• MỖI NGÀY MỘT BÀI VIẾT
Tưởng Niệm Tháng 4 Đen của VNCH
Một Số Biến Cố Đằng Sau
Mặt Trận Tây Nguyên 1975
Ngô Văn Xuân
Lời Giới Thiệu: Để tìm hiểu thêm biến cố Ban Mê Thuột, một biến cố đưa đến mất toàn bộ miền Nam Việt Nam, chúng tôi xin đăng lời tường thuật của Trung Tá Ngô Văn Xuân, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 44 của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, người được lệnh đưa Trung Đoàn 44 về giải phóng Ban Mê Thuột sau khi thị xã này bị Việt Cộng xâm chiếm.
Trung Tá Ngô Văn Xuân xuất thân khóa 17 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, đã từng giữ chức vụ Đại Đội Trưởng Trinh Sát thuộc Trung Đoàn 11 Sư Đoàn 7 Bộ Binh, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 44 của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, Trưởng Phòng Hành Quân Sư Đoàn 23 và cuối cùng là Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 44 Sư Đoàn 23. Trong chiến đấu, ông đã ba lần bị thương và sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam, ông đã bị đi cải tạo 13 năm. ng đến Hoa Kỳ theo theo danh sách HO vào tháng 4 năm 1992 và hiện đang cư ngụ tại vùng Bắc Cali. Theo lời yêu cầu của chúng tôi, ông đã ghi lại một số biến cố mà ông biết liên quan đến mặt trận Ban Mê Thuột năm 1975. Chúng tôi hy vọng rằng bài này sẽ góp phần hữu ích vào việc tìm hiểu lý do đưa đến sự thất thủ Ban Mê Thuột. Bài này ông viết từ năm 1996.
Mới đó mà cũng hơn 20 năm trôi qua. Những nắm xương tàn của hàng vạn sinh linh giờ đây cũng đã trở thành cát bụi. Những suối máu của họ cũng đã kiệt khô, tô thêm mầu mỡ cho mảnh đất quê hương. Những người đã một thời theo vận thời cuộc, nhảy ra nắm chính quyền hay xưng hùng xưng bá, thực hiện những mưu đồ chính trị, khuynh loát.., giờ đây đa số cũng đã lần lượt nằm xuống . Cái khoảng khắc huy hoàng của họ mà đôi khi họ cứ tưởng như sẽ miên viễn trường tồn, thực chất chỉ là một đốm lửa rơm trong kiếp nhân sinh dằng dặc. Trong lịch sử dân tộc ta, có lẽ không có giai đoạn nào xót xa, đau tủi cho bằng những diễn biến trong ngót nửa thế kỷ vừa qua. Cuộc chiến tranh chống thực dân giành độc lập vừa kết thúc thì lập tức một cuộc chiến khác lại nổ ra. Dưới cặp mắt của các chính trị gia hay các nhà sử học, cuộc chiến thứ hai này được gán cho nhiều cái tên khác nhau, nào là chiến tranh giải phóng dân tộc, chiến tranh nổi dậy, chiến tranh chống xâm lăng, chiến tranh tự vệ, chiến tranh ý thức hệ..., nhưng trong ký ức những người bình thường, hình ảnh chết chóc đau thương của những người đã nằm xuống đều gây xúc cảm nơi những người liên hệ xa gần như thân nhân ruột thịt, bà con, bạn hữu, làng xóm... hay nói rộng ra, nơi đồng bào của chính họ.
Đã có lúc những người Cộng Sản VN xưng tụng cuộc chiến ấy như một thành tích l?y lừng nhất trong lịch sử. Thậm chí còn đem những thành tích đó ra so sánh với cả những chiến công khác của cha ông như chiến công diệt Minh, trừ Nguyên trong lịch sử! Rất may, cơn sốt nhiệt cuồng rồ dại ấy ch?ng kéo dài được bao lâu. Thời gian đã chỉ cho họ những bài học khôn ngoan hơn. Giờ đây, một số người thức tỉnh đã dần dần nhận ra (hoặc đã nhận ra từ lâu giờ đây mới dám nói!) tính chất vô nghĩa của những thành tích đó.
Về phía những người Quốc Gia, một số hồi ký, ký sự cũng gợi lại những kỷ niệm của một thời binh lửa ngút trời trên quê hương. Cuộc chiến ấy đã được nhìn từ rất nhiều góc độ khác nhau, trực tiếp có, gián tiếp có, xa có, gần có, thực có, giả có... Hy vọng rằng phương thuốc thời gian sẽ chữa lành cho cả dân tộc ta vết thương đau, nhức nhối đã kéo dài trong tâm thức của mọi con dân Việt trong gần nửa thế kỷ qua.
Bài viết này của một chứng nhân trong cuộc chiến tàn khốc vừa qua, chỉ nhằm ghi lại đôi điều mắt thấy tai nghe để làm sáng tỏ thêm một số bí ẩn của lịch sử. Cảm hứng gợi ra cho bài viết này bắt nguồn từ khi đọc những hồi ký của cả hai phía Quốc và Cộng, đặc biệt là 2 cuốn sách Đại Thắng Mùa Xuân của Văn Tiến Dũng và cuốn Tướng Phạm Văn Phú và những trận đánh từ Điện Biên Phủ 1954 đến Ban Mê Thuột 1975 của Phạm Huấn, trong đó có rất nhiều điều cần được hiệu đính hay nói thêm.
1.- Thực trạng sau hiệp định ngưng chiến
Mặt trận Cao nguyên chưa bao giờ ngưng tiếng súng kể từ ngày Hiệp Định Paris được ký kết vào ngày 27.1.1973 và có hiệu lực ngày 28-2-1973. Người viết bài này, lúc đó là Trưởng Phòng Hành Quân Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Sự khác biệt, nếu có, trước và sau ngày chấm dứt cuộc chiến là chỗ này: Trước hiệp định, tên của các cuộc hành quân là Biên Trấn 1, 2, 3..., sau khi đình chiến các tên này được đổi thành Hòa bình 1, 2, 3...!Mức độ ác liệt của chiến tranh có giảm đi đôi chút, nhưng sự thương vong thì ch?ng ngày nào không có. Đối diện với tuyến phòng thủ của ta là những cán binh Cộng Sản. Lúc đầu chúng còn di chuyển lén lút, về sau bớt lén lút dần, thậm chí có khi chúng còn nói với qua xin 1, 2 điếu thuốc hay cho nghe một bản nhạc vàng! Những đơn vị địch khác không nằm trên tuyến thì luôn tìm mọi cách xâm nhập như đóng chốt trên các trục giao thông, lấn chiếm các khu vực hẻo lánh. Còn các đơn vị trừ bị của ta thì lo phá chốt, tái chiếm các vùng bị địch xâm nhập! Cuộc chiến tranh nửa nạc nửa mỡ này thực sự trở nên khó chịu hơn, khi sự ràng buộc bởi hiệp định ngày càng trở nên rõ ràng. tiền tuyến, đạn dược và tiếp liệu bị cắt giảm không thương tiếc. Những tính toán theo kiểu con buôn được đem ra áp dụng. Mỗi loại vũ khí đều có cấp khoản. Số đạn được phép xử dụng trước biến đổi hàng tháng, sau xuống hàng tuần. Ví dụ mỗi khẩu pháo 105 ly của Tiểu Đoàn Pháo Binh Sư Đoàn sau hiệp định chỉ có quyền bắn 8 q uả đạn/ngày, đến giai đoạn trước khi các trận đánh Cao Nguyên giảm xuống còn 3 quả/ngày. Dần dần đến đạn súng nhỏ, xăng, dầu.... Nhìn về hậu phương, những bất ổn về chính trị xẩy ra hàng ngày, những cuộc biểu tình của hàng chục đoàn thể, phong trào đòi đủ thứ quyền.... Trong bối cảnh như vậy, ch?ng cần phải là một chính trị gia có trình độ cao siêu gì, cũng có thể nhìn ra một hậu quả ch?ng mấy tốt đẹp cho một tương lai gần.
