đơn vị là một căn cứ của Quân đội Hoa kỳ bàn giao lại, căn cứ rất lớn, đơn vị dành một khu làm nhà ở cho sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ, chị và anh Quang ở trong đó.
Khoảng ba giờ sáng đêm 10 tháng 3 năm 1975, đang ngủ giật mình vì những tiếng nổ lớn, nửa tỉnh nửa mê không biết nổ ở đâu và hướng nào, anh Quang vùng dậy bật đèn sáng, chụp bộ đồ lính vắt trên đầu giường, tròng quần vào, cúi xuống xỏ chân vào đôi bốt đờ sô, tay lấy cây súng AR 15 dựng bên đầu giường, vén màn bước ra như thường lệ ngồi vào ghế để cột dây giày, chị nghe anh lên tiếng nói chuyện với ai đó thì một loạt súng nổ, chị giật mình vén màn nhìn ra anh Quang gục lên bàn,thấy người bắn anh Quang bận bồ đồ biệt kích bạc màu, tóc dài, dáng nhỏ mặt xương xẩu đứng nhìn anh Quang một lúc rồi bỏ đi.
Máu anh Quang từ ghế ngồi chảy xuống có vòi, chị ngồi bệt xuống nền nhà thân hình cứng đơ, như cái xác không hồn, cứ ngồi mở to mắt nhìn máu chảy, nhìn anh ngồi gục ở đó, chị lịm chết đi như thế không biết bao lâu, con bé khóc chị giật mình, đứng lên kiếm miếng bánh quy trong hộp lương khô cho bé ăn.
Không biết đã qua giờ thứ mấy, không biết bây giờ sáng hay chiều, mặt trời đã nghiêng bóng, như xác chết chị bước ra ngoài coi còn ai nhờ giúp. Đập cửa phòng anh Đường đối diện không nghe ai lên tiếng, mấy phòng kế bên cửa mở toang không bóng người, đơn vị im lìm vắng tanh, hoang vắng đến lạnh người, tiếng súng đì đùng nghe rất xa.
Chị không biết việc gì đã xảy ra, một điều chị biết là lúc nầy trong đơn vị chỉ còn một mình chị, quay vào phòng, anh Quang ngồi bất động trên ghế, máu nhuộm đỏ bộ đồ hoa loang một khoảng lớn trên nền nhà.
Nhìn anh, cứ đứng nhìn chết trân, chân taychị lạnh cóng, trong đầu lảng vảng câu hỏi. Chết rồi ư? Chết thật rồi ư? Nước mắt không chảy nữa, khô đắng cổ họng, không biết phải làm gì, đầu óc trống rỗng, chợt bừng tỉnh như qua cơn mê khi nghe tiếng người nói chuyện, tiếng chân người xào xạc đến gần, chị mừng thầm như vậy là có người giúp, nhưng phải coi ai cái đã, chị lui vào trong buồng ngủ, vạch tấm màn chắn gió nhìn ra ngoài.
Có ba người đứng trước cửa phòng của chị, chị thấy thằng bắn anh Quang vai hắn có cột tấm vải đỏ, với thêm hai thằng khác đội mũ cối, ba đứa súng đeo vai đứng ngay cửa ra vào đang chỉ chỏ chi đó, thấy hắn chị mừng quá, vớ cây súng AR15 của anh Quang, kê mũi súng lên thành gỗ đóng lưới chắn muỗi, mũi súng cách bọn đó khoảng 3 mét, tầm đạn nầy thì cả ba đứa đều ngang vai.
Chị bật nhẹ khóa an toàn,kéo mạnh tấm màn che, mở mắt to nhìn ba đứa để coi chúng ra sao khi chị nghéo cò,ngón tay chị siết chặt cò súng, cho chắc ăn mũi súng nhích qua nhích lại, chúi xuống, dở lên, toe tấm ván ép làm cửa.
Ba đứa khuất tầm nhìn, có lẽ bọn chúng nằm xuống, chị xách súng chạy ra, trở băng đạn lại, (súng anh Quang hai băng cong gắn băng keo lại với nhau) đạp mạnh cửa, thấy ba thằng nằm chồng lên nhau, chị đưa súng vào đầu bóp cò tiếp ba chục viên đạn ra đi, ba cái đầu dẹp xuống như ba mũi dày.
Nhìn xác dẹp đầu của thằng đó chị thấy lòng mình nhẹ nhõm, tâm trí tỉnh táo lạ thường, đem đặt cây súng lên bàn cạnh anh Quang, lúc đó mới nghĩ ra; chôn anh rồi rời khỏi đây. Chị ung dung mở cái xẻng cá nhân cào một rảnh dài sâu ngang đầu gối dãy đất bên cạnh phòng ngủ, lấy tấm ra trắng bọc xác kéo anh ra huyệt chôn, anh quá cao và nặng, hơn nữa trong tư thế ngồi, chết quá lâu cứng đờ.
