BS. Hoàng Văn Đức, Khơi Dòng Sử Mệnh

BS. Hoàng Văn Đức

Khơi Dòng Sử Mệnh

Niềm Trăn Trở Về Tiền Đồ Tổ Quốc

Của Một Công Dân Việt Nam Tha Hương


Tập tiểu luận “Khơi Dòng Sử Mệnh” là tâm huyết của một trí thức Việt Nam yêu nước, một sĩ phu Bắc Hà vào lúc cuối đời vẫn trăn trở khôn nguôi cho vận mệnh của nước Việt. Đó là những nhận định, những suy nghĩ, những biện  pháp dựa vào những ưu và khuyết điểm của quốc gia và dân tộc Việt Nam được ông viết vào ngày 30 tháng 5, 1995. Ông giao phó cho tạp chí Tân Văn phổ biến đến tay người Việt khắp năm châu như tâm huyết sau cùng để lại cho đời sau (Tân Văn #26 tháng 9/2009). Diễn đàn  Saigon Weekly xin phổ biến lại tiểu luận này như một nén hương tưởng niệm 12 năm, ngày ông qua đời.

Tiểu sử Bác Sĩ Hoàng Văn Đức, chỉ huy trưởng đầu tiên Trường Quân Y VNCH
(1926-2012)

Bác Sĩ  Hoàng Văn Đức sinh ngày 17 tháng 2 năm 1926 tại Hà Nội. Nguyên quán:  Phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Tốt nghiệp Y Khoa Bác Sĩ năm 1951 tại Trường đại học Y Khoa Hà Nội.
Gia nhập ngành Quân Y Quốc Gia Việt Nam, khóa 1, năm 1951.
Năm 1956, khi là Y Sĩ Thiếu Tá Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, ông được cử sang Mỹ học khóa Quản Trị Quân Y tại Houston, Texas.
1957 -58, Chỉ Huy Trưởng Chẩn Y Viện Trung Ương.
1958, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quân Y.
1959 – 1963, Y Sĩ Trung Tá Hoàng Văn Đức được Tổng Thống Ngô Đình Diệm giao phó cải tổ Trung Tâm Huấn Luyện Quân Y thành Trường Quân Y gồm ba ngành Y – Nha – Dược, đào tạo Quân Y Sĩ Hiện Dịch cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ( Armed Force of The Republic of Viet Nam).
Sau cuộc binh biến 1 – 11- 1963, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cho ông giải ngũ.
Từ năm 1964, hành nghề Bác Sĩ tư, hợp tác giảng dạy tại Viện Đại Học Minh Đức, Phân Khoa Y, dịch tác phẩm Pháp Văn và viết báo.
Năm 1966, thành lập Phong Trào Liên Bang Các Quốc Gia Đông Nam Á mưu cầu tạo thế quân bình giữa hai Lực Lượng Tư Bản và Lực Lượng Xô Viết kiến tạo Hòa Bình cho châu Á theo Chiến Lược Hòa Bình Châu Á, viễn kiến của Triết Gia Chính Trị Trần-Minh Tiết, ứng viên Việt Nam giải Nobel Hòa Bình thế giới năm 1972.
Tháng 4 năm 1975, ông và gia đình di tản sang Mỹ,  
1980 -1997:  Giáo Sư Lâm Sàng Bệnh Lý Học (Chinical Professor of Pathology) tại trường Đại Học USC (University of The Southern California).
Từ 1997 đến nay, nghỉ hưu ở Los Angeles, California.
Ông mất ngày 16 tháng 3, 2012 tại Los Angeles trong sự tiếc thương của bạn văn, đồng nghiệp và các đồng sinh của ông.


Những Lời Mở Đầu

TRẢI QUA MỘT CUỘC BỂ DÂU...

M
ột câu thơ của ông Nguyễn Du trong Đoạn Trường Tân Thanh chọc vào mắt tôi, nhức nhối.  Tôi, như tất cả đồng bào, sinh ra trong Thế Kỷ Hai Mươi, còn sống để bước sang Thế Kỷ Hai Mươi Mốt, bây giờ, chúng ta đều là Chứng Nhân Lịch Sử của một nước Việt Nam đầy đau đớn, đầy thảm sầu.  Cuộc chiến tranh – mà người Mỹ gọi là Việt Nam War – chấm dứt từ trưa ngày 30 tháng Tư năm 1975, chưa hẳn đã chấm dứt thực sự!   Sự kết thúc của cuộc chiến này khiến chúng ta nhớ lại những cuộc chiến trước đó – chống Thực Dân Pháp, chống Phát Xít Nhật, lại chống Pháp tái xâm lăng – không thê thảm cho bằng cuộc chiến tranh diễn ra từ năm 1960 giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam.  Miền Bắc được sự viện trợ “không tính toán” của Liên Xô và Trung Cộng, đã không ngần ngại một chút nào khi đổ bộ vào Nam, tiêu diệt chế độ Việt Nam Cộng Hòa với danh nghĩa “Chống Đế Quốc Mỹ”.  Miền Nam được sự “đồng minh” của Mỹ, được trang bị vũ khí hiện đại tới tận răng, quyết chống trả sự xâm lăng của miền Bắc, quyết xóa bỏ chế độ Cộng Sản đang áp đặt sự thống trị trên nửa phần đất nước phía trên vĩ tuyến 17.  Chiến tranh không một chút dè dặt đối với sinh mệnh con người, nói chung, đối với người-ruột-thịt cùng nòi giống, nói riêng.  Cả hai phía, Cộng Sản và Quốc Gia, ai cũng nhân danh Chính Nghĩa và thẳng tay tiêu diệt Chính Nghĩa!  Kết thúc đầy kinh ngạc:  Miền Nam thua.  Thua vì “Đồng Minh” Mỹ bỏ rơi,  Tổng Thống gạt nước mắt từ chức và bôn tẩu.  Miền Bắc thắng.  Thắng không phải nhờ hết lòng, hết sức chiến đấu, mà thắng như con chó đói ngáp phải ruồi!.  Dân tộc Việt Nam, sau “chiến thắng” của Việt Cộng trở thành lũ nhặng, không có nhà ở, không có cơm ăn, bâu bám nhau ở trại Lao Động Cải Tạo, ở vùng Kinh Tế Mới. Thê thảm như chưa bao giờ thê thảm hơn!  Ông Nguyễn Du đã viết tiếp:  “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng!”.


Nước Việt Nam thống nhất mà không “phình ra”, trái lại bị hẹp dần:  Trung Cộng xây dựng bản doanh trên Quần Đảo Hoàng Sa (chiếm từ tháng 1 năm 1974), bành trướng thêm bằng cách chiếm thêm một số đảo ở Quần Đảo Trường Sa.  Đài Loan đưa quân đến chiếm đảo Ba Bình ở Trường Sa.  Philippines cũng chiếm một số đảo khác bên cạnh đảo Ba Bình.  Trong khi mất đảo, Việt Cộng bị Trung Cộng đánh ở biên giới phía Bắc sau khi Đặng Tiểu Bình qua Mỹ “bàn bạc chuyện Đông Nam Á”, năm 1979.  Cũng trong năm này, ở biên giới phía Nam, Trung Cộng khuyến khích Pol Pot xua quân Căm Pu Chia tấn công vào ba tỉnh Tây Ninh, Châu Đốc, Long An.  Việt Cộng xoay trở như con lật đật.  May mà tống cổ được quân Tàu ở vùng Cao Bắc Lạng, may mà tém gọn được bọn Pol Pot trên nước Cao Miên.  Biển Nam Hải (biển của nước Nam ta, không phải biển phía Nam của nước Tàu) vẫn là cửa ngõ để trống.  Cái bao lơn trông ra Thái Bình Dương nổi sóng ngầm không biết bao giờ thì mới êm ả.  Đảng Cộng Sản Việt Nam lộ rõ mặt là Đảng Cướp Sạch (Đảng CS).  Nhân dân ta thán.  Nhân dân đói khổ, nghèo nàn, lạc hậu.  Tương lai Việt Nam thật là ảm đạm.  Tiền đồ của Tổ Quốc có gần năm ngàn năm  mịt mù.