Tôi còn nhớ tháng 10/1973, một phái đoàn DAO của tòa Đại sứ Mỹ đến thăm BTL Sư Đoàn 23 tại Ban Mê Thuột, sau khi nghe thuyết trình về địch tình, về tình hình tiếp liệu của đơn vị, viên Đại Tá Trưởng Đoàn đã nhắn nhủ: Quí vị sẽ phải đối đầu với Việt Cộng trong một tình hình khó khăn hơn về tiếp liệu trong tương lai. Những viện trợ về tiếp liệu sẽ ngày càng giảm nhiều hơn, và vì vậy, chúng tôi yêu cầu quí vị nên nghiên cứu những phương thức điều hành thích hợp để đối phó khi cần, kể cả những lúc chúng tôi không thể chuyên chở sang cho quí vị đúng thời hạn!. Những đề nghị của Sư Đoàn chỉ tóm gọn trong vấn đề tiếp liệu, và viên Trưởng phái đoàn cũng chỉ ghi nhận trong tinh thần... rất ngoại giao.
Kể từ nắm 1972 trở đi, mùa hè nào trên Cao Nguyên cũng đều là Mùa hè đỏ lửa cả! Các cuộc hành quân, đánh phá được ngụy trang dưới những hình thức hay tên gọi khác nhau cho phù hợp với tình hình chính trị mới. Những người lính chiến của Quân lực VNCH thực sự chưa hề có một ngày nghỉ xả hơi để hít thở không khí hòa bình do các nhà chính trị đả ký kết với nhau sau hơn 4 năm bàn thảo, cãi cọ bàn vuông bàn tròn!
2.- Tổng Thống Thiệu ăn Tết ở Cao Nguyên
Tháng 7/1974, tôi rời Phòng 3 Sư Đoàn ra đảm nhiệm chức vụ Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 44 thay thế Trung Tá Nguyễn Hữu Lữ. Như thường lệ, hàng năm mỗi độ xuân về, Tổng Thống Thiệu lại đi thăm một số đơn vị đang tác chiến và dùng cơm với đơn vị này. Tết Ất Mão năm ấy, đơn vị của tôi được Quân Đoàn chỉ định là đơn vị đón tiếp Tổng Thống. Trung Đoàn của tôi có trách nhiệm phòng thủ trên tuyến vòng đai, cách tỉnh lỵ Pleiku khoảng 20 km hướng Tây Bắc. Bộ Chỉ Huy đóng tại căn cứ 801. Hai tiểu đoàn tác chiến án ngử trên phòng tuyến, một tiểu đoàn trừ bị cùng với một chi đoàn chiến xa M48 tại căn cứ. Các biện pháp an toàn tối đa được hoạch định để tránh các sự rủi ro, nguy hiểm cho bữa cơm đầu năm của đơn vị có Tổng Thống tới tham dự. Bởi đây là một căn cứ hành quân dã chiến, không có hầm hố kiên cố mà lại luôn nằm trong tầm pháo các loại của địch, nên các tin tức liên quan tới bữa cơm được giử kín cho tới lúc quan khách đến. Đúng 12 giờ trưa, sau khi rời BTL Quân Khu 2, chiếc trực thăng ch ở quan khách đáp tại căn cứ của chúng tôi. Tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư Đoàn 23, và tôi ra đón. Thành phần phái đoàn gồm Tổng Thống, các Tướng Trung, Khang, Phú, các tùy viên và cận vệ. Tôi đưa các vị quan khách vào phòng họp hành quân của Trung Đoàn. Mở đầu là phần thuyết trình của Trung Tá Điều Ngọc Chuy. Trưởng Phòng 2 Sư Đoàn 23 về tình hình chung của các khu vực trách nhiệm đang do Sư Đoàn trấn giữ. Đặc biệt trong cuộc thuyết trình này, Trung Tá Chuy có nhấn mạnh đến chi tiết về cung từ của một tù binh Cộng Sản thuộc Sư Đoàn 320 do Trung Đoàn 45 bắt được. Tù binh này nguyên là một hạ sỉ quan truyền tin, tên là Sính, khi ra đầu thú đã khai là sĩ quan. Thực sự quân hàm của anh ta chỉ là Thượng Sĩ. Có điều đặc biệt là với chức vụ truyền tin, anh ta biết khá nhiều về các kế hoạch hành quân của đơn vị anh và một số đơn vị phối hợp. Anh ta xác quyết Mặt Trận B3 sẽ tấn công Ban Mê Thuột!. Kế hoạch hành quân bao gồm 4 sư đoàn bộ binh mà anh biết chắc 3 đó là Sư Đoàn F10 và Sư Đoàn 9 68 thống thuộc Mặt Trận B3, Sư Đoàn 320 và một Sư đoàn từ Lào kéo qua không biết rõ phiên hiệu (sau này ta mới biết đó là Sư Đoàn 316 CSBV). Hợp đồng tác chiến còn có một Trung Đoàn chiến xa, 2 Trung Đoàn pháo, một Trung Đoàn đặc công. Thậm chí đến cả kế hoạch tấn công vào thị xã Ban Mê Thuột anh cũng phác họa ra khá chính xác, từ hướng tấn công đến các mục tiêu ưu tiên phải tấn chiếm, v.v. Đến phần thuyết trình của tôi, tôi cũng nêu bật sự kiện điều quân hiện đang diễn ra giữa 2 sư đoàn 320 và Công Trường 9 từ chiến trường Phước Long kéo lên. Tôi còn nhớ rất rõ nét đăm chiêu của Tổng Thống Thiệu và đại lược những chỉ thị của ông. ng quay lại hỏi ý kiến Tướng Phú thì Tướng Phú nhận định rằng có thể Việt Cộng đưa ra một kế trá hàng nhằm đánh lạc hướng chú ý của ta, theo ông, Pleiku là điểm, Ban Mê Thuột chỉ là diện, bởi vì Pleiku có cơ sở đầu não là BTL Quân Đoàn 2. Nếu địch tiêu diệt được cứ điểm này, chúng dễ dàng làm chủ được toàn bộ khu vực Cao Nguyên hoặc tỏa xuống khu vực duyên hải, nối liền với vùng 3 biên giới, để tạo dễ dàng cho việc tiếp liệu từ miền Bắc. Tổng Thống Thiệu suy nghĩ trong giây lát, rồi ra lệnh cho Tướng Phú lúc đó đứng kế bên:
- Anh Phú cho toàn bộ Sư Đoàn 23 trở về Ban Mê Thuột, tăng cường cho anh Tường một chi đoàn M48. Dù sao, địa thế Pleiku cũng là khu vực trống trải, bao gồm nhiều đồi thấp và trọc, có tầm quan sát rộng, bây giờ lại là mùa khô, anh có thể sử dụng tối đa phi pháo và chiến xa để đánh chiến xa và bộ binh địch, nếu chúng dám đưa quân ra đương đầu với anh trên khoảng trống! Ngoài ra, tôi sẽ tăng cường cho anh thêm một Liên Đoàn Biệt Động Quân để làm lực lượng trừ bị.
Tướng Phú trả lời:
- Vâng, tôi sẽ thi hành theo kế hoạch của Tổng Thống chỉ thị.