Chị tập trung hàng chục chai rượu tẩm vào quần áo một lúc duỗi thẳng người ra, đất không đủ lấp kín phải vác bao cát chắn chung quanh nhà xổ ra lấp lên, một số chất thành nấm mộ, xong việc trời cũng nhá nhem tối, chị vào sửa soạn để ra đi. Chị mang theo hai cây súng của anh, cây rouleaux ngắn nòng (P38) với nửa hộp đạn, cây browning 10 viên đạn giắt vào nịt vú, xé hai tấm vải trắng trải giường làm khăn tang, quấn lên đầu cúi chào anh rồi hai mẹ con ra đi.
Hành trình về phương Nam
Những bước chân âm thầm trong đơn độc, không phương tiện, không bóng người trên quốc lộ, cứ đi, cứ bước, nhưng không biết điểm đến và bao giờ tới đích. Tim chị bây giờ chai cứng, thù hận đốt cháy con người, chị sẵn sàng giết bất cứ đứa nào lạng quạng trước mắt. Chị sẵn sàng chết, cho nên chị không sợ chết, chị nguyện sẽ trả thù cho anh Quang trong khả năng có thể.
Dọc theo Quốc lộ 21về hướng đông, đi bộ đến nỗi hai bàn chân phồng lên chảy nước, đi nhanh, đi chậm, qua từng khúc, vượt từng đoạn, nơi nào có nhà vào xin ăn, ngủ bờ, ngủ bụi, ngủ bất cứ lúc nào không kể ngày đêm, chị chẳng còn biết sợ là chi, cây P.38 sẵn sàng bắn vào đầu bất cứ đứa nào. Những nơi đã đi qua không để lại trong chị dấu ấn nào, rồi một hôm không biết từ ngày đầu tới giờ đã bao lâu, mẹ con chị đứng trên đèo Phượng Hoàng hướng về phía đông, xa xa những cụm khói bốc lên có lẽ đó là thị xã Ninh Hòa.
Người chị hừng hực nóng như cơn sốt khi đứng trong khu thị tứ đỏ rực màu máu, có lẽ miền Nam đã mất trong những ngày chị lang thang trên đường 21.
Dọc theo Quốc lộ 1, từng cụm người ngồi,nằm, la liệt thần sắc ngu ngơ, họ ngồi vì họ đã cùng đường.Từng toán lính cộng sản đi ngang qua, những thằng bận đồ lính VNCH mang băng đỏ lẽo đẽo theo sau, chị muốn móc súng bắn nát óc mấy thằng đó.
Chị bắt xe đi từng đoạn về Sàigòn, Sàigòn bây giờ quá tội nghiệp, xác xơ,ủ rũ,vọng nhìn theo bóng những đứa con bị đuổi ra đi.
Sài gòn ơi! Thôi từ nay vĩnh biệt
Ta gục đầu thương tiếc buổi chia ly
Người ra đi đảo lộn cả đất trời
Người nằm xuống không nói lời từ biệt
Muôn thế hệ ngàn sau hằng thương tiếc
Sài gòn ơi! Thôi vĩnh biệt từ nay.
Đau đớn nhìn quang cảnh Sàigòn, thế là hết!
Chị về nhà nghỉ một ít lâu, đợi sinh hoạt của thành phố bắt đầu khởi động lại, chị bế cháu về Cầu Ngang thăm gia đình anh Quang, chỉ nói qua loa là anh ấy tử trận, cứ vậy vài ba tháng đem cháu về thăm nội mang tí quà Sài gòn, ở lại vài ba hôm rồi lên.
Một hôm ngồi trên xe đò lên Trà vinh để về Sàigòn, xe dừng lại đón người đàn ông bên đường với bốn năm lồng vịt, người ấy lên xe chật ních, chen ngang qua chỗ chị ngồi anh ta nheo con mắt trái, chị thấy người nầy quen quen nhưng nhớ không ra, vì mặt mày lem luốc, chị nghĩ anh ta nheo mắt tức là đã biết mình chắc ra dấu hiệu chi đó.
Xe tới bến, chị nán lại xuống sau cùng, cố ý chờ người bán vịt, mấy lồng vịt đặt lên xe lôi, người ấy quay lại nhìn chị, chị đi bộ theo ra góc đường bán vịt gà đứng chờ. Ổn định chỗ bán, người ấy tới hỏi chị:
- Chị Quang không nhìn ra em à, em Hoàng đây.