Tôi viết Khơi Dòng Sử Mệnh xong từ năm 1995, cuối năm 2008, đọc lại, thấy chưa là cũ, bèn nhờ người đánh máy, in một ít bản, gửi đi đây đó, ai có lòng thương tôi, thương Nước, thương Nòi xin ghé mắt.  Quốc Gia Hưng Vong Thất Phu Hữu Trách, ở tuổi hơn tám mươi rồi, tôi thấm thía một điều:  “Im Lặng Trước Cảnh Nước Nhà Tang Thương, Trước Sự Ly Tán Của Dân Tộc là có Tội!”. 

Khơi Dòng Sử Mệnh, đối với tôi, là Một Lời Xưng Tội Thành Khẩn.  Nói thế cũng là Đã Tỉnh Ngộ chưa?  Thổ lộ Tấm Lòng Yêu Nước, tôi biết Không Ai Xấu Hỗ.  Tôi rất tự hào mình đứng trong hàng ngũ Dân Tộc.  Xin cho tôi tựa vai hỡi những Người Bạn Trẻ Dễ Thương!

Sau cùng cho tôi nhắc tới những người thương yêu của tôi, những người đã cùng tôi “Khơi Dòng Sử Mệnh”
  • Tưởng Nhớ Triết Gia Chính Trị Trần – Minh  Tiết  (1918 – 1990)
  • Thương Yêu tặng nhà tôi, bà Hoàng Văn Đức, Người Bạn Đời Chung Thủy của tôi.
  • Tưởng Niệm các Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa Đã Vì Nước Quên Thân Mình, trong số đó có ba đứa con của chúng tôi:
  • Mạnh Hành, chiến trường Savanakhet, Lam Sơn 69, 3-7-1967.
  • Trọng Thuật, mặt trận Quảng Trị, Lam Sơn 719 (1 – 4 – 1972)
  • Cao Hùng, Mùa Hè Đỏ Lửa, 1972, ngày Phật Đản, mồng 8 tháng Tư âm lịch.
 
  • Tưởng Niệm Môn Đệ / Nghĩa Đệ:
  • Bác Sĩ Trần Văn Lãng,
  • Trần Văn Đặng, Sĩ Quan Hành Chánh Quân Y (1959 – 1975)
 

Khơi Dòng Sử Mệnh


Trên căn bản những giá trị cổ truyền đã tạo nên Hồn Thiêng Sông Núi, phải thêm vào những phương pháp vận động lịch sử mới, để đất nước có thêm những giá trị cần thiết xây dựng hiện tại và tương lai.

Nước Việt Nam trong dòng lịch sử miên trường qua thời gian, luôn luôn phải đối phó với những hoàn cảnh trái ngược, đầy mâu thuẫn.  Lý do vị trí địa dư đặc biệt của đất nước, ở vào một ngã tư đường, giao điểm của những trào lưu lớn, gợi lòng tham muốn của ngoại nhân.


Số phận Việt Nam liên hệ mật thiết với số phận các nước Đông Nam Á, hiển nhiên như một “Thiên Thư Định Phận".

Lịch sử đã chứng minh trong quá khứ rằng khi một quốc gia trong vùng bị ngoại bang xâm chiếm thì tất cả mọi quốc gia khác lần lượt cũng sẽ bị xâm chiếm, đô hộ.

Lịch sử cũng chứng minh rằng mỗi khi có một phong trào giành độc lập được khởi xướng trong một nước thì các nước khác cũng dấy lên phong trào tương tự dây chuyền, bất khả hồi.

Nhưng số phận đất nước chúng ta trong vùng không phải chỉ liên hệ với những biến cố lịch sử, hay bởi vì cùng ở trong một vị thế địa dư  thiên nhiên giống nhau.  Số phận đất nước còn lệ thuộc rất nhiều vào những yếu tố tinh thần tác động vào những nhà lãnh đạo cầm cương nẩy mức quốc gia.  Nếu những nhà lãnh đạo có khả năng, đức độ, liêm chính, một lòng một dạ yêu nước thương nòi, thì tự nhiên nước giàu dân mạnh, an hưởng an bình trong một thời thịnh trị.  Ngược lại, những nhà lãnh đạo kém đức thiếu tài, tham lam, coi việc nước như việc của gia đình dòng họ, mua quan bán tước...thì dân khốn cùng, giặc giã nổi lên phá hoại quốc gia, làm khổ dân tộc.  Trong cả hai trường hợp, chiến tranh hay hòa bình trước sau gì cũng ảnh hưởng trực tiếp vào các quốc gia trong vùng.  Đây là một định luật chân lý chính trị không suy xuyển qua thời gian và không gian.

Trong cái chuỗi dài nhân quả lịch sử ấy, nước Việt Nam luôn luôn ở một vị thế đặc biệt.  Việt Nam mạnh hay yếu, các nước trong vùng mạnh hay yếu, thời nào cũng vậy.  Các nước Đông Nam Á là những nước luôn luôn bị ngoại bang phương Bắc và phương Tây dòm ngó, luôn luôn muốn thôn tính.  Nước Việt Nam lại là một nước đầu cầu trong các nước Đông Nam Á cho nên Việt Nam luôn luôn hứng chịu những đầu sóng ngọn gió của xâm lăng từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông và luôn luôn phải trả một giá đắt nhất cho sự sống còn, nền độc lập của chính mình và cho cả các nước láng giềng.  Bởi thế nên, nếu các nước Đông Nam Á muốn giàu mạnh, phú cường, thì Việt Nam phải giàu mạnh trước.

Nhưng các nước Đông Nam Á đang hỏi nhau, những nhà ái quốc Việt Nam đang tự hỏi, hiện nay, sau nửa thế kỷ chiến tranh tàn phá đến xương tủy, cội rễ dân tộc, làm băng hoại non sông, thui chột nòi giống, liệu Việt Nam có mạnh lại được không?

Căn cứ vào dòng sinh mệnh lịch sử, vào sứ mạng cao cả của dân tộc đã trường tồn với Trời Đất năm nghìn năm, chúng tôi tin tưởng tuyệt đối vào sự phục hưng của Đất Nước, Giống Dòng.  Tin tưởng vào Tiền Đồ Tổ Quốc, chúng tôi cũng rất tin tưởng vào sự vùng dậy của vùng địa dư chính trị nói chung của Đông Nam Á Châu, trong viễn tượng mười một nước trong vùng sẽ liên bang hóa các quốc gia để có được chung với nhau khung cảnh mới để cùng nhau chia sẻ suy tư, dự án làm việc, và thực hiện.
 

I . CHƯƠNG MỘT


Chúng ta phải tranh đấu vì lý do chính đáng, chúng ta phải bảo vệ gia đình, làng mạc, đất nước, và nền văn hiến – văn hóa – văn minh của chúng ta.

Đối với những tâm hồn yêu nước chân chính, chúng ta trông thấy thật rõ là mối họa tâm phúc của dân tộc và đất nước chúng ta là cái tử họa Cộng Sản và Tư Bản.

Trong suốt thời kỳ tranh đấu giành độc lập sau thế giới chiến tranh lần thứ hai, từ năm 1945 đến năm 1975, ba mươi năm trời, những người Cộng Sản Việt Nam luôn luôn nghĩ và hành động trên lập trường là Pháp rồi Mỹ – sau 1954 – là những quân xâm lăng phải đánh đuổi ra khỏi đất nước để giành độc lập.  Mục đích của họ là phải chiến thắng bằng mọi giá bất kể những đau khổ chập chồng của dân tộc và tang thương của quốc gia.