Sau đó Tổng Thống Thiệu quay qua Tướng Tường và nói:
- Khi anh trở về Ban Mê Thuột, phải tổ chức ngay lại hệ thống phòng thủ vòng đai thị xã và lập kế hoạch chống xe tank địch. Ngoài ra, anh cũng phải tổ chức các cuộc hành quân vùng sát biên giới thuộc Quận Đức Lập. Để tránh các rắc rối về ngoại giao với Căm Bốt, chỉ nên tung các toán hoạt động viễn thám qua vùng biên giới mà thôi. Nếu phát hiện địch thì dùng phi pháo mà tiêu diệt. Sau phần thuyết trình, tôi hướng d?n phái đoàn lên tham dự bữa cơm thân mật được tổ chức ngoài trời, gồm khoảng gần 100 binh sĩ, hạ sĩ quan, sĩ quan thuộc hai đơn vị Tiểu Đoàn 3/44 và chi đoàn 2 chiến xa M48. Trong bữa cơm, Tổng Thống có phàn nàn về các cuộc biểu tình đánh phá của các đoàn thể chính trị hiện đang diễn ra hàng ngày tại Sài Gòn. ng đặc biệt nhấn mạnh đến phong trào tố cáo tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh đang làm suy giảm uy tín của các cấp lãnh đạo đất nước. Tôi còn nhớ ông nói ông ao ước giá mà có được những vị linh mục chống cộng cương quyết kiểu như cha sở khu Hải Yến và một vị cha sở nào đó ở Tây Ninh mà tôi quên tên thì đỡ biết mấy! Sau bữa cơm, ông đi thăm một vòng chu vi phòng thủ, nói chuyện thân mật với các binh sĩ trong các hầm hố cá nhân. Phái đoàn lên trực thăng rời khỏi khu vực trách nhiệm của chúng tôi vào lúc 2 giờ chiều cùng ngày. Hôm đó là ngày mồng 1 Tết âm lịch, nhằm ngày 11 tháng 2 năm 1975.
3.- Chuẩn bị trở về
Khi chiếc trực thăng chở Tổng Thống đi rồi, Tướng Tường, Tư Lệnh Sư Đoàn còn ở lại họp cùng BCH Trung Đoàn 44 để chuẩn bị kế hoạch thay quân và rút quân khỏi khu vực trách nhiệm của Trung Đoàn. Tưởng cũng nên nhắc lại việc phối trí lực lượng của Sư Đoàn 23 lúc đó như sau:- Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Hành Quân đóng tại Hàm Rồng.
- Trung Đoàn 44 đóng tại căn cứ 801, cách Tây Bắc Pleiku 20 km. - Trung Đoàn 45 hành quân khu vực đèo Tử Sĩ nằm giữa Buôn Hô và Hàm Rồng, dọc theo hai bên quốc lộ 14.
- Trung đoàn 53 có một tiểu đoàn đang hành quân vùng Đức Lập, trong vùng tiếp giáp giữa tỉnh Quảng Đức và tỉnh Đắc Lắc. BCH Trung Đoàn này và 2 tiểu đoàn còn lại đóng tại phi trường Phụng Dực, Ban Mê Thuột, là lực lượng trừ bị của Sư Đoàn.
Tin trở về lại Ban Mê Thuột thực ra không gây nên những phấn khởi lớn đối với các quân nhân thuộc Trung Đoàn 44, bởi vì đa số binh sĩ của Trung Đoàn có gia đình và thân nhân ở Phan Thiết. Nhưng tin này chắc chắn là nỗi vui mừng lớn cho Trung Đoàn 45, một đơn vị thường trú từ ngày thành lập ở Ban Mê Thuột. Những cuộc hành quân liên tục trong suốt thời gian từ năm 1972 đến hôm đó trên lãnh thổ các tỉnh Pleiku, Phú Bổn và Kontum đã làm cho nỗi nhớ nhà của các binh sĩ Trung Đoàn này thêm khắc khoải, nhất là vào thời gian này, khi cái hương vị Tết v?n còn thoang thoảng bay. Nhưng mãi tới ngày 17 tháng 2, tôi mới có lệnh về họp tại BTL Sư Đoàn để nhận chi tiết kế hoạch di chuyển. Theo kế hoạch này, BTL Sư Đoàn sẽ đi bằng xe từ Hàm Rồng, khi ngang qua đèo Tử sĩ, Trung Đoàn 45 sẽ tháp tùng theo. Trung Đoàn tôi sẽ được một Liên Đoàn Biệt Động Quân thay thế. Theo ước tính, Liên Đoàn này sẽ đến khoảng 3 ngày sau. Sau khi bàn giao khu vực trách nhiệm, Trung Đoàn tôi cũng sẽ tiếp tục trở về Ban Mê Thuột cùng với một chi đoàn chiến xa M48 của Thiết Đoàn 20.
Cuộc họp hành quân kéo dài không lâu. Khi rời phòng họp, tôi chợt nhìn thấy những sự tất bật, rộn ràng của mọi người trong khuôn viên BTL. Thấy những khuôn mặt rực rỡ niềm vui về cuộc trở về sắp tới, những câu nói đùa bỡn, những nụ cười..., tôi tự nhiên cũng cãm thấy lòng mình rộn ràng. Gia đình tôi, vợ tôi và 4 cháu cũng đang ở tại Ban Mê Thuột. Hơn một năm rồi, tôi có ghé về nhà đôi lần, mỗi lần không quá một tiếng đồng hồ. Kể từ 6 giờ sáng ngày 18 tháng 2, đơn vị tôi được đặt trở lại dưới hệ thống chỉ huy trực tiếp của BTL Quân Đoàn 2. Cũng từ lúc ấy, BTL Sư Đoàn 23 tháo gỡ hệ thống truyền tin.
8 giờ sáng ngày 18, đoàn xe vận chuyển đã có mặt đầy đủ tại doanh trại Hàm Rồng. Công việc chất hàng khá gọn và lẹ. Đến 10 giờ sáng, qua hệ thống truyền tin vô tuyến, tôi được biết đoàn xe đã s?n sàng di chuyển.
Tướng Tường lên trực thăng chỉ huy, bay vào Trung Đoàn tôi để dặn dò các chi tiết cuối trước khi lên đường, lúc đó là 10 giờ 15. Chúng tôi đang ngồi họp tại Trung Tâm Hành Quân của Trung Đoàn thì có điện thoại của Tướng Phú yêu cầu Tướng Tường trở về gặp ông gấp tại BTL Quân Đoàn 2. Tôi đưa Tướng Tường ra trực thăng giã từ.
11 giờ đoàn xe v?n không nhúc nhích.
11 giờ 15, Trung Tâm Hành Quân của Quân Đoàn ra lệnh Trung Đoàn 44 trở về hệ thống chỉ huy trực tiếp của Sư Đoàn 23. Tôi quay điện thoại gặp Thiếu Tá Phạm văn Cẩm, Trưởng Phòng 3 Sư Đoàn. Tiếng Cẩm càu nhàu: Lệnh di chuyển hủy bỏ rồi, niên trưởng ơi! Ai trở về nhà nấy, làm ăn như thường lệ!. Bất giác tôi buông một câu chửi thề vu vơ và tự hỏi: Thế là thế nào?
12 giờ trưa, Tướng Tường gọi điện thoại cho tôi biết, Tướng Phú giữ nguyên lập luận của mình, cho rằng Pleiku là điểm, Ban Mê Thuột chỉ là diện. Sự tái phối trí lực lượng do vậy là không cần thiết.