Chị mừng quá, Hoàng là bạn cùng quê với anh Quang, trước đây cùng đơn vị, Hoàng ở thám sát, anh Quang làm ban hành quân. Anh em gặp nhau thường xuyên, sau Hoàng xin đổi về Sư Đoàn 9 cho gần nhà. Nghe anh Quang nói về Sư Đoàn 9 Hoàng ở đại đội trinh sát, gặp lại Hoàng giờ đây sắc thái suy sụp nhiều, già trước tuổi, cười nhưng không vui, chị nói với ảnh:
- Mặt chú bầy hầy lem luốc, chị thấy quen quen nhưng không nhận ra, buôn bán có khá không?
Hoàng trả lời:
- Cũng tạm ổn, em có nghe tin anh Quang, em xin chia buồn với chị.
- Cám ơn chú, vận nước mệnh người thôi đành chấp nhận, sao tôi thấy chú không được vui, bộ gia đình gặp chuyện gì hay sao, xã hội tăm tối con người sống theo lối chụp giật có gì chia xẻ được, mình chia xẻ cho nhau .
Hoàng nhìn chị như dò xét, lưỡng lự nói:
- Không có gì đâu chị, một vài chuyện lặt vặt thôi mà, hôm nào rảnh chị em mình tâm sự, cũng có vài chuyện em cần chia xẻ, nhưng không biết chia xẻ với ai, thời buổi nầy không thể tin ai được chị à.
Chị trả lời:
- Chú Hoàng tin anh Quang thế nào thì tin chị như vậy, bộ chú sợ chị là chó săn hả, có gì chú cứ nói đừng ngại.
Hoàng tới sát bên chị nói nhỏ:
- Nếu chị không sợ liên lụy thì em nói, em và một số anh em đại đội trinh sát ly khai, em buôn bán thế nầy để mua lương thực thuốc men cho anh em. Anh em khá đông, nhưng bị chúng giết lần giết mòn đi cả, chuyện quá dài không thể nói một lúc ở đây được, mỗi tuần hai ngày thứ hai và thứ ba em đều có mặt ở đây, lúc nào có dịp chị về đây trúng hai ngày nầy em sẽ nói cho chị nghe.
Chị trả lời Hoàng:
- Bây giờ chị lên cho kịp chuyến xe đã, hai tuần sau trở lại đây tìm chú.
Về tới Sàigòn chị tìm nhà cô bạn xin theo cô ấy chạy bán thuốc tây, chị được cô ấy giới thiệu với vài người chủ vựa thuốc, cô ấy nói:
- Ban đầu hơi lúng túng, nhưng nghề dạy nghề, cố nhớ vài tên thuốc với công dụng và liều lượng dùng, rồi mau chóng trở thành Dược sĩ.
Chị bám trụ ở sạp anh Nghị tại chợ Kim biên, cũng may anh Nghị là sĩ quan Biệt Động Quân tù về sớm nên anh ấy thông cảm hoàn cảnh của chị, tận tình hướng dẫn, chị ngồi liền mấy ngày để học. Thấy cũng không quá khó nên chị bắt đầu xuất chinh, anh Nghị cho chị quyển tự điển thuốc bỏ túi, cũng may trời cho có chút nhan sắc kèm theo sự lanh lẹ nên cũng buôn bán ra trò, quá dễ để hái tiền, người có thuốc đem đi bán họ không biết giá trị thuốc, người đi mua cần đúng tên thuốc, đúng bệnh chứ họ không cần biết giá tiền bao nhiêu.
Đúng hẹn chị về Trà Vinh sáng thứ Ba, mang theo một ít thuốc đau đầu đau bụng, với một ít tiền. Hoàng mừng nói:
- Tưởng chị lạnh gáy nói cho qua chuyện, không ngờ chị về thật.
Hoàng chỉ quán hủ tiếu nói:
- Chị vô đó gọi hũ tiếu ngồi đợi em, quán của hai ông bà người Hoa lớn tuổi họ ít chú ý tới người khác, hơn nữa cũng là nơi quen biết.
Khi Hoàng vào chị lấy gói quà nhét vào tay chú ấy.
- Trong nầy một ít thuốc, chị có ghi và một ít tiền chị phụ với chú, từ nay chú khỏi lo thuốc, anh em trong đó cần thuốc gì cho chị biết, chị sẽ phụ thêm một tý tiền để chú rộng tay chi dụng cho anh em.
Hoàng run run nói:
- Em cảm động quá, thay mặt anh em, em xin cám ơn chị.
Hoàng nói tiếp:
- Sau ngày 30 tháng 4 tụi em kéo nhau mang súng đạn đi luôn không về, mấy tháng đầu tập trung, sau nầy xé lẻ , kiếm ghe sống trong kinh rạch, rừng tràm, rừng đước, bờ bụi, tụi em đã đánh phá nhiều nơi, giết chết nhiều thằng ác ôn. Cuộc sống của anh em ngày càng khó khăn, mò tôm, bắt cá mưu sinh, mình em ngoài nầy cựa quậy phụ giúp.