Quốc dân chỉ là những dụng cụ cho họ sử dụng dể chiến thắng và nắm vững chính quyền.  Trong khi các thuộc địa cũ của thực dân trên khắp thế giới đều lần hồi giành lại độc lập thì Cộng Sản Việt Nam bưng tai bịt mắt, cắm đầu cắm cổ đi theo con đường binh lửa và khủng bố, để mượn tiếng đuổi Thực Dân giành Độc Lập, nhưng kỳ thật lùa quốc dân vào tròng thống trị độc tài công an của chủ nghĩa giết dân, hại nước Cộng Sản. 

Sau ba mươi năm, từ 1945 đến 1975 – cõng rắn cắn gà nhà, rước voi về giày mồ, sát hại nhân tài yêu nước quốc gia, chôn sống lương dân ngàn ngàn ở Huế năm Mậu Thân 1968 khi thấy bị lòng dân ruồng bỏ, kinh tởm, thà chết cũng không theo, bán đứng và đày đọa năm trăm nghìn đồng bào Bắc Việt sang ngục tù Tây Bá Lợi Á làm nô lệ cho Liên Xô để đánh đổi lấy khí giới sát hại đồng bào Nam Việt, oan khiên thống khổ quốc dân động trời vang đất; rồi tới hai mươi năm kế tiếp – từ 1975 đến 1995 – nhờ sự phản bội của “Đồng Minh” tư bản miền Nam mà cướp được chính quyền, huênh hoang nói là “Chiến Thắng Mùa Xuân” và tự tôn mình lên hàng “Đỉnh Cao Trí Tuệ Loài Người”, các lâu la của “Chí Ngu” đã đưa quốc gia dân tộc xuống bậc thang chót của loài người về dân sinh, đạo đức, văn hóa và kiến thức khoa học kỹ thuật và xã hội.  Quốc sỉ này chưa rửa và nghiệp oan dân tộc chưa giải thì hiện nay trên đà băng hoại của lương tri, những người lãnh đạo các siêu cường văn minh vật chất kỹ thuật cao, tiếp tục con đường kinh tế buôn súng đạn của họ, bỏ cấm vận kinh tế, đổ những đồ phế thải xa xỉ không cần thiết vào đầu độc quốc dân, đi vào con đường tiêu thụ vật chất mù quáng và ký kết ngầm với Cộng Sản đương quyền một Mật Ước Quân Sự mới để phá vỡ Thế Đại Hòa Á Châu giữa một Liên Bang các Quốc Gia Đông Nam Á đang thành hình, một Liên Bang Ngũ Tộc Trung Hoa được Tôn Dật Tiên viễn kiến nhưng chưa thực hiện, và một Liên Bang Ấn Độ tương lai mở một đường xuất huyết mới hiện tại và tương lai cho quốc dân ta, một quốc dân anh hùng hào kiệt, biết sống Nghĩa Cả, Hy Sinh Cá Nhân, Thân Thế, Gia Đình cho Nước Non, cho Non Mẹ Âu Cơ và Nước Cha Lạc Long Anh Quân oai hùng. 

Chúng ta đang chứng kiến những cảnh thảm gì từ mảnh dư đồ còn lại của dòng Bách Việt nghìn đời dưới sự bá trị của đám quân vong bản Cộng Sản Việt Nam?  Đất Nước – Đất và Nước – từng thước vuông đang được bán rẻ cho tư bản ngoại quốc với tất cả những kho tàng thiên nhiên trên và dưới mặt đất, trong và dưới lòng biển để đám cướp ngày của quốc gia trong hàng chức quyền và cán bộ cao cấp vơ vét tiền bạc cho vào túi riêng, dọn đường cho con cái, gia đình chúng đi ra ngoại quốc hưởng thụ, phó mặc quốc dân khốn khổ cho bọn con buôn kếch xù ngoại quốc khai thác tàn nhẫn, vô nhân đạo.

Vì hiệp thương sắp tới của Tư Bản Siêu Cường và Cộng Sản Việt Nam được đặt căn bản trên Liên Minh Quân Sự cho nên hòa bình sẽ không có ở quê hương nhất là khi Cộng Sản tiếp tục coi những người chống lại chủ trương cầm thú phi nhân của chúng là những kẻ thù phải đàn áp, bỏ tù, tra tấn và thủ tiêu.

Cộng Sản Việt Nam ngày nay đối với Siêu Cường Tư Bản chỉ ước mong được ở vào địa vị Việt Nam Cộng Hòa trước kia, tranh giành nhau những đồng đô la Mỹ, chui đầu vào tròng chiến lược kinh tế chiến tranh của Mỹ, sẵn sàng làm lính đánh thuê cho Tư Bản để lịch sử Thực Dân Đế Quốc ba trăm năm trước tái diễn quy mô hơn, xảo quyệt hơn, sâu độc hơn, gấp trăm nghìn lần.

Bầu không khí chính trị hiện đại là một bầu không khí ô nhiễm, dơ bẩn khắp mọi nơi.  Làm sạch bầu không khí là nhiệm vụ  của những nhà làm chính trị chân chính, vì Đại Nghĩa không vì Quyền Lợi Cá Nhân, Phe Phái ở mọi lớp tuổi, nhưng nhất là ở lớp thế hệ trẻ ba mươi, bốn mươi, tuổi đã thành người và thành tài ở khắp mọi quốc gia tiên tiến trên thế giới nhưng vẫn giữ được cái gốc Tâm Linh Văn Hiến của Dân Tộc từ thuở lập quốc đến nay, từ một Gốc Bản Âu Lạc Tiên Rồng tán vạn thù thành Bách Việt Một Trăm Con Một Trăm Họ đến một tương lai gần vào đầu Kỷ Nguyên Thánh Đức Thế Kỷ XXI sắp tới này Vạn Thù Quy Nhất Bản.  Dòng Trăm Họ Việt trên Bách Quốc quy về một mối Hùng Gia Đại Việt Tứ Hải Giai Huynh Đệ.

Tâm hồn Việt trong và ngoài nước đã thực đến lúc phải trở về nguồn cội lấy Thanh Khí của Núi Mẹ Âu Cơ và Nước Bể của Cha Lạc Long Quân tẩy rửa tấm thân cho lòng trong thân sạch, dọn mình mở một chân trời mới, bát ngát mênh mông sáng láng, cho đàn con em bước đến góp mặt với năm châu bốn bể, giành lại chỗ đứng xứng đáng cho quốc gia dân tộc dưới ánh mặt trời, khỏi làm thẹn mặt Tiên Tổ Tiền Nhân, Anh Hùng Liệt Nữ.

Đổi quan niệm Dân Ở Đâu Nước Ở Đó và quê hương gồm hai mảnh dư đồ địa dư văn hóa là nơi Chôn Nhau Cắt Rốn và nơi Quê Cha Đất Tổ, nước Việt Nam ngày nay thật sự đã mở rộng được biên cương tinh thần ra khắp năm châu bốn bể, các nước lớn trong thiên hạ đều có sắc dân dòng Bách Việt sinh trưởng thành tài, góp phần lãnh nhiệm vụ đóng góp với xã hội quốc gia để đền đáp lòng từ ái bao dung trong cơn quốc biến gia vong, mở đầu cho một kỷ nguyên mới trong dòng sử mệnh của giống nòi:  Bách Việt Bách Quốc.

Vấn đề khẩn thiết cho Việt Nam Quốc Nội và Quốc Ngoại ngày nay và mai sau là phải lành mạnh hóa không khí chính trị để cho Tín Nghĩa và Hy Vọng trở lại trong lòng mọi người , giải thể tận gốc rễ tư tưởng và chế độ độc tài công an Cộng Sản, tranh đấu không ngừng cho tự do và tiến bộ, rửa cái nhục rước voi giày mồ từ đời Gia Long đến đời Hồ Chí Minh.  Nhiệm vụ này là nhiệm vụ chung, nhưng trước hết là nhiệm vụ của những nhà khoa bảng và của hết thảy mọi thành phần tinh hoa dân tộc là văn, thi nhân và nghệ sĩ.