Nói cho ngay tình, mỗi vị Tư Lệnh có những sự phán đoán riêng tư riêng của mình. Khi có được những dữ kiện tình báo chính xác, vị chỉ huy có thể đề ra những đối pháp kh?ng định không do dự. đây, những tin tức thu lượm được giá trị không cao bao nhiêu, nếu không muốn nói là còn cần phải kiểm tra và phối kiểm từ nhiều nguồn khác nhau, nên vấn đề xây dựng quyết định lại càng khó khăn hơn. Lại nữa, Tướng Phú mới tới nhận chức chưa bao lâu, thời gian chưa đủ để ông có thể cảm nhận tình hình một cách sắc bén hơn. Nếu cho tôi quyền nhận xét, tôi thấy Tướng Toàn có nhiều quyền biến hơn. Về phương diện thuần túy quân sự, Tướng Toàn đảm lược, cơ mưu và có những quyết định táo bạo hơn. Tôi v?n tin là nếu Tướng Toàn còn ở lại chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 2, những chỉ thị của Tổng Thống Thiệu sẽ được thực thi một cách đúng đắn. Dĩ nhiên trận đánh Ban Mê Thuột sẽ v?n xẩy ra, nhưng cuộc ấy không phải là một cuộc tấn công bất ngờ như Tướng Hoàng Minh Thảo đã tưởng tượng, những hoảng loạn sẽ không xẩy ra, và biết đâu, kế hoạch rút quân tự sát theo liên tỉnh lộ 7 sẽ không còn cần thiết nữa?
4.- Một chuyến đi tuyệt vọng
Bốn giờ sáng ngày 10 tháng 3 trận đánh Ban Mê Thuột mở màn. Thiếu Tá Cẩm điện thoại cho tôi biết ngay sau đó. Không bao lâu sau đó, mọi đường dây liên lạc với Ban Mê Thuột không còn. Nửa đêm về sáng, trên Cao Nguyên thời tiết thường se lạnh, sương trắng bao phủ đầy trời. Tôi ngồi trong hầm chỉ huy, chăm chú nhìn các chi tiết địch tình ghi trên bản đồ. Chú em cận vệ bưng ra một ly cà phê. Ban Mê Thuột sẽ mất, tôi tự nghĩ như thế. Điều suy hĩ này bắt nguồn từ những dữ kiện tôi có được sau hơn một năm làm Trưởng Phòng 3 Sư Đoàn 23, mà tỉnh Đắc Lắc nằm trong lãnh thổ kiểm soát và hành quân của Sư Đoàn. Những đơn vị Địa Phương Quân hầu như đa phần là người Thượng, khả năng tác chiến rất kém vì thiếu huấn luyện. Họ được trang bị thô sơ và có ý thức kỷ luật quân đội rất kém. Về địa thế, Ban Mê Thuột khác h?n Kontum. Ban Mê Thuột không có những chướng ngại thiên nhiên để dựa vào, hạn chế bớt khả năng xâm nhập của chiến xa hoặc bộ binh địch. Ngoài ra, vơi hàng trăm đồn điền cà phê tươi tốt, địch có che dấu, ngụy trang cho cả quân đoàn của họ một cách an toàn. Rõ ràng nơi đây là nơi lý tưởng cho các cuộc tiến quân áp sát của địch. Với một lãnh thổ rộng hơn tỉnh Kontum rất nhiều, lại do các đồn bót của Địa Phương Quân nằm rải rác trấn giữ, quân số thực tế của các đơn vị này luôn thấp hơn nhiều so với tên trên số lương, Ban Mê Thuột trở thành một căn cứ không có vòng đai phòng thủ theo đúng nghĩa quân sự. Thành ra, việc thất thủ Ban Mê Thuột là chuyện khó tránh được và chiếm được Ban Mê Thuệt không phải là điều đáng hãnh diện như những lời tự mãn khoe hoang của các tướng lãnh Việt Cộng qua các hồi ký của họ.
Sự chờ đợi bao giờ cũng làm thời gian cũng trôi chậm lại. Mãi tới gần 7 giờ sáng mặt trời mới thực sự xua tan được mây mù. Tôi gọi điện thoại cho Thiếu Tá Cẩm để tìm hiểu thêm tình hình. Ch?ng có gì khả quan hơn. Cẩm nói với tôi phải chờ thới tiết khá hơn rồi sẽ cùng Tướng Tường bay lên quan sát tình hình. Gần 9 giờ sáng, chiếc trực thăng chỉ huy của Tướng Tường mới cất cánh được. Hình như tôi đã uống tới ly cà phê thứ 3 hay thứ 4 gì đó.
Suốt ngày hôm đó, trực thăng chỉ huy của Tướng Tường bay trên vùng trời Ban Mê Thuột. Mãi tới gần 7 giờ tối tôi mới nói chuyện được với Thiếu Tá Cẩm qua điện thoại. Tiếng Cẩm xúc động: Ban Mê Thuột bị tràn ngập rồi, không còn liên lạc gì được với Đại Tá Quang, Tư Lệnh Phó nữa. Tướng Tường đang ở BTL Quân Đoàn 2, họp bàn về lệnh lập kế hoạch giải tỏa.
Ngay trong thời điểm ấy, tôi đã không tin là có thể làm gì hơn cho kế hoạch này. Nguyên tắc quân sự cơ bản: Phòng thủ 1 chống 3, tấn công 3 chọi 1. Vậy cứ cho là đang có 2 sư đoàn địch chiếm cứ trận địa, làm sao kiếm ra tối thiểu 5 sư đoàn để tái chiếm? Ưu thế hỏa lực không còn, các đơn vị tổng trừ bị hầu như bị cầm chân gần hết tại chiến trường hỏa tuyến, lực lượng nào để tiếp cứu đây?
Sáng ngày 11, tôi được trực thăng đón ra BTL Sư Đoàn họp hành quân. Kế hoạch hành quân do Thiếu Tá Cẩm, Trưởng Phòng 3 Sư Đoàn trình bày gồm 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Ngày 12, Trung Đoàn 45 được trực thăng bốc đi từ đèo Tử sĩ, đổ xuống quận Phước An, di chuyển về thị xã từ hướng đông, đến chạm tuyến chờ lệnh.
- Giai đoạn 2: Buổi sáng cùng ngày, Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân được không vận từ Sài Gòn sẽ đến thay thế Trung Đoàn 44 tại các vị trí Trung Đoàn này đang phòng thủ. Sau khi bàn giao nhiệm vụ, Trung Đoàn 44 ra tập trung tại căn cứ Hàm Rồng và s?n sàng di chuyển về Ban Mê Thuột bằng trực thăng.
Sáng ngày 13, Trung Đoàn 44 sẽ được không vận xuống Phước An, lần theo quốc lộ 21, song song với Trung Đoàn 45, tiến vào thị xã.
Họp hành quân xong, tôi trở về ngay căn cứ 801 để chờ đơn vị bạn. Mãi tới gần 3 giờ chiều, đoàn xe chở Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân mới tới nơi. Người bước vào căn cứ đầu tiên là Đại Tá Nguyển Kim Tây. Cuộc bàn giao vị trí cũng kéo dài tới gần 5 giờ chiều mới hoàn tất. Trung Đoàn 44 lên xe trực chỉ hướng Hàm Rồng.
Trung Đoàn 44 s?n sàng tại bãi đáp lúc 7 giờ sáng ngày 13 tháng 3. Số lượng trực thăng dự trù để di chuyển toàn bộ Trung Đoàn gồm khoảng 50 chiếc đủ loại, trong đó có 8 chiếc Chinook, 30 chiếc HUID và phần còn lại là trực thăng vũ trang. Kế hoạch dự trù di chuyển làm hai đợt. Đợt đầu gồm Tiểu Đoàn 3/44 do Đại Úy Trần Hữu Lưu làm Tiểu Đoàn Trưởng, Đại đội 44 trinh sát của Đại Úy Mạnh, BCH Trung Đoàn 44. Quân số tổng cộng khoảng gần 600 người. Đợt thứ 2 gồm 2 Tiểu Đoàn 1/44 của Thiếu Tá Nguyễn Xuân Hòe, và Tiểu Đoàn 2/44 của Đại Úy Nguyễn Văn Pho, Bộ Chỉ Huy nhẹ do Trung Tá Vũ Mạnh Cường, Trung Đoàn Phó chỉ huy.