Một số anh em bị thằng trưởng công an huyện Trà Cú bắt, thằng nầy quá ác ôn, bắt ai tình nghi là nó bắn ngay, vất xác xuống sông không tra hỏi. Anh em mình đã bị nó giết đến sáu người rồi, em lo quá, cuộc sống nầy không thể kéo dài, ra trình diện gặp nó cũng chết, sống để chiến đấu nhưng chỉ một nhóm nhỏ đánh đấm làm sao, súng có mà đạn không, không lẽ sống lây lất như thế nầy mãi, em thương anh em quá nhưng nghĩ mãi không tìm ra cách nào cho ổn thỏa.
Chị góp ý:
- Theo ý chị trước tiên phải nghĩ cách tiêu diệt thằng công an đó đã rồi tính tiếp, bây giờ chú nên báo anh em ở yên và cố lẩn tránh, còn thằng công an chú thu thập tin tức của hắn, sinh hoạt thường ngày, gia đình, vợ con, nơi ăn, chỗ ở, thói quen, mọi việc mình sắp xếp từ từ không thể nôn nóng được, chị hứa sẽ đồng hành với chú và anh em. Thôi chị lên hai tuần sau về lại, khi nào cần việc gì chú lên chợ Kim Biên hỏi sạp thuốc tây anh Tư Nghị, chị lảng vảng quanh khu đó, cẩn thận là trên hết.
Chị trở lại chợ Kim Biên phải nói là thời gian hái ra tiền, nhà nước cộng sản bị cấm vận, bệnh viện toàn là thuốc lá cây, xuyên tâm liên, ngải cứu. Thuốc tây trong các kho Long Bình, kho 18 và các kho dự trữ khác của VNCH bọn cộng sản đưa ra bán hàng xe, như bán vật liệu phế thải. Bọn chúng không phân biệt được các loại thuốc nên không dám dùng, thi nhau chở đi bán. Buồn cười nhất, hôm nay bán thuốc đó, ngày mai lại đi mua thuốc đó, bán ra một mua lại ngàn, sẵn tiền vơ vét của đồng bào nhắm mắt nhắm mũi mua từng bao chuyển về Bắc.
Lặn lội ở chợ mới biết sinh hoạt đằng sau chợ, khi chiều xuống đêm lên, trong ánh đèn vàng mờ nhạt, bên những đống rác tanh hôi đủ thứ mùi, một xã hội lên ngôi, những bóng người như ma trơi lần lượt về tựu lại, họ là những tay móc túi, giật dọc, những kẻ ăn xin, những tay đâm thuê chém mướn, họ có luật lệ của họ, có vùng đất tự trị trong giới giang hồ đường phố.
Chị không biết họ nhưng họ biết chị, chị bắt đầu thích họ, thích cái xã hội với những tay ngang tàng bướng bỉnh, coi luật pháp không là chi, chị xích lại với họ, thân thiết với họ, hòa đồng với họ, hôm nào ai làm ăn không khá chị tặng một bao lì xì, họ đủ mọi lứa tuổi, nam có, nữ có, một số có gia đình ban đêm về nhà ban ngày nhập bọn.
Chuyện tên công an huyện Trà cú làm chị suy nghĩ mãi, nếu giết được tên nầy may ra anh em tìm được một ngả rẽ mới. Chị về gặp Hoàng như đã hẹn, Hoàng cho chị chi tiết cá nhân của tên ác ôn đó. Khó khăn là tên nầy sinh sống ăn ở trong huyện, gia đình ở đâu vùng ngoài. Chị đã nghĩ ra cách, tìm anh Nghị chủ vựa thuốc hỏi:
- Khách quen của anh có ai làm nhà báo không?
Anh Nghị trả lời:
- Có mấy tay hay tới mua và đặt hàng, mua nhiều chắc đưa về ngoài bán lại.
- Hôm nào có nhà báo tới nam nữ chi cũng được anh nhớ gọi em nghe.
- Chi vậy, bộ muốn xin theo làm đệ hả?
Cả hai cùng cười, sáng nào tới chợ chị cũng ghé nhắc:
- Anh nhớ bạn nhà báo của em nghe.
Chị tìm đám anh em móc túi nhờ họ ra tay giúp lấy cái bóp để coi giấy tờ cá nhân của người làm báo, ai nấy tranh nhau trổ tài, họ hỏi:
- Con mồi ở đâu?
Chị nói:
- Chuẩn bị thôi, khi nào người đó tới chị sẽ báo.
Một hôm, khoảng ba giờ chiều anh Nghị cho người báo tin ngắn gọn: “người tình của chị tới”. Chị chạy quanh tìm được ba em, hai gái một trai, chị tức tốc vào sạp, người đàn ông trung niên ốm xanh có lẽ thiếu dinh dưỡng đang hút thuốc nói chuyện với anh Nghị. Thấy chị anh Nghị nheo mắt gật gật đầu, ba đứa sà vào hỏi mua thuốc đau bụng chưa kịp nói lời nào là bỏ đi ngay. Trong lòng chị lo lo, chắc thằng cha nầy không mang theo bóp đựng giấy tờ nên mấy đứa thấy không có chi đã bỏ đi.