Chúng ta khẩn thiết phải đặt lại, trình bày lại trước quốc dân vấn đề chiến tranh, hòa bình trong viễn tượng gần, xa của Đất Nước; phải nghiên cứu tinh vi những ưu, khuyết điểm của dân tộc để tránh những vết xe đổ chia rẽ, phá hoại, tự hủy nhau đã khuyến khích lòng dạ lang sói của ngoại nhân nhảy vào khai thác, phá tán gia phong quốc thể chúng ta.  Đấy là vấn đề Đối Nội.

Về mặt Đối Ngoại, Việt Nam nhất thiết phải có một chính sách, một chiến lược hòa bình Việt Nam thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa sắt máu của Cộng Sản / Tư Bản, của siêu cường.  Vấn đề là làm thế nào ra khỏi vòng vây chiến lược kinh tế chiến tranh của những siêu thế lực, tiền bạc – đô la – và sắt máu đã làm băng hoại sinh lực dân tộc quốc gia.

Điều cay đắng quốc sỉ là từ năm mươi năm nay – từ 1945 đến nay, 1995 – tuổi trẻ sinh mệnh tiềm lực của quốc gia đã không thừa hưởng được một xã hội có căn bản, nền móng trên lương tri, lẽ phải.  Tuổi trẻ quốc gia đã không xây dựng nên xã hội Việt Nam trong đó họ sinh trưởng một xã hội mà những thế hệ đàn anh đi trước đã khai thác, lạm dụng và và đòi hỏi họ nhắm mắt bước theo.  Xã hội, môi trường sinh sống và lớn lên của tuổi trẻ Việt Nam trong nhiều thế hệ liên tiếp là một xã hội đầy dãy bất công, tủi nhục:

Bất Công – vì lòng tham nhũng không đáy của những người giữ trách nhiệm lãnh đạo điều khiển quốc gia trong quá khứ,
Vì chính sách độc tài, mẫu số chung của mọi chính thể đạo đức giả, mị dân, nói (tốt) một đàng, làm (xấu) một  nẻo, lường gạt và thiển cận, ác ý, coi dân như nô lệ, gia nô,
Và bởi vì sự chênh lệch quá quắt giữa mức sống các tầng lớp quốc dân.

Tủi Nhục -  Vì Việt Nam đã bị những người làm chính trị, cách mạng – do tiền oan nghiệp chướng trong dòng sử mệnh – đã lệ thuộc xác hồn vào những chính sách ngoại lai Tư Bản / Cộng Sản đem hận thù , chiến tranh nồi da xáo thịt vào lòng dân tộc đất nước, tự phá hoại gia phong quốc thể khiến cả thiên hạ cười chê, khinh bỉ.

Một luồng ánh sáng tâm linh đang hết sức cần thiết cho giống dòng Việt Thường Trăm Họ để soi đường trở lại Yêu Thương, Đùm Bọc lẫn nhau, tiêu hóa những bài học lịch sử  khốn khổ đã trải qua trên Đất Nước từ thời Trịnh Nguyễn, Nguyễn Nguyễn rồi Quốc Gia Cộng Sản cho đến nay, người ở lại trong nước bị giam cầm trong những nhà tù lớn nhỏ, kẻ ra đi tha phương lạc lõng quê người, trong hay ngoài cùng chung một nỗi niềm tâm sự tủi hỗ khi so sánh Mình với Người.  Mình, “con Rồng, cháu Tiên” đã hóa thành Giun Đất; còn Người mà tự ái tự mãn dân tộc mình đã coi thường, tất cả trong cõi Á Châu, đều đã có thể đứng vững vàng dưới ánh mặt trời!

Điều cần thiết cho tất cả con dân Việt Nam trong hay ngoài nước, để ngõ hầu có một viễn tượng khả dĩ cứu được Nước, vãn được Nòi, là phải sáng suốt, lành mạnh nhìn thẳng vào thân phận chung Làm Người và Làm Dân Việt Nam.

Chúng ta cần thiết nhớ lại tích xưa Mẹ Tiên Cha Rồng và hiểu rõ chương trình điện toán thần linh hàm trong huyền sử để nhận ra Sử Mệnh Của Dòng Giống trong Sử Mệnh trải dài từ thời lập quốc năm thiên niên kỷ nay.

Huyền sử Dòng Việt Tộc bao gồm Trăm Dòng Việt sống rải rác từ phía Nam sông Trường Giang:
                Đông tới biển,
                Tây tới Tứ Xuyên,
                Nam tới vịnh Thái Lan.
Người Việt từ Ngô Việt di cư xuống phương Nam.  Người Mân Việt di cư xuống Giao Châu.  Người Lạc Việt di cư từ Nam Trường Giang tránh lạnh xuống Bắc Việt...là những cuộc di cư của tộc Việt trong lãnh thổ của họ, chớ không phải là tộc khác di cư tới đất Việt.
 
Ranh giới phía Bắc ở Hồ Động Đình.
Vua Đế Linh lập đàn tế cáo Trời Đất rồi chia thiên hạ làm hai.  Từ Ngũ Linh về Bắc cho Đế Nghi làm trưởng tộc, huyết thống Thần Nông, sau thành Lĩnh Bắc Trung Quốc.  Từ Ngũ Lĩnh về Nam truyền cho Vua Kinh Dương sau thành Lĩnh Nam nước Văn Lang.
Sau khi Vua Kinh Dương, Vua Lạc Long kết hôn, đều lên núi Tam Sơn trên hồ Động Đình hưởng thanh phúc ba năm.  Lúc hai Ngài lên núi có chín vạn hoa tầm xuân nở.
Sau khi Quốc Tổ Lạc Long, Quốc Mẫu Âu Cơ cho         các hoàng tử đi bốn phương quy dân lập ấp, dặn rằng:  “Mỗi năm về Tương Đài trên cánh đồng Tương chầu Quốc Tổ, Quốc Mẫu một lần.”.
Quốc Tổ dẫn năm mươi “con” xuống bể Đông (Thái Bình Dương sau này), Quốc Mẫu dẫn năm mươi “con” lên núi trên đất liền (lục địa Trung Hoa bây giờ), hẹn mỗi năm gặp nhau một lần ở cánh đồng Tương.

Sự khác biệt giữa biên cương Hán và Việt là ở chỗ này:  dòng Hán nói “Núi Sông – Sơn Hà”, dòng Việt nói “Non Nước”.  Nước nay là bể cả, không phải sông ngòi.  Dòng Việt một nửa sống ở đất liền, - một nửa “thiên hạ Trung Quốc” – một nửa đi mở nước vào những quần đảo Bể Đông / Thái Bình Dương  và ngay cả lục địa châu Mỹ Nam Bắc trở thành những bộ lạc “Da Đỏ” (?) (Dân “Mayan” ở Mễ Tây Cơ  có một bộ “Viêm Dịch” 64 quẻ với hình vẽ rất “Trống Đồng”).

Là “Người”, chúng ta có được tự do không, có tìm thấy phúc hạnh không?  Trong khi chúng ta tranh đấu cho Tự Do, Hạnh Phúc và trong khi các Chính Phủ nhất là Chính Phủ Cộng Sản đều đồng thanh đòi hỏi chúng ta chiến đấu cho Tự Do, Hạnh Phúc.

Là “Quốc Gia”, chúng ta có thực sự được tự do và có chủ quyền không?  Trong khi các Chính Phủ nhất là Chính Phủ Cộng Sản, nhan nhản đòi chúng ta phải tranh đấu cho nền độc lập và chủ quyền quốc gia.