Chuyến không vận đầu tiên cất cánh lúc 9 giờ, đáp xuống khu vực rừng trống trước cửa Chi Khu Phước An lúc 10 giờ 15. Tôi vào gặp Tướng Tường tại Bộ Chỉ Huy Chi Khu nhận lệnh. Tôi ra lệnh cho Đại Úy Lưu đưa tiểu đoàn đi theo hương bắc quốc lộ 21 tiến lên ngang tuyến của Trung Đoàn 45 thì dừng lại chờ. Đại Đội 44 Trinh Sát được giữ lại để bảo vệ BTL Sư Đoàn. Đoàn trực thăng cất cánh trở lại Hàm Rồng để chở tiếp đợt còn lại.
Đến 2 giờ chiều, v?n không có tin tức gì của đợt không vận thứ 2. Tôi trở vào Chi Khu, nơi BTL Sư Đoàn đang tạm đặt tại đây, để hỏi tin tức. Trung Tâm Hành Quân của Sư Đoàn cũng ch?ng biết gì hơn! Bốn giờ chiều, Trung Tâm Hành Quân Quân Đoàn cho biết cuộc không vận bị hủy bỏ, số trực thăng ấy đã được sử dụng để chuyên chở các nhân viên BTL Quân Đoàn trở về Nha Trang! Hai tiểu đoàn của tôi sẽ nhận lệnh trực tiếp của Quân Đoàn. Sau này tôi mới được biết hai tiểu đoàn còn lại của tôi đã đi theo đoàn quân triệt thoái theo liên tỉnh lộ 7 và bị tan rã hoàn toàn. Trung Tá Trung Đoàn Phó Vũ Mạnh Cường bị bắt làm tù binh, sau này bị đem về nhốt và chết cháy trong conex tại trại Hàm Tân. Đại Úy Pho, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/44, tự sát trước khi bị bắt.
Ngày 14, chúng tôi kiểm điểm lại và thấy như sau:
Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân, sau khi vào được thị xã Ban Mê Thuột, tiến đến khu vực phi trường L.19 trong thị xã, đã bị đánh bật ra ngoài vòng đai, hiện đang bị vây hãm tại Đạt Lý.
Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 45 và Tiểu Đoàn 3/44 đang bị cầm chân ngoài vòng đai thi xã
Lực lượng pháo binh yểm trợ trực tiếp (và duy nhất) là trung đội pháo binh diện địa đang đặt tại Chi Khu Phước An chỉ có 2 khẩu đại bác 105 ly.
Lực lượng không quân yểm trợ, đánh phá các căn cứ tập trung của địch, trong và ngoài vòng đai thị xã đang bị khốn đốn vì hỏa tiễn tầm nhiệt cầm tay SA 37 của Việt Cộng do Nga chế tạo, lần đầu tiên được sử dụng rộng rãi trên chiến trường Tây nguyên.
Buổi sáng ngày 14, trong chuyến bay từ Khánh Dương lên Phước An, máy bay trực thăng của Tướng Tường bị trúng đạn phòng không 12 ly 8 của Việt Cộng. Tướng Tường và viên co-pilot bị thương nhẹ, phải vào bịnh viện Nha Trang điều trị.
Sáng ngày 15, Đại Tá Phùng Văn Quang, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 45 và tôi, được tin Sư Đoàn có vị Tư Lệnh mới, đó là Đai Tá Lê Hữu Đức. Cùng ngày Đại Tá Đức ra lệnh hai chúng tôi cho đơn vị di chuyển lui về hướng đồi Chư Cúc lập tuyến phòng thủ tại đây. Năm giờ chiều cùng ngày, trong khi chờ trực thăng cùa vị tân Tư Lệnh đáp xuống đỉnh Chư Cúc để họp thì đoàn chiến xa Việt Cộng tràn tới dưới chân đồi. Tiếng Đại Úy Mạnh, Đại Đội Trưởng 44 Trinh Sát, reo lên trong máy: Báo cáo Bá Hòa, chúng tôi đã thiêu sống một con cua. Những tiếng súng nổ ròn rã cách xa hướng chân đồi non cây số, quyện trong khói đen và trắng của chiếc xe thiết giáp địch bốc cháy thực sự không còn gây cho tôi một ấn tượng hứng khởi nào nữa. Tiếng Đại Tá tân Tư Lệnh nói trong máy cho biết không thể đáp xuống được và yêu cầu Đại Tá Quang cùng tôi phối hợp phòng thủ chờ lệnh! Tôi còn nhớ hình như Đại Tá Quang có buông một tiếng chửi thề và leo lên xe jeep chạy nhanh xuống chân đồi trở về đơn vị.
Tôi và Đại Úy Phan Công Minh, sĩ quan hành quân của Trung Đoàn, lặng lẽ đi bộ theo sau. Vừa ra khỏi khúc quanh trên đỉnh đồi, chúng tôi nghe tiếng xích sắt của xe thiết giáp địch xình xịch bên tai. Cả hai anh em không có chọn lựa nào khác là chui qua vòng rào kẽm gai giăng quanh căn cứ, trượt theo sườn giốc xuống chân đồi, nơi có cắm đầy những tấm bảng gỗ ngổn ngang, trên có hàng chữ: Khu tử địa cấm vào!!!
Dưới chân đồi là một lạch nước nhỏ, hai bên có trồng chuối. Tôi và Minh ngồi im lặng dưới tầu lá chuối, ngâm chân vào giòng nước lạnh. Trong suốt 15 năm quân ngũ, chưa bao giờ tôi lại thấy tuyệt vọng như thế, kể cả khi còn là một Đại Úy Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 2/11 Sư Đoàn 7, khi bị vây hãm 3 ngày 2 đêm ở khu vực bến xe Mỹ Tho, đơn vị chỉ gồm hơn 50 người, trong đó có tới hơn phân nửa là chết và bị thương, đạn dược cạn kiệt và đói khát. Lúc đó, tôi v?n thấy địch sẽ thất bại và chúng tôi sẽ được giải cứu. Bây giờ đây thì không. Tôi không nhìn thấy một cơ may nào để có thể giải cứu Ban Mê Thuột. Ngày 16 tôi và Minh tìm lại được đơn vị, và được trực thăng bốc về Khánh Dương.
5.- Một vài cảm nghĩ về kế hoạch tái chiếm
Tôi được lệnh đưa đơn vị trở về Vũng Tàu qua điện thoại từ Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu. Khi đơn vị gom lại được tại Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn, Vũng Tàu, tổn thất nhân mạng hầu như ch?ng bao nhiêu, nhưng số binh sĩ bỏ ngũ thì khá nhiều. Phần lớn số binh sĩ này là người sinh trưởng tại các tỉnh duyên hải, thành ra lợi dụng trong lúc di chuyển bằng đủ mọi thứ phương tiện, họ đã đi theo đoàn người di tản để trở về gia đình. Cuộc chiến tranh nhập nhằng trong cái vỏ hòa bình giả tạo của Hiệp Định đình chiến Paris quả thật đã vắt kiệt sức chịu đựng của người lính chiến Việt Nam.