Chị đứng lên nói bâng quơ vài điều rồi theo sau lưng ba đứa, ra sau hàng vải con bé đưa cho chị cái bóp, chị giật mình la lên:
- Ôi trời! Chị tưởng thằng cha không có bóp nên các em bỏ đi liền, ai dè các em đã lấy, lanh không thể tưởng được, chị bái phục các em.
Một em nói:
- Lanh vậy mà có khi bị bẻ què tay đó chị.
- Chị lấy mấy tờ giấy giao bóp lại cho mấy đứa em nghe.
Lục tìm trong bóp, một thẻ đảng viên đảng cộng sản, một giấy giới thiệu của cơ quan báo chí thành ủy Sàigòn, một thẻ chứng nhận nhân viên biên tập báo nhân dân và một chứng minh nhân dân (thẻ căn cước của mình đó) như vậy là quá đủ để chứng minh nhân thân của một người. Chị đi tìm nhóm làm giấy tờ giả, họ chụp hình làm tuốt luốt các giấy tờ kể cả thẻ chứng minh nhân dân, đương nhiên là thay tên đổi họ.
Chị về nhà ông nội của Bé, hỏi thăm tình hình nông nghiệp, vì có vài nơi nông dân không xuống vụ, không chịu cày cấy. Nắm rõ tình hình trong vùng, chị lên chợ Trà vinh gặp chú Hoàng báo cho chú ấy biết: “thứ bảy tuần sau chị sẽ về thăm thằng đó, không biết có giết được hay không, chị cố gắng tạo điều kiện thuận lợi, bằng mọi cách nó phải chết trong ngày thứ bảy, em xin vong hồn các anh chết oan phù trợ cho chị”.
Chị đã đi mấy trăm cây số nơi nầy nơi khác tìm chỗ thử súng, cuối cùng về sông La Ngà nơi nầy có khúc quanh nước chảy mạnh tiếng sóng ào ào, chị lấy cây súng Browning ra, cây súng quá nhỏ, đầu đạn bằng mút đũa, lúc trước thấy anh Quang hay bỏ túi chứ chưa khi nào thấy anh ấy bắn, nên chị chưa biết sự công phá của viên đạn.
Chị không an tâm, chị mang theo trái dừa khô, dí mũi súng sát trái dừa thử một phát, coi kỹ phía bên đầu đạn ra xoáy một lỗ đút ngón tay cái lọt, thế là an tâm. Súng bán tự động một giây có thể bóp cò ba lần, chỉ có thánh mới phản công kịp, một giây ngắn ngủi trong hộp sọ không còn tý não nào.
Ngày thứ sáu chị về Trà Vinh lấy phòng ở lại nhà trọ, chiều lang thang ra vườn dừa để đầu óc bớt căng thẳng, tự an ủi mình nếu thuận tiện thì ra tay còn không thì thôi lo lắng làm gì cho mệt. Về phòng trọ uống một chai thuốc an thần của con nít mới chợp mắt được.
Sáng thứ bảy dậy sớm, lên bộ đồ giống như thằng mất bóp, mang tòn ten máy chụp hình, súng nhỏ mang trong bắp vế sát háng bên phải, túi quần bên nầy cắt sạch cho đỡ vướng, tập đi tập lại nhiều lần cách moi súng, nhanh và cho tay vào cò chính xác vì cây súng quá nhỏ.
Khoảng 10 giờ sáng chị vào ủy ban nhân dân huyện, trình giấy giới thiệu và các giấy tờ liên quan cá nhân, nói cho họ biết mục đích tìm hiểu vấn đề an ninh trong huyện và nguyện vọng của bà con làm nông nghiệp, vì huyện nầy được tỉnh giới thiệu là huyện điểm nên các đồng chí trung ương quan tâm. Một cuộc họp vội vàng được triệu tập, các tay quan to, trưởng đầu nghành được giới thiệu, bí thư huyện, huyện đội trưởng, trưởng công an, và một số lâu la khác.
Ngồi ngắm mục tiêu, không đoán được tuổi vì mặt hắn nhăn nheo da bầm bầm đen sạm, chị nghĩ trong bụng cái ngữ nầy chắc không mê gái vì sinh khí không có, như con bọ, thì hơi sức đâu mà gái với gông. Hết ban nầy qua ban khác thay nhau, thành tích, phấn đấu, chỉ tiêu, chị ngồi nghe ghi ghi chép chép như ai. Xong việc báo cáo hơn 12 giờ được mời ăn cơm trưa, chiều đi thăm một vài xã để gặp bà con, rồi đến một vài nơi coi tình hình an ninh, tới đâu chụp hình tới đó, đám cán bộ khoái tỉ, cười híp mắt.