Sự thật phũ phàng, - nhất là từ 1975, sau khi “Đồng Minh” Mỹ muối mặt, vô liêm sỉ, phản bội và bỏ rơi dân chúng miền Nam cho độc tài Cộng Sản miền Bắc – là người dân Việt Nam, không có tự do và bị đày ải vào một nhà tù vĩ đại trong / ngoài nhà tù cải tạo, bị truất hết mọi quyền làm người và Quốc Gia Việt Nam không độc lập và mất chủ quyền ở Bể Đông vào tay Tàu Cộng, Đài Loan, Phi Luật Tân, Nam Dương ở Hoàng Sa, Trường Sa, sau khi đánh Pháp đuổi Mỹ, bây giờ lại đi vái tứ phương và mong mỏi Pháp và nhất là Mỹ trở lại, cam phận làm một thứ nô lệ mới cho chiến lược hành tinh Vạn Thù Nhất Bản – “Globalism” – của Siêu Tư Bản.

Hai mươi năm sau ngày Việt Nam Cộng Hòa bị bán đứng, thất thủ trước Cộng Sản, trước viễn tượng đen tối khủng khiếp Một Thế Chiến Thứ III do chính sách Kinh Tế Chiến Tranh của Siêu Cường để thu thiên hạ về một mối Siêu Tư Bản, bây giờ chính là lúc mọi tiềm năng trí lự của dân tộc phải được vận dụng để Khơi Dòng Sử Mệnh Quốc Gia mở đường vào tương lai cho thế hệ đương lên tránh những vết xe đổ cũ và tìm hiểu sứ mệnh Trời Đất đã dành cho sắc dân Việt Thường Trăm Họ / Bách Việt.

Thảm họa của những người Quốc Gia Việt Nam từ 1945 đến nay 1995, đã liên tiếp thua bốn trận định mệnh trong vòng một nửa thế kỷ:

1, Trận thứ nhất, chống lại những người Cộng Sản, vì thiếu kinh nghiệm về bản chất quốc tế, phi dân tộc, tàn ác, sắt máu của họ, thiếu đoàn kết, thiếu kinh nghiệm đấu tranh.

2,  Trận thứ hai, chống lại người Pháp, đã không coi những người Quốc Gia Việt Nam là những đồng minh chiến lược chống Cộng Sản, chỉ muốn lợi dụng để trở lại Việt Nam và Đông Dương dưới hình thức một thứ thực dân mới trá hình khiến miền Nam Việt Nam thất thế trước Cộng Sản sau Hiệp Định Genève ký năm 1954 .

3,  Trận thứ ba, giữa những năm 1960 – 1973, chống lại những người Mỹ, cũng một thứ thực dân mới không khác người Pháp những năm 50 bao nhiêu, nhưng thế lực hơn nhiều – gấp nghìn lần – nhất định vào Việt Nam miền Nam cho bằng được – cho Đại Sứ Mỹ và những tướng tá tôi đòi Việt Nam sát hại anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Tổng Thống dân cử đầu tiên trong lịch sử Việt Nam – để sử dụng chiến trường Việt Nam làm nơi thí nghiệm chiến thuật biển lửa và chiến lược kinh tế chiến tranh, và để mở tung cửa Trung Hoa Lục Địa dễ bề thao túng,  tiêu diệt Cộng sản ở vùng “thiên hạ” bao la ấy với dân số khủng khiếp có tiềm năng nguyên tử phải triệt hạ để giữ phần thống trị toàn thế giới và khai thác tài nguyên của trái đất sau này, vào thế kỷ 21 – “GLOBALISM”.

4,  Trận chiến thứ tư, đơn thương độc mã chống lại Cộng Sản Bắc Phương Hoa Việt, được Liên Xô tận tình viện trợ từ 1973 đến 30 tháng 4 năm 1975, bị Mỹ và các “Đồng Minh” khác, lặt vặt, bỏ rơi, vì đã đánh cờ một cửa, tin tưởng mù quáng vào sự yễm trợ vĩnh viễn của Mỹ – “Mỹ không thể nào bỏ ta được!” – và không tạo cho mình một điểm tựa chiến lược địa dư chính trị Đông Nam Á Châu được đề nghị với các chính phủ quốc gia Đông Nam Á ngày mồng 5 tháng 5, 1969 bởi Phong Trào Liên Bang Các Quốc Gia Đông Nam Á tại Sài Gòn – một năm sau Tết Mậu Thân, khi toàn dân chứng kiến và thế giới im miệng trước sự án binh bất động của lực lượng viễn chinh Mỹ trong tám ngày ở bốn vùng chiến thuật, và tự tiếp tay với Cọng Sản Xâm Lăng  khi Mỹ “bắn lầm” mũi dùi anh dũng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ở Chợ Lớn, để mặc cho đoàn quân “bàn giấy” của Việt Nam Cộng Hòa tay đôi chiến đấu anh dũng oai hùng và toàn thắng đoàn quân “Con Nít” giặc Cộng.

(Nói đoàn quân “bàn giấy” Việt Nam Cộng Hòa vì Tết Mậu Thân, 1968, Tổng Trưởng Quốc Phòng Trung Tướng Nguyễn Văn Vỹ và Tổng Tham Mưu Trưởng Đại Tướng Cao Văn Viên được tin tình báo Mỹ đoan chắc là Cộng Sản sẽ không tấn công, khuyên cho quân sĩ xả trại 50%, và cho dân chúng đốt pháo Giao Thừa đón Xuân cho thật tưng bừng!   Đoàn quân “con nít” giặc Cộng vì toàn thanh niên còn quá trẻ, đáng tuổi em út, con cháu của quân sĩ Việt Nam Cộng Hòa!).

Việt Nam Cộng Hòa đã chiến thắng trận Mậu Thân (do âm mưu Mỹ – Cộng Sản) nhưng đã thua chiến tranh tâm lý cùng với Mỹ ở Hoa Thịnh Đốn và ở tất cả mọi thủ đô chính trị thế giới, đưa dẫn đến hội nghị áp đặt do Mỹ – Pháp đồng lõa tổ chức ở Paris cho phép Mỹ rút lui danh dự (!?) khỏi chiến trường Việt Nam, sau khi đã hoàn tất được mục tiêu hai vế của họ.

Thử khí giới tối tân để sử dụng trong tương lai một cách vô tội vạ, và mở thị trường tiêu thụ những sản phẩm và khí giới cũ thừa thãi ở Trung Cộng, cho guồng máy kinh tế chiến tranh của họ chạy mạnh, chạy đều, hướng về “chiến tranh Tinh Tú”, Star War – cho phép họ giữ thế thượng phong thâu gọn trái đất về một mối làm chủ nhân ông duy nhất của mọi tài nguyên trên mắt đất, dưới lòng bể, nắm trọn quyền sinh sát từng quốc gia, từng lục địa trong chiến lược Toàn Cầu / Globalism được chính thức phát động ở Thiên An Môn bởi hai nhà chiến lược Tây Phương George Bush và Michael Gorbachev vài ngày trước biến động “đẫm máu” ở đó, cô lập đoàn lãnh đạo Trung Hoa với thế giới.

Người Mỹ đã thất trận lần đầu tiên trong lịch sử ngắn ngủi nhưng dũng mãnh của họ ở Việt Nam, những người Việt Nam Quốc Gia đã hoàn toàn thất bại sau nửa thế kỷ chiến đấu chống lại chủ nghĩa Cộng Sản để giữ gìn quốc thể gia phong, bảo vệ truyền thống văn hóa đạo đức của dân tộc, không phải như ông McNamara, cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng dưới chính quyền Lyndon B. Johnson, và là kiến trúc sư chiến tranh của Mỹ thời đó, viết trong cuốn hồi ký đầm đìa nước mắt ân hận sau 27 năm im hơi lặng tiếng nghiền ngẫm về việc làm của mình khiến cho hơn năm chục ngàn thanh niên Mỹ và hàng triệu quân dân Nam Việt Nam tử trận, thương vong, rằng “Chúng ta (người Mỹ) đã sai lầm, sai lầm một cách khủng khiếp – We were wrong, terribly wrong!” về phương diện chiến tranh quân sự, nhưng thực ra vì đã không có đạo đức chính trị khi vị Tổng Thống Mỹ đã cho phép viên Đại Sứ đại diện cho mình và quốc gia Hoa kỳ ám sát công khai vị Tổng Thống dân cử của Đồng Minh vì không Đồng Quan Niệm Chiến Lược khiến miền Nam Việt Nam đã mất chính nghĩa quốc gia trước đối phương miền Bắc, Liên Minh Trung Cộng Việt Cộng được Liên Xô tận tình hỗ trợ về tinh thần lẫn tiếp viện.