Kể từ ngày Việt Cộng rêu rao cái gọi là chiến dịch Đồng Khởi năm 1960 cho đến năm 1975, 15 năm ấy những người lính VN có giờ phút nào được hưởng giây phút tạm gọi là thanh bình? Cuộc chiến không có hậu phương, ngay cả trong thời gian nghỉ phép ngắn ngủi, họ cũng vẫn có thể bị bắt cóc trên các chuyến xe đò trở về nhà, hoặc trúng mìn trên đường di chuyển từ tiền phương trở về hậu cứ lấy giấy phép, và sau cùng, họ cũng v?n có thể bị trúng đạn pháo kích khi đang ngủ trên giường cùng vợ con! Cái chết như là điều gì rất thường trực, lúc nào cũng có thể xuất hiện và mang họ đi, thậm chí mang luôn cả thân nhân ruột thịt của chính họ. Trong khi ngoài chiến trường xương rơi, máu đổ thì nhìn về phía sau lưng, những trò chính trị nhố năng của một số chính khách hoạt đầu, tứ thời sống bằng cái miệng hò hét hoan hô đả đảo, bôi nhọ, tranh chấp nhau, những luận điệu phản chiến vô trách nhiệm... Rồi bà nọ ông kia mua quan bán chức, sống phè phỡn trên nỗi thống khổ và sự hy sinh vô bờ bến của những ng ười cầm súng. Giờ đây, trên radio, trên báo chí, trên những tin tức tác động tâm lý của địch, họ đã thấy gì? Họ thấy sự đổ vỡ của các mặt trận giới tuyến, thấy sự rút chạy (mà phát ngôn viên quân sự đặt cho nó một cái tên mới là di tản chiến thuật!) tán loạn từ khắp mọi nơi... Trong tình thế như vậy mà đòi hỏi nơi binh sĩ một tinh thần vì nước quên mình, có lẽ chỉ những cấp chỉ huy có đầu óc hài hước cỡ Charlot mới dám làm!
Những ngày trong lao tù Cộng Sản, tôi có dịp gặp hầu hết những cấp chỉ huy có liên quan hoặc ít hoặc nhiều tới chiến trường Tây nguyên năm 1975, như Đại Tá Vũ thế Quang, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 23, Đại Tá Phùng Văn Quang, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 45, Đại Tá Võ Ân, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 53, Trung Tá Lê Quí Dậu, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân, Đại úy Xuân, Trưởng Phòng 2 Tiểu Khu Đaklac... Qua các câu chuyện trao đổi, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai tin tưởng vào một cơ may có thể tái chiếm Ban Mê Thuột với những kế hoạch đã được đưa ra thi hành vào lúc ấy!
6.- Câu chuyện bên lề
Trước khi chấm dứt bài viết này, tôi xin kể lại một câu chuyện thực 100% có liên quan đến mặt trận Ban Mê Thuột mà có thể nói hầu hết những nhân viên tham mưu thuộc Phòng 2 và Phòng 3 Sư Đoàn 23 Bộ Binh ai cũng từng nghe và từng biết. Tháng 10 năm 1972, vết thương ở đầu gối của tôi trở nên trầm trọng, có nguy cơ bị hoại thư, Tướng Trần Văn Cẩm, tân Tư Lệnh của Sư Đoàn, đồng ý cho tôi đi dưỡng thương ở Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch ở Phan Thiết. Tôi bàn giao Trung Đoàn 44 lại cho Đại Tá Võ Hữu Hạnh. Đầu năm 1973, tôi trở về đơn vị, lúc bấy giờ v?n còn hành quân tại KonTum để đảm nhiệm chức vụ Trưởng Phòng 3 Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Không bao lâu sau, Hiệp Định đình chiến Paris được ký kết, cục diện quân sự trở nên trớ trêu, khó chịu. Trước ngày 28.2.1973, cả hai phía đều tung ra các cuộc hành quân lấn đất giành dân bằng các cuộc tấn kích trải đều trên lãnh thổ trách nhiệm, ngõ hầu có thể cắm được nhiều cờ chứng tỏ vùng đất đó là do quân ta chiếm giữ (hiểu ngầm là bên địch phải chấp nhận, tôn trọng không dám bước vào!!!). Nhưng thực tế không đơn giản như vậy. Sư Đoàn F10 của Mặt Trận B3 tràn vào khu dân cư Trung Nghĩa, nằm ở hướng tây Kontum, còn Sư Đoàn 23 thì tung các toán trinh sát và viễn thám lên tới gần trại Benhet (Bạch Hổ) rải rác xuống tới Võ Định. Nhưng rồi cả hai bên ch?ng bên nào giữ được miếng đất có cắm lá cờ của mình cả! Hai Trung Đoàn 24 và 26 của Sư Đoàn 10 CSBV bị đánh te tua, cũng đành bỏ của chạy lấy người sau gần một tháng (sau hiệp định) cố thủ và kiện cáo với Ủy Ban 4 bên kiểm soát đình chiến. Về phía ta, các toán viển thám cũng bị săn đuổi ác liệt không kém nên ít lâu sau cũng phải bỏ vị trí trở về.Các hoạt động quân sự, kể từ đó không còn các cuộc hành quân thế công, mà thu gọn vào các hình thái phòng thủ tuyến. Ta và địch đối diện nhau, nói chuyện qua lại! Lâu lâu bộ đội của địch thấy buồn buồn, gọi qua xin ta điếu thuốc Ruby Qeen hút cho phê. Bộ đội địch ch?ng có gì để cho lại ta vì quá nghèo! Nhưng đằng sau cái vẻ mặt hòa bình giả tạo đó, địch v?n không ngừng xâm nhập để thăm dò, thậm chí lâu lâu pháo vài trái súng cối hoặc hỏa tiễn để nhắc nhở rằng cuộc chiến tranh thực sự v?n còn nguyên. Phe ta tuy không còn các cuộc hành quân thế công quy mô, nhưng các hoạt động viễn thám để dò tìm tin tức địch và phát hiện kịp thời các hoạt động của địch thì v?n như khi chưa có hiệp định. Thêm vào đó, khi tin tức tình báo tốt, hoặc địch tập trung, hoặc di chuyển với qui mô lớn thì ta cũng s?n sàng dùng phi pháo để... cảnh cáo!
mặt trận Kontum lúc đó, các toán viễn thám của Đại Đội 23 trinh sát Sư Đoàn là chủ chốt trong các hoạt động quân sự này. Tưởng cũng cần nói rõ về tổ chức và thành phần của một toán viễn thám như sau:
- Một Trưởng Toán thường là một sĩ quan hoặc một hạ sĩ quan thâm niên,
- Một Phó Trưởng Toán,
- Một hiệu thính viên (trang bị máy truyền tin PRC/15),
- Bốn binh sĩ
Tất cả đều là những người tình nguyện, thành ra có thể nói, tinh thần tác chiến khá cao. Đại Đội 23 Trinh Sát có 6 toán viễn thám như vậy.
Trưởng Phòng 2 Sư Đoàn 23 là Trung Tá Điều ngọc Chuy, tốt nghiệp khóa 16 Đà Lạt. Sĩ quan tình báo đặc trách các hoạt động viễn thám này là Đại Úy Miêng. Đề ra kế hoạch, chỉ định khu vực hành quân và cung cấp phương tiện trực thăng là do Phòng 3. Thành ra sự phối hợp hàng ngang giữa 3 chúng tôi khá mật thiết.