Đi tìm hiểu an ninh trật tự thì đi sát với trưởng công an để nghe báo cáo thành tích, cứ tưởng không còn sinh khí té ra sinh lực coi bộ dồi dào, chị mừng thầm thế thì quá thuận tiện, đàn ông lâu ngày không phụ nữ, gặp đàn bà chợ trời chỉ ba chiêu là gia tài sự nghiệp coi như xong.
Gần bốn giờ chiều thì đoàn cán bộ và nhà báo quay về huyện, chị chụp cho họ nhiều hình lưu niệm, chụp cả ngàn cái cũng không sao vì máy không phim. Hứa sẽ đăng báo trang đầu, quay qua nói nhỏ với trưởng công an:
- Sáng mai em có hẹn với các đồng chí thị ủy Trà Vinh, xe đò bây giờ không còn, nhờ anh giúp đưa em lên thị xã với, lên tới trên đó em lo tất cho anh, nơi ăn, chỗ ngủ, uống nước tâm sự, chứ về nơi lạ ở một mình cô đơn lắm.
Nghe vậy thì đàn ông nào không sướng, không xuôi tai, hắn nói:
- Tôi không có xe, cô chờ tôi đi mượn coi có ai họ cho mượn xe hay không đã.
Chiếc xe Suzuki yên liền, có lẽ chạy bằng dầu hôi, khói phụt đen đường, gầm gừ gào thét cố lăn bánh cõng hai mạng người xa dần huyện thị. Ban đầu ngồi xa, qua một vài ổ gà xích lại gần, gần hơn rồi nhẹ nhàng ôm hắn, nghiêng mặt kê vào lưng mơn trớn cọ xát, hắn rùng mình, có lẽ lần đầu trong đời hôm nay hắn mới được cảm giác đê mê đó.
Chị xổ toàn lời ong ve dụ dỗ, hắn im lặng không nói tiếng nào. Lên tới quốc lộ rẽ trái về thị xã, chị đề nghị ghé lên ao Bà Om chụp vài tấm hình kỷ niệm, chạy non cây số thì tới. Người ta gọi là ao nhưng đây là một cái hồ lớn, chiều dài cũng trên cây số, chiều ngang chỗ to chỗ nhỏ năm bảy trăm mét. Chung quanh hồ toàn cây sao, không đoán chính xác tuổi nhưng nhìn gốc rể cũng có thể biết số cây ở đây đã có vài ba trăm năm.
Ao Bà Om nổi tiếng cho những cặp tình nhân hẹn hò, hoang vắng đến lạnh lùng, u buồn cô tịch. Chị chọn một gốc có hai rễ nhô lên như hai bờ tường, cao ngang đầu, ngồi xuống đó như ngồi trong góc nhà, chị nói với hắn:
- Mình xuống đây ngồi tý đi anh, ngồi lên rễ ngang tựa lưng vào đây thì tuyệt vời.
Hắn dựng chiếc Suzuki vào gốc cây, chị xuống ngồi trước, xích qua phải chừa chỗ bên trái, đưa tay lắc nhẹ cây súng, lẫm bẩm một mình: “sắp tới phiên mầy rồi đó”.
Hắn vịn tay bước vô chỗ ngồi, hai người nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, chị bắt đầu dựa vào hắn, mùi dầu thơm trên tóc quyến rũ hắn chịu không nổi, luồn tay phải qua lưng chị, rồi ôm lấy chị, hôn tứ tung lên trán, lên mặt, lên môi, tay trái chị vòng qua cổ hắn,hôn đáp trả, hắn say sưa hai mắt nhắm nghiền. Tay phải chị móc cây súng dí sát màng tang bên trái bóp cò, năm tiếng đẹt đẹt như tiếng vỗ tay vang lên trong buổi chiều xế bóng.
Hắn chết liền không nhúc nhích, cũng chết trong tư thế ngồi như anh Quang, hắn chết trong lúc đang nhắm mắt tận hưởng nụ hôn nồng nàn của tử thần ban tặng. Hắn phải trả mạng lại cho sáu anh em, cho những người vì yêu thương đất nước mà hắn đã ra tay.
Chị cũng biết rằng thằng ác ôn nầy chết thằng ác ôn khác lên thay, nhưng biết đâu thằng sau có kẽ hở, anh em tìm cơ hội vượt qua. Chị dựa lưng hắn vào rễ cây, vắt chân lên, hai tay bỏ lên đầu gối, người ta đi ngang qua cứ ngỡ hắn đang ngồi chơi. Chị chạy xe ra quốc lộ, bỏ lại trong sân chùa, đón xe gió về lại Sài gòn trong đêm.