Lịch sử  chiến tranh Việt Nam giữa một bên Việt Nam Cộng Sản / Trung Cộng / Liên Xô và một bên Việt Nam Quốc Gia / Hoa Kỳ còn rất nhiều ẩn số về phía Hoa Kỳ. Các sử gia Hoa Kỳ hiện có trong tay hồi ký của cựu Tổng thống Richard N. Nixon và của cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara, nhưng không có được  hồi ký của Tổng Thống John F.  Kennedy và của Đại Sứ của ông là Henri Cabot Lodge.

Nhưng dù sao đi nữa, bây giờ nghĩ lại thì không chấp nhận chủ nghĩa và chế độ Cộng Sản cho quốc gia dân tộc để làm đồng minh vô điều kiện của Hoa Kỳ, hay không chấp nhận sự can thiệp vào nội bộ quốc gia của Mỹ để mà trở thành người vô sản cộng sản trên không chằng dưới không rễ, chối bỏ Trời Đất, Tổ Tiên, Dòng Giống, thì đấy không phải là một Chọn Lựa của con người Tự Do.

Xã hội Việt Nam được làm nên qua năm nghìn năm dũng cảm, kiên trì, nhân nghĩa, là một niềm hãnh diện của quốc gia, dân tộc...Bị đô hộ hàng nghìn năm, hàng trăm năm, mỗi lần quốc dân lại đanh đuổi được quân xâm lăng hung tàn, tinh thần mỗi lần thêm phong phú oanh liệt.  Sự trường tồn của dòng Bách Việt thực kỳ ảo vô song và gia đình Việt Nam là một  gia đình gương mẫu thiện mỹ, giữ gìn được Lễ Đạo văn hiến.  Xã hội, gia đình đạo đức đó là chính nghĩa để chúng ta bảo vệ, là lý tưởng để chúng ta đanh đuồi Cộng Sản Vô Thần, Vô Gia Đình, Vô Tổ Quốc, và phải tự cho mình nhiệm vụ thiêng liêng đem lại tự do, hy vọng sống đầy đủ nhân cách, tự trọng tự lập cho các thế hệ con em tiếp nối.

Trong cuộc chiến tranh kéo dài nửa thế kỷ giữa Cộng Sản và Tư Bản – hai sản phẩm ngoại lai – trên đất nước chúng ta, những người quốc gia yêu nước chân chính đã bị cả Tư Bản lẫn Cộng Sản sát hại tàn nhẫn, khiến cho họ thất bại trong việc giành độc lập, chủ quyền trong tay người Pháp rồi người Mỹ, mất đi chính nghĩa đấu tranh.  Người Pháp rồi người Mỹ chỉ là những đồng minh giả dối, tâm địa lưu manh, ác độc, lòng lang dạ thú đội lốt người đã khiến những người quốc gia không  có cơ hội xây doing Quốc Gia cho con dân hãnh diện và mở mặt với thiên hạ.

Bài học người Pháp đã phá vỡ thế đứng của Quốc Gia Việt Nam giữa những năm 1945 và 1954, gián tiếp làm gia tăng sức mạnh tinh thần của hàng ngũ Cộng Sản và bài học người Mỹ ngốc nghếch đi vào bước xe đỗ của người Pháp khiến cho toàn dân Việt Nam và thế giới chống lại họ đưa họ đến danh bại thân liệt trong hai năm từ 1973 đến 1975, kéo theo sự sụp đổ hoàn toàn của miền Nam Việt Nam, phải được nhớ đời trên Dòng Sử Mệnh Việt Nam.

Những người Mỹ chủ trương đánh Cộng Sản Việt Nam thay cho người quốc gia Việt Nam khi phá hủy những căn bản kiến trúc chính trị của miền Nam trước lương tâm công chính thiên hạ, sự thực, xứng đáng với tội danh là Phạm Nhân Chiến Tranh .  Còn những người Cộng Sản nhờ sự yếu hèn tinh thần của người Mỹ đã phản bội đồng minh Nam Việt Nam mà thắng trận, nếu họ còn là những con người có lương tri dân tộc, thì sau khi thống nhất được quốc gia, họ phải có một chính sách bảo vệ sinh mạng quốc dân và tài sản quốc gia, trở lại nguồn cội văn hiến đạo đức của dân tộc, tạo cho đất nước một thế đứng vững vàng vinh quang ở Đông Nam Á, liên kết chặt chẽ với các nước lân bang trong vùng địa dư chính trị chiến lược ấy để được độc lập với Liên Xô và Trung Cộng.  Nhưng tiếc thay, vì quá ngu si dốt nát, họ đã tự nguyện đóng vai trò những người lãnh đạo nền Đệ Nhị Cộng Hòa miền Nam, đưa cổ mình cho cái tròng Tư Bản Mỹ thắt chặt.  Ván, lần này nữa, sắp đóng thuyền, dịch chủ tái nô, không những người lãnh đạo Cộng Sản có biết hiểm họa họ đang lái con thuyền Việt Nam vào không?

Hiểm họa đó, có cơ tiêu diệt 70 triệu dân Việt nam quốc nội, là một cuộc Thế Chiến Thứ Ba do Mỹ – Nga chủ trương nhằm triệt hạ Trung Cộng vì “Trung Cộng là một hiểm họa cho Đông Nam Á Châu, và cho thế giới”, theo sự “phân tích” thời sự của các chính trị gia và cơ quan truyền thông thế giới!

Hiểm họa đó, các nhà lãnh đạo Trung Hoa ý thức được rất rõ ràng.  Họ biết rằng trước sau gì họ cũng bị Nga Mỹ chiếu tướng tiêu diệt và tiêu diệt bằng đệ tam nhân trung gian, là Cộng Sản Việt Nam.

Đặng Tiểu Bình đã chuẩn bị nghênh chiến.  Năm 1979, y đã xuất quân thử sức với Cộng Sản Việt Nam ở biên giới Hoa Việt và đã thua, mất sáu tỉ Mỹ Kim và đoàn quân viễn chinh Trung Hoa hùng hổ ra đi để cho quân “lừa thầy phản bạn Việt Nam một bài học đích đáng” đã thân bại danh liệt rút về Tàu.  Và từ nay lãnh tụ họ Đặng dồn công sức vào mở mang kinh tế, kiếm thật nhiều tiền để dồn vào quỹ quốc phòng, mua tất cả những khí giới  có thể mua được của Tây Phương, của Mỹ, của Nga, để sửa soạn cho cuộc thư hùng phải tới giữa Trung Hoa Cộng sản và Việt Nam Cộng Sản, đại diện cho Nga – Mỹ, với chủ trương thực hiện một chủ thuyết Toàn Cầu Mới / Globalism và The New World Order, phá cái thế Liên Hiệp Á Châu giữa
Liên Bang các Quốc Gia Đông Nam Á,
Liên Bang Trung Hoa (theo thuyết Liên Bang Ngũ Tộc Tôn Dật Tiên), và
Liên Bang Ấn Độ / Pakistan trong thế chiến lược Đại Hòa Á Châu do triết gia chính trị Trần Minh Tiết khởi xướng, vận động lúc sinh tiền với nhiều hưởng ứng ở các quốc gia Đông Nam Á, Trung Hoa Lục Địa, Đài Loan, Ấn Độ.