Thời gian xẩy ra câu chuyện vào khoảng tháng 4 năm 74. Số là sau khi thả xong 2 toán viễn thám ở khu vực tây Võ Định, cách Kontum chừng 20 km về hướng Tây Bắc, sau 2 ngày hoạt động, khi toán di chuyển tới một vị trí quan sát chỉ định thì bị địch phát hiện và vây lùng. Miêng quyết định cho toán lợi dụng đêm tối di chuyển về hướng Nam rồi sáng hôm sau sẽ dùng trực thăng võ trang yểm trợ bốc toán trở về. Đến nửa đêm, sĩ quan trưởng toán báo cáo anh ta và chú em hiệu thính viên bị thương, các toán viên bắt buộc phải phân tán mỏng để chạy thoát thân. Cũng từ đó, Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn mất liên lạc với toán. Sáng hôm sau, Trung Tá Chuy, Miêng và tôi bay lên vùng đó khá sớm cùng với 2 trực thăng võ trang, một chuyên chở và một trực thăng chỉ huy. Chúng tôi bay trên vùng gần 2 tiếng đồng hồ mà tuyệt nhiên không thấy có dấu vết hay dấu hiệu gì. Trở lại Kontum đổ săng, tôi và Chuy trở về lại BTL Sư Đoàn, còn Miêng tiếp tục lên bao vùng, liên lạc. Đến mãi gần trưa, Miêng mới phát hiện ra c ó tín hiệu kiếng chiếu từ một chân đồi có cây thưa. Miêng cố gắng gọi trên vô tuyến, nhưng không có trả lời. Miêng không dám vòng lại nhiều lần vì có thể làm một vị trí của những toán viên, thành ra anh ghi nhanh vị trí này trên bản đồ và trở về. Vị trí do Miêng phát hiện nằm cách quốc lộ 14 chừng 2 km, cách Kontum gần 15km. Chúng tôi ước định, đây có thể là một vài toán viên thoát hiểm, đang có khuynh hướng bám theo quốc lộ vượt thoát.
Hậu cứ của Đại Đội 23 Trinh Sát đóng tại Ban Mê Thuột. Một vài binh sĩ của Đại Đội,bị thương trong tình trạng mất khả năng tác chiến được lưu giữ tại trại để canh gác và làm tạp dịch. Trong đó có một hạ sĩ tên Tân có biết nghề thợ may. Đại Đội mua cho Tân một chiếc máy may để sửa chữa quần áo cho đơn vị. Trước cổng vào của Đại Đội có một chiếc Bàn Thiên, hàng ngày Tân thường ra nhang khói cầu nguyện. Khi tin từ Kontum gọi về cho biết toán viễn thám bị vây bắt và mất liên lạc thì cả hậu cứ Đại Đội xôn xao. Các thân nhân của các anh em trong toán, từ khu gia binh kế cận kéo sang hỏi thăm tín tức.
Tân vốn bản tính ưa làm việc thiện và có đức tin., Buổi chiều hôm đó, Tân cũng sắm sửa ít thẻ nhang, nhánh chuối bày vào đĩa dâng lên Bàn Thiên cầu nguyện ơn trên cho đồng đội của mình bình an trở về. Sau khi thắp nhang khấn vái xong, thì một chuyện lạ xẩy ra, chuyện này chưa từng có ở hậu cứ này. Tân bỗng dưng mặt đỏ tai tía, hai mắt nhắm chặt, miệng phun phì phì, tay đấm ngực thùm thụp, rồi ngồi ngay xuống trước sân lấy tay vẽ lung tung trên mặt đất.
Mọi người hiện diện lúc ấy đều hốt hoảng không biết việc gì đã xẩy ra, cứ nghĩ là anh ta bị trúng gió thành ra một hai người chạy lại định đỡ Tân vào trong nhà. Nhưng vô hiệu, anh rất khỏe, xô đẩy không cho ai tiến lại gần, miếng cứ tiếp tục phun phì phì và một tay đấm ngực, còn một tay vẽ vòng vèo trên mặt đất. Lúc đó có một anh Thượng Sĩ già từ trong nhà bước ra, sau khi quan sát, đã nói to: Cốt nhập rồi! Mau vẽ bàn cơ ra đây xem các ngài dạy gì! Tân gật đầu tỏ vẻ hài lòng. Một binh sĩ đứng gần, nhanh tay mang một tờ giấy khổ đôi đưa cho viên Thượng Sĩ, anh này ngồi xuống, dùng bút bi viết lên các m?u tự, rồi đặt trước đồng tử (Medium). Đồng tử tiếp tục ra hiệu lấy một khăn vải, bắt bịt chặt hai mắt trước khi ngồi vào ngay ngắn trước tấm giấy.
Khi viên Thượng Sĩ xin cốt cho biết tên họ, thì đồng tử ráp chữ trên giấy xưng danh là Quốc Thánh, và cho biết vì có cảm tình với đơn vị nên giáng cơ chỉ bảo. Nhân tiện có câu chuyện toán viễn thám đang bị mất tích, viên Thượng Sĩ chỉ huy hậu cứ liền hỏi luôn tình trạng của họ ra sao. Quốc Thánh trả lời: Chúng nó đang gặp nạn, có 3 đứa bị thương, nhưng ta sẽ đưa chúng nó trở về bình an nội trong 2 ngày tới. Tin vui bất ngờ này làm cho mọi người thở ra nhẹ nhõm nên không ai có ý muốn hỏi gì thêm. Quốc Thánh cũng thăng. Chú em đồng tử trở về trạng thái bình thường, thậm chí khi hỏi chú vừa làm gì, chú ta cũng không biết!
Ngay trong đêm hôm đó, Miêng là người nhận được cú điện thoại đầu tiên kể lại câu chuyện đã xẩy ra. Sáng hôm sau, sau buổi họp tham mưu thường lệ, Miêng kêu tôi và Chuy ra một góc phòng và kể lại toàn bộ câu chuyện ly kỳ này. Tôi vốn dĩ là người ít tin những chuyện dị đoan, nên góp vào một lời bàn ngang: Thì cứ để ngày mai xem sao, còn mình v?n tiếp tục xin cho cậu một hợp đoàn trực thăng túc trực, riêng cậu một chiếc C&C và 2 gunship để đi tìm các đệ tử của cậu. Miêng gật đầu đồng tình, rồi bước ra khỏi phòng họp.
Ngày hôm ấy, suốt cả ngày, Miêng, Chuy và tôi luân phiên nhau lên vùng tìm kiếm, nhưng v?n không có tin tức gì. Buổi chiều, khi trả hợp đoàn trực thăng trở lại Pleiku, cả 3 chúng tôi đều cảm thấy buồn. Tôi suy nghĩ miên man: Hòa bình rồi đó, ở những cao ốc, biệt thự, giờ này các chính trị gia chắc đang họp bàn âm mưu, tính kế tranh đoạt ngôi vị, các con buôn chiến tranh đang phè phỡn ăn chơi trác táng, trong lúc các chiến sĩ trong quân lực VNCH v?n âm thầm hy sinh. Tôi lo lắng về số phận của toán. Trưa hôm sau, trong lúc Chuy đang bay đi tìm thì Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn nhận được điện thoại của Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu Kontum báo cáo có 4 quân nhân Sư Đoàn 23 trở về, hiện đang ở tại xã Trung Nghĩa, trong đó có Chuẩn Úy Trưởng Toán bị thương ở tay và chù em truyền tin bị thương ở bả vai. Khoảng 2 giờ chiều, toán tiền đồn của Trung Đoàn 53 báo cáo có 3 binh sĩ thuộc Đại Đôi 23 Trinh Sát trở về, trong đó có một người bị thương! Quốc Thánh đã nói không sai một lời nào cả!
Cò điều đặc biệt là Quốc Thánh chỉ ứng cơ với các sự kiện có liên quan đến Đại Đội 23 trinh sát mà thôi. Dĩ nhiên Quốc Thánh còn ứng cơ trong một vài trường hợp nữa nhưng cũng v?n chỉ liên quan đến các hoạt động của các toán viễn thám, và cũng v?n khá chính xác mà tôi không muốn nêu ra đây. Câu chuyện ứng cơ này được nhiều người biết tới, và đã có nhiều lời bàn tán cho rằng Quốc Thánh chính là anh hồn của Tướng Trương Quang Ân, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh chứ không ai khác. Người ta d?n ra rằng khi còn sống, ông là vị Tư Lệnh có thiện cảm với đại đội trinh sát hơn bất cứ vị Tư Lệnh nào khác. ng và phu nhân (nguyên là một nữ quân nhân) bị mất trong một tai nạn máy bay khi đang chỉ huy hành quân trong một cuộc hành quân tại Quảng Đức.