Tuần sau tin từ nhà anh Quang nhắn lên, cả tuần nay công an ập vào nhà lục lọi, hỏi chị hạch xách đủ điều. Cô em gái từ nhà chạy ra chợ báo tin, không biết tìm gì mà công an ập vào nhà lật tung mọi ngõ ngách, cuối cùng họ hỏi chị đi đâu, ba mẹ nói chị đi về ở dưới Cầu Ngang. Cô em nhắn chị đừng về nhà.
Tối hôm đó chị xin ở lại với chị em bụi đời, mấy đứa móc túi đứa nào cũng thương chị, các em hỏi lý do chị ở lại, chị nói chị đang bị truy nã, mấy đứa có suy nghĩ giống chị, ban đêm ở đây còn ban ngày thì sao, không phải lẩn tránh một vài hôm mà có thể là suốt đời, một em bàn với chị:
- Đợi má Chín về tụi em đến gặp má nhờ má nghĩ cách.
Khoảng hơn mười giờ người đàn bà lớn tuổi đi trước,theo sau một tốp bị gậy nghêu ngao ca hát cùng nhau vào chợ, thấy cuộc sống vô tư của họ, chị cũng vui lây, mấy đứa nhỏ nói:
- Chị ngồi khuất bên kia để bọn em nói nhỏ với má đã, nếu má đồng ý tụi em đưa má qua đây gặp chị.
- Chị nghĩ các em tuy nhỏ nhưng ra đời sớm va chạm nhiều trong việc mưu sinh nên đầu óc các em tinh tế và khôn ngoan.
Má chín theo mấy đứa nhỏ đến gặp chị, hứa sẽ giúp, má bảo ngủ đi sáng mai dậy sớm mọi chuyện xong ngay. Mấy đứa nhỏ nhường mùng muỗi và chỗ ngủ cho chị, suốt đêm không thể nào chợp mắt được. Ngồi bó gối suy nghĩ làm thế nào để vượt qua ngõ bí nầy, chị đành bó tay nghĩ không ra cách, tự an ủi mình thôi tới đâu hay tới đó, mấy người gác chợ cầm gậy đi ngang qua la lớn:
- Mấy thằng nhóc không ồn ào nghe chưa?
Rất sớm má Chín mang túi vải tới tìm chị, chui vào mùng má bảo:
- Phải làm sớm, đừng để cho tụi nó biết mặt em.
Má mở bao ra mùi hăng hắc xông lên hôi muốn lộn ruột, lấy cái gì đó gắn lên mắt trái, má nói cái nầy khó chịu lắm, ngứa quá thì lấy tăm xỉa ngang vô,không được tháo ra, một tuần má tháo ra cho một bữa. Xong rồi gắn cái chi mát mát vào tay chị như vết thương hồi nãy em đã thấy. Má Chín làm cho chị và chỉ cách, bôi một tý phẩm đỏ lên, lấy lớp mỡ mỏng gọi là bàng nhạng lớp nầy thường bọc ngoài lá gan, hay ruột già của bò mới được, vì mỡ bò khi khô nó chuyển sang màu vàng vàng. Trời nóng mỡ tươm ướt thấm vô phẩm đỏ thành ra một vết thương mưng mủ máu.
Quệt thêm chung quanh một lớp mật mỏng, hay nước đường thế là đi tới đâu ruồi lằng theo tới đó, gớm ghiếc ít ai dám nhìn. Đặc biệt loại bàng nhạng nầy đắp lên chỗ nào là dính sát, con mắt chị ghèn dính tèm lem là nó đó. Rồi trét đất lên mặt, lên tay, chỗ nào đậm chỗ nào nhạt là một nghệ thuật trang điểm công phu chứ không đơn giản như mình tưởng.
Má nói bây giờ không ai có thể nhìn ra em, phải đi lang thang, tìm chỗ ngồi dang nắng cho cháy lớp da mịn màng tiểu thư nầy đi. Khi đi ngoài đường mình là người ăn xin đui què, đói đi không muốn nổi, đừng cắm đầu cắm cổ chạy như thiên hạ. Chị cám ơn má Chín dúi vào tay Má một nắm tiền, Má từ chối không lấy, chị năn nỉ Má mới cầm.
Thế là chị nhập cuộc xin ăn, chị đi theo mấy nhóc móc túi, các em chỉ đâu chị ngồi đó, cuộc sống lề đường cũng nhiều thú vị. Gia đình chị gặp chị nhưng họ nhận không ra, khi nào cần gì chị nhờ các em móc túi liên lạc.
Tháng trước chị thấy chú Hoàng lảng vảng trước sạp thuốc anh Nghị, chị viết mấy chữ “cần gì thì nói với em nầy, chị không tiện gặp chú”. Chị nhờ mấy em móc túi cầm tờ giấy tới giật đồ trên tay chú Hoàng để chú đuổi theo, đuổi một đoạn thì túm được thằng nhỏ, nó van xin tha, nhét miếng giấy vào tay chú, Hoàng liếc qua mảnh giấy, túm áo thằng nhỏ kéo đi:
- Tao đem chú mầy cho công an.