Đã từ lâu và nhất là bây giờ, Trung Hoa Lục Địa và Đài Loan đã chung một chiến  tuyến với viễn tượng Đài Loan là một Tiểu Bang trong Liên Bang Ngũ Tộc Trung Hoa đã được phác họa trong chính sách Tân Dân của Tôn Dật Tiên mà cả hai phe Quốc Cộng Trung Hoa nhận là Quốc Phụ chung.  Các quốc gia Đông Nam Á đang xáp lại gần trong một thế chiến lược liên tập liên bang hóa để trở thành một thực thể địa dư chính trị lớn mạnh ở Viễn Đông tạo thế chân vạc Á Châu với Ấn Độ và Trung Hoa tạo dựn Đại Hòa Á Châu, xây doing Hòa Bình Phúc Hạnh cho các thế hệ mai sau vào Thiên Niên Kỷ sắp tới.  Tất cả đang cố gắng thực hiện sách lược mà triết gia hòa bình Trần -Minh Tiết đã để trọn một  đời suy tư và đúc kết trong toàn bộ công trình tư duy ông cống hiến cho Tổ Quốc Việt Nam, Á Châu và Nhân Loại, nhất là trong bốn cuốn:

Á Châu Và Nền Hòa Bình Thế Giới (L’ Asie Et La Paix Mondiale)
Thay Bản Vị Vàng (La Relève De L’ Or)
Nhân Bản Xã Hội Dân Tộc (Le Social Humanisme Des Peuples)
Cuộc Chiến Đương Nhiên Nga Tàu (La Guerre Russo – Chinoise Inévitable)

Những người Á Châu đang chung sức góp phần tạo dựng một nền hòa bình lâu dài cho tương lai các dân tộc Á Châu, theo một chiều hướng minh triết Đời – Đạo Song Tu được hoạch định bởi một tư tưởng gia lỗi lạc Việt Nam, được nghiên cứu áp dụng bởi các nhà lãnh đạo Viễn Đông và Á Châu, trừ những người đồng bang của ông đang nắm chính quyền quốc gia và vận mạng dân tộc, thực là oan nghiệt!

Năm 1972, một Ủy Ban Quốc Gia Việt Nam Vận Động Tranh Giải Nobel Hòa Bình đã được thành lập ở Sài Gòn và đã đề bạt Chiến Lược Gia Hòa Bình Trần - Minh Tiết, với toàn bộ công trình tư tưởng của ông.  Mười hai thành viên của Ủy Ban Nobel Hòa Bình Thụy Điển ở Stockholm mỗi người nhận được một pho sách Trần - Minh Tiết để đọc và thẩm xét.  Sự kinh ngạc và khâm phục của họ thực sự sâu xa, dư thừa, nhưng họ đã thiếu dũng cảm để công khai công nhận giá trị siêu việt của tư tưởng Trần - Minh Tiết: họ đã giữ giải Hòa Bình năm đó lại để năm sau, năm 1973, trao nó cho hai tên đao phủ Việt Nam Cộng Hòa là Henry Kissinger và Lê Đức Thọ,  dọn  đường cho Hoa Kỳ công khai phản bội bỏ rơi quân dân anh hùng Nam Việt Nam năm 1975, bức tử một chế độ cũng như đã công khai ám sát vị Tổng Thống dân cử đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mười hai năm trước, năm 1963.
 
CHƯƠNG HAI

Chúng ta tranh đấu, chiến đấu hy vọng và mục đích thực hiện một xã hội công bình trong đó tất cả con cháu chúng ta đều có được những cơ hội, may mắn như nhau, tìm phúc hạnh và chân thiện mỹ.

Suy tư về con cháu, về tương lai dân tộc, về xã hội trong Dòng Việt Thường Hồng Lạc sinh sống tiến hóa tự nhiên khiến chúng ta phải suy nghĩ về xã hội hiện tại.

Xã hội hiện tại Việt Nam vẫn là một  xã hội bị kiềm thúc bởi bộ máy chính quyền công an độc tài Cộng Sản, xã hội ấy vẫn còn là hậu quả của một quá khứ sai lầm chồng chất, vô lương tâm, vô tình nghĩa, một xã hội áp đặt lên dân tộc bởi một phường ăn cướp nhờ thế lực Cộng Sản quốc tế và nhờ chủ nghĩa thờ tiền của Con Buôn Tư Bản cũng quốc tế.  Xã hội hiện tại Việt Nam phải thay đổi vì tương lai dân tộc, vì tiền đồ tổ quốc.  Muốn hiểu những oan nghiệt đưa dẫn đến sự thắng thế của Cộng Sản trên Quê Hương Việt Nam, chúng ta bắt buộc phải tìm học lại những bài học quá khứ, ôn cố tri tân.

Nhìn lại quá khứ từ khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt, Việt Nam và hầu hết các nước Đông Nam Á Châu đã sống nhờ vào viện trợ của ngoại bang.  Bản chất của viện trợ ngoai bang ấy là gì?  Họ viện trợ thế nào?  Viện trợ những gì?

Một số ngoại bang là những cường quốc đã qua khỏi kỷ nguyên kỹ nghệ và đã bước vào một thế giới mới hậu-kỹ-nghệ, hậu-tân-tiến, hậu-lịch-sử, thế giới kỹ thuật điện tử.  Những cường quốc ấy, dưới những trạng thái xã hội chính trị đa dạng, đã chia phe:  một bên là Hoa Kỳ, đứng đầu Thế Giới Tự Do, và một bên là Liên Bang Xô Viết do Moscow lãnh đạo.  Cả hai phe đã làm một cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ Kỹ Thuật có tính cách phổ quát không tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại.

Sức sản xuất của họ về mọi phương diện vượt qua tất cả mọi giới hạn, và hai phe Tự Do, Cộng Sản đều muốn tranh giành ngôi bá chủ về kinh tế và kỹ nghệ, và mẫu số chung của họ là không ngừng sản xuất khí giới chiến tranh càng ngày càng ác liệt, khích động các dân tộc được họ đồng ý với nhau trả lại nền độc lập chính trị gây chiến chống đối lẫn nhau, để họ không thể phát triển về hai mặt xã hội và kinh tế.

Cuộc cách mạng của hai phe Tự Do và Cộng Sản rút cuộc chỉ là một cuộc cách mạng kinh tế , với bản chất kinh tế chiến tranh, nặng về số lượng tiêu thụ và không đếm xỉa gì đến phẩm giá nhân sinh, phẩm giá con người.  Bất công xã hội, tham vọng tiêu thụ, tham vọng quyền hành ở khắp mọi nơi trên thế giới, nhất là trong thế giới đệ tam.

Thế giới đệ tam trở thành  một thị trường tiêu thụ những sản phẩm thừa thải của nền văn minh vật chất, máy móc, kỹ nghệ siêu cường có chư hầu là những nước tiên tiến “văn minh”, và nhất là tiêu thụ khí giới chiến tranh càng ngày càng tinh vi, để giết nhau vì tham vọng quyền hành, tham vọng tiền bạc, càng ngày càng khủng khiếp.

Siêu cường và chư hầu kỹ nghệ của họ bán cho các nước “đang mở mang” thuộc thế giới đệ tam những sản phẩm dư thừa của họ với giá cả do họ quyết định theo những tiêu chuẩn an ninh dành cho họ, và điều kiện tiên quyết để mua hàng, và trước tiên phải mua khí giới.  Nói cách khác muốn có đồ dùng, hàng hóa, điều kiện tiên quyết là phải mua súng ống giết người:  không mua khí giới, không mua được hàng.