Tháng 7 năm 1974, khi rời khỏi chức vụ Trưởng Phòng 3, trở lại với Trung Đoàn 44, với nhiệm vụ mới, tôi cũng không còn dịp theo dõi câu chuyện ly kỳ này nữa. Mải cho tới khoảng tháng giêng 1975, sau buổi họp hành quân tại BTL Sư Đoàn ở Hàm Rồng, Đại Úy Miêng kêu tôi ra nói chuyện riêng. Anh hỏi tôi:
- ng còn nhớ chuyện ngài Quốc Thánh không?
- Nhớ chứ! Tôi trả lời.
Miêng nói:
- Có chuyện này lạ lắm, để tôi kể ông nghe. Rồi Miêng tiếp:
- Chắc ông còn nhớ vụ mình thả viễn thám ở Kontum chứ gì? Từ sau thời gian Sư Đoàn kéo về hành quân ở Quảng đức, rồi trở về Ban Mê Thuột, Quốc Thánh nhập cơ một hai lần gì đó, rồi b?ng đi gần 3 tháng. Mới đây, hôm thứ 6 tuần trước, Quốc Thánh lại nhập cơ và báo cho biết Việt Cộng đang kéo về hướng Ban Mê Thuột rất đông. Khi được hỏi từ hướng nào, ngài bảo hướng Tây và hướng Bắc. Ngài còn bảo: Tụi nó có ý muốn đánh Ban Mê Thuột!.
Tôi cười:
- Thế sao theo tin tức tình báo ông vừa thuyết trình thì Việt Cộng đang tập tập trung thay quân giữa Công Trường 9 kéo từ Bình Long lên với Sư Đoàn 320, có thể kéo trở ra Bắc để tái bổ sung và tái huấn luyện?.
Cùng lúc ấy Trung Tá Chuy đi tới, tôi quay qua hỏi Miêng:
- Chuy biết chuyện này chưa?
Miêng bảo:
-Tôi có kể cho ông ấy nghe rồi.
Tôi hỏi Chuy:
- ông nghĩ thế nào về vụ Việt Cộng có thể đánh Ban Mê Thuột?
Chuy nói:
- Tin tức từ Quân Đoàn và Tiểu Khu Đắc Lắc cho biết có nhiều dấu hiệu địch tập trung quân đông lắm, có thể chúng sẽ mở một cuộc tấn công qui mô như kiểu năm 72. Đó là điều có thể xẩy ra lắm chứ!.
Chúng tôi nói vài câu chuyện vãn rồi chia tay. Tôi lên máy bay trực thăng trở về BCH Hành Quân của mình.
Khoảng một tuần lễ sau, Trung Đoàn 45 bắt được một tù binh cộng sản Bắc việt tên Sính, anh ta đã khai toàn bộ kế hoạch đánh chiếm Ban Mê Thuột, như tôi đã kể ở phần đầu. Trung Tá Chuy và Đại Úy Miêng đã đích thân thẩm vấn và ghi chép đầy đủ bản cung từ của Sính. Có điều lạ là kế hoạch tấn kích của Việt Cộng gần như rất trùng hợp với kế hoạch chúng đã tấn công vào đây trong năm 1968 (Tết Mậu Thân). Chỉ có sự khác biệt là lần này, theo lời Sính cung khai, chúng có sử dụng xe tăng trong mũi tấn công từ hướng Đông Bắc. Dĩ nhiên, tin tức mật này được báo cáo đầy đủ lên BTL Quân Đoàn.
Ba ngày trước khi cuộc tấn công Ban Mê Thuột xẩy ra, sau buổi họp hành quân thường lệ tại BTL Sư Đoàn, Miêng, Chuy kéo tôi qua Phòng 2 ngồi nói chuyện. Miêng bảo:
- Kỳ quá ông ạ, tối qua hậu cứ Đại Đội 23 Trinh Sát kêu điện thoại lên bảo là Quốc Thánh nhập cơ, yêu cầu tôi hoặc ông Chuy về gặp ngài gấp, ngài có điều muốn chỉ riêng, tối quan trọng. Tôi cười:
- Chắc là ngài lại nói về vụ đánh Ban Mê Thuột chứ gì?
- Chắc vụ ấy quá! Miêng trả lời.
Tôi bảo:
- Thì ông xẹt về xem sao, biết đâu ch?ng có nhiều điều lạ không chừng.
Miêng cười:
- Làm sao mà về được, ch?ng lẽ lấy lý do về nghe cơ, để rồi Tư Lệnh cho vài củ à?.
Thực ra trong bụng cả 3 chúng tôi cũng ch?ng mấy tin những chuyện có vẻ hoang đường kiểu này, dù rằng trong quá khứ đã có những điều xẩy ra khá chính xác do Quốc Thánh mách bảo như tôi đã kể! Cùng chiều hôm đó, sau khi tôi đã bay trở về căm cứ 801, Miêng điện thoại cho tôi:
- Lạ quá ông ạ, trưa nay Quốc Thánh lại nhập cơ. Tụi hậu cứ trinh sát nó kể rằng ngài nóng nẩy, tức giận lắm, ngài bảo: Nói với thằng Tường (!) hãy về đây gặp ta gấp, ta sẽ cho nó có cơ hội được nổi tiếng.
Tôi chọc Miêng:
- Thế ông đã trình cho Tư lệnh chưa?
Miêng cũng cười:
- Bố tôi cũng không dám trình!
Sáng hôm sau, như thường lệ, tôi lại được trực thăng đón ra họp hành quân mỗi ngày. Khi gặp Miêng tôi hỏi ngay:
- Quốc Thánh còn dậy gì nữa không?
Miêng có vẻ ưu tư:
- Thôi để họp hành quân xong tôi kể ông nghe.
Sau đó Miêng cho tôi hay Quốc Thánh nhập cơ lần cuối cùng vào khoảng nửa đêm, bây giờ ông không còn nhắc tới chuyện thời sự nữa. ng nói với viên Thượng Sĩ già chỉ huy hậu cứ rằng tình hình đã muộn rồi, không còn cứu vãn được nữa, ông cũng sẽ không còn ở lại với đơn vị trinh sát, ông sẽ vào quy y tại một ngôi chùa nào đó. Khi viên Thượng Sĩ hỏi thêm tình hình chiến sự sẽ như thế nào, ông đáp: Không thể nói được. ng v?n lập lại điều mà ông cho là đáng tiếc, đó là ông không có dịp gặp được Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn để ông có thể mách bảo điều gì đó.
Hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau thì cuộc tấn công vào Ban Mê Thuột mở màn. Cũng từ đó, tôi không còn được nghe kể về câu chuyện Quốc Thánh hiện về nữa. Quả thật, trong đời sống thường nhật có biết bao điều kỳ bí mà không ai có thể giải thích được, người ta chỉ có thể tiếp nhận bằng đức tin. Dấu hiệu về biến cố Ban Mê Thuột đã được thông báo trước đến những người chỉ huy Quân Đoàn 2 bằng cả tin tức tình báo l?n tiếng nói huyền bí, nhưng không hiểu tại sao thành phố này đã không được phòng thủ một cách chu đáo, bị thất thủ một cách vô lý, kéo theo sự thất trận của toàn bộ miền Nam Việt Nam. Âu cũng là vận nước đã tới giai đoạn xoay vần. Chúng ta chỉ còn biết dừng lại ít phút để tưởng nhớ đến các chiến hữu đã hy sinh một cách oan uổng và cầu cho vong linh họ được siêu thoát.