Hoàng kéo thằng nhỏ đi, viết nghuệch ngoạc mấy chữ nhét vào tay chú móc túi:
- Em trả miếng giấy nầy lại cho người nhờ em đưa.
Hoàng viết:
- Ngày 9 âm lịch, về tìm xe lôi số 162.
Đêm hôm qua chị nhờ đưa bé tới, chị ngồi trong mùng không dám cho bé thấy cái mặt dễ sợ của chị, bé nhận ra tiếng mẹ, chị cho bé biết chị hóa trang để trốn khỏi bị đi tù nên mặt mẹ dơ lắm, bé đừng nhìn và đừng nói chi hết. Hai mẹ con mình ngày mai cùng đi trốn.
Chị từ giã gia đình hè phố, ai cũng quyến luyến yêu thương, họ là những người sống ngoài lề đường tận cùng xã hội nhưng lòng họ bao la như đại dương, tim óc họ cao như núi. Mấy đứa móc túi cầm tay chị khóc nói:
- Chị đi đâu khi nào về nhớ tìm chúng em.
Chuyến xe Sài Gòn Trà Vinh hôm nay về trễ vì qua trạm Vĩnh Long tụi thuế xét lâu quá, chị cũng đâm lo. Có lẽ Hoàng đã dặn chồng em rồi khi thấy số xe chị hỏi xe chú có đi không, chồng em hỏi lại:
- Có phải chị Quang không?
Chị gật đầu lên xe, chồng em nói:
- Hoàng nhờ em nói lại với chị, sáng mai 3 giờ chị lên tàu Phú Thịnh khoảng 3 giờ rưỡi hay trễ hơn một tí tàu nầy sẽ nhổ neo chạy lên Sài Gòn, nếu như quá bốn giờ nó không nhổ neo thì xuống nhanh và lẩn trốn. Để chắc ăn hơn, 2 giờ em đưa chị về bến đò và sẽ đứng chờ cho đến khi đò rời bến.
Một đêm không ai chợp mắt, có lẽ chồng tôi không biết chị Quang đã làm gì, sống ra sao trong thời gian qua. Hai giờ sáng họ ra xe lôi, tôi nắm tay chị nói:
- Em kính phục chị, kính phục người vợ lính bất khuất, người phụ nữ anh hùng ngoài trí tưởng tượng của em. Em nhớ chị mãi, và em cầu nguyện cho chị hằng đêm.
Lời nhắn của em: “Nếu chị đọc được bài nầy, xin chị liên lạc với Ban Biên Tập, Tập San Biệt Động Quân để lấy địa chỉ của em, chúng em nhớ chị, hỏi và tìm chị khắp nơi”.
Thương nhớ chị nhiều.
Phương Lâm
Phương Lâm; Người Vợ Lính
-
Người viết đánh giá
- Rated 5 stars
- Tuyệt vời
- Nguyễn Tùng Dương
- Reviewed by:
-
Published on:
- Last modified:
Kiều Mỹ Duyên, Đại Hội Quân Nhân Người Mỹ Gốc Việt Năm 2024
Đại hội quân nhân người Mỹ gốc Việt năm 2024 được tổ chức lúc 5 giờ chiều chủ nhật, ngày 27/10/2024 tại Great Wolf Lodge, 12681 Harbor Blvd., Garden Grove, CA 92840. Các chiến sĩ Hoa Kỳ hưu trí cũng như hiện tại đến trước giờ khai mạc, cùng nhau trò chuyện một cách vui vẻ. Quân nhân trong bộ quân phục oai nghi không kém gì lúc ở chiến trường, bên cạnh người chiến sĩ nào cũng có bóng dáng giai nhân. Nếu người đó có gia đình hoặc có cha mẹ thì cha mẹ cũng hiện diện bên cạnh con của mình. Đó là niềm hãnh diện của gia đình có con là chiến sĩ Hoa Kỳ, cũng như ngày xưa ở Việt Nam mỗi lần đón chào đoàn quân chiến thắng trở về thành phố.
Tòa soạn
Do công ty Saigon News LLC thực hiện
Editor-in-chief: HOÀNG DƯỢC THẢO
Director of Marketing: ANDY TRƯƠNG
Với sự cộng tác của: LÊ TẤT ĐIỀU, HOÀNG NGỌC NGUYÊN, NGUYỄN THỊ CỎ MAY, TRẦN TRỌNG HẢI.
Email: saigonweeklyonline@gmail.com
Thư từ bài vở: 702-389-5729
Quảng cáo: 702-630-0234
Hotline: 702-426-4404