Điều kiện phải mua khí giới trước mua hàng sau là một điều kiện rất hấp dẫn đối với các nhà cầm quyền thế giới đệ tam muốn cho chính quyền của mình có sức mạnh để đề phòng chiến tranh, bảo vệ lãnh thổ, nhưng trong bề sâu tâm lý là để có phương tiện giữ vững chính quyền, cố vị và đàn áp đối thủ chính trị và dân chúng.

Bản chất chính trị của kinh tế siêu cường là kinh tế áp đặt, áp đặt súng đạn, áp đặt tiêu thụ.

Căn bản của kinh tế là lao động, mà đối tượng của lao động là lợi tức, là tiền bạc kiếm được.  Muốn kiếm được tiền thì hàng hóa phải bán được, phải có người tiêu thụ, tiêu thụ khí giới trước, tiêu thụ hàng hóa sau.

Các nước đệ tam trong vùng Đông Nam Á và Việt Nam đã rơi vào cái bẫy kinh tế chiến tranh và tiêu thụ đó, càng ngày càng lún sâu, và rút cuộc phải nhập phe, chiến đấu cho những ý tưởng, chủ thuyết nhập cảng cùng với súng đạn và những sản phẩm thừa thải của người ngoài, của những con buôn Lã Bất Vi kim thời.

Dưới quyền lãnh đạo thực-giỏi-thực-ác của Hồ Chí Minh và đệ tử Cộng Sản, dân Việt Nam được tẩy não nhồi sọ rằng không có chủ nghĩa Cộng Sản quốc gia Việt Nam sẽ không bao giờ được độc lập.  Những người quân nhân lãnh đạo miền Nam Việt Nam, sau khi giết Tổng Thống dân cử Ngô Đình Diệm và em của ông là Cố Vấn Chính Trị Ngô Đình Nhu tuyệt đối trông cậy vào viện trơ Mỹ, tuyệt đối tin tưởng rằng không có Mỹ thì không thể nào chống Cộng Sản được.

Chống Mỹ phải theo Cộng Sản, chống Cộng Sản phải theo Mỹ, chứng tỏ một thái độ và một lối suy tư hoàn toàn ấu trĩ, thiếu hiểu biết, thiếu thông minh, đã khiến cho miền Nam phải bó gối quy hàng Cộng Sản khi bị Mỹ bỏ rơi, phản bội năm 1975.  Và bây giờ, sau khi ngáp được ruồi chiếm được miền Nam một cách không ngờ, Công Sản miền Bắc không biết làm gì hơn là đi ăn mày viện trợ Mỹ, chỉ mong được ở vào địa vị Việt Nam Cộng Hòa trước kia, làm “đồng minh” quân sự với Mỹ, sẵn sàng làm tay sai chiến lược của Tư Bản để phá địa dư chính trị Đông Nam Á và thế Đại Hòa Á Châu do chính những nhà tư tưởng chính trị Việt Nam khởi xướng chính thức ngày mồng 5 tháng 5 năm 1969 tại Sài Gòn qua bức thư lịch sử Phong Trào Liên Bang Các Quốc Gia Đông Nam Á gửi các Quốc Trưởng và Thủ Tướng Chính Phủ Đông Nam Á, trong đó có Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu và Chủ Tịch Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Công Hòa Tôn Đức Thắng.

Làm chính trị dựa vào thế lực ngoại bang để nắm chính quyền làm nhục nước non, đày ải dân chúng thì quá dễ, và đi vào những vết xe đỗ của Lê Chiêu Thống và Gia Long, rước voi giày mồ, từ bỏ nhiệm vụ thiêng liêng đối với quốc gia dân tộc, không mở trí sáng tạo, trau giồi đức tính, giúp cho dân mạnh nước giàu, có chỗ đứng vinh dự dưới ánh mặt trời, mở mặt với hoàn vũ, thiên hạ.

Nga, Mỹ và các cường quốc Âu Châu cũng chung với nhau một chiến tuyến, trên thực tế là sản xuất nhiều nhất là vũ khí chiến tranh để lấy that nhiều tiền cho những người cầm đầu các chính phủ thuộc thế giới đệ tam, nuôi dưỡng chiến tranh không ngừng gây xáo trộn xã hội, chặn đứng bước đường tiến hóa, làm cho các nước đã nghèo càng nghèo thêm, đã dốt lại dốt thêm và càng ngày dân càng lệ thuộc Tư Bản hay Cộng Sản, mất hết phẩm cách làm người, khả năng sáng tạo suy tư càng ngày càng lẩn quẫn, ngu xuẩn.

Vấn đề khẩn trọng ngày nay là phải phá vỡ cho bằng được cái vòng thắt cổ ác độc đó của nền Kinh Tế Chiến Tranh, sát hại nhân sinh, thâu tóm tài nguyên thế giới vào trọn tay, tham lam đẫm máu của Tư Bản – Tư Bản Cá Nhân / Mỹ, hay Tư Bản Tập Thể / Độc Tài, Cộng Sản - .  Việc khó như lấp bể, nhưng là việc phải làm, và phải làm cho bằng được.

Sau năm 1963, chấm dứt Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam bằng vụ thảm sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm, và bào đệ ông, các chính quyền quân nhân kế tiếp đã mừng rỡ đón nhận sự tham chiến ồ ạt của quân đội Mỹ như một yếu tố tất thắng Cộng Sản và rất lo sợ thấy Tổng Thống Mỹ Nixon chủ trương Việt Nam Hóa chiến tranh.  Phong Trào Liên Bang Các Nước Đông Nam Á đã nắm lấy đề nghị này và đi thêm một bước chiến lược xa hơn nữa khẳng định rằng:  Việt Nam Hóa Chiến Tranh chính là trả lại chính nghĩa cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa để chiến thắng, nhưng dù có chiến thắng được Cộng Sản chăng nữa thì chiến thắng cũng không thể đem lại hòa bình lâu dài cho Quê Hương Đất Nước.  Các nhà ái quốc chính trị gia dân tộc, những người quốc gia chống Cộng Sản nhất thiết phải đồng tâm hiệp lực Hoạch Định Một Chiến Lược Phát Triển, Nghiên Cứu Vấn Nạn Quốc Gia Dân Tộc Thật Kỹ Lưỡng Sâu Xa ngõ hầu phá đổ tất cả mọi thế lực chướng ngại, phá hoại bước tiến hóa của dân tộc ta; khai triển một chính sách tạo dựng một nền Nhân Bản Xã Hội Dân Tộc toàn diện, đặc thù của Dòng Việt Thường Minh Triết, của Vùng Địa Dư Chính Trị Chiến Lược Đông Nam Á, và của Thời Đại.
 
Nếu không vận động và làm được như thế thì trước sau gì quốc gia Việt Nam, cũng như các quốc gia Đông Nam Á khác cũng rơi vào những vết xe đổ, trong một vòng lẩn quẩn không lối thoát, lệ thuộc ngoại bang bây giờ đã trở thành siêu cường, siêu thực dân, chế tạo những đồ dùng xa xỉ, đa số không cần thiết, và nhất là khí giới chiến tranh cho các dân tộc thuộc khối đệ tam tiêu thụ, tự hủy, để họ làm giàu trên xương máu, trên đau thương của hồn xác chúng ta.

Hòa Bình là cứu cánh cho cuộc vận động tâm thức và lịch sử của chúng ta.  Nền móng của hòa bình ở trong nội tâm mọi người, đặt trên Tình Người Yêu Thương Và Tha Thứ.

Xây dựng trong tâm, hiện thực ra ngoài, hòa bình là đem yêu thương, tình người vào cuộc sống chung, vào xã hội.  Xã hội phải được đổi mới, kinh tế phải được phát triển – theo chiều hướng hòa bình – để thăng hoa đời sống, tiến hóa tâm linh thực hiện công lý cho tất cả mọi người đồng đều.

Hòa bình là một vấn đề tâm thức, không thể chỉ là một trạng thái hoãn binh dối trá trong một mưu toan gây chiến độc hại hơn trong tương lai do nền kinh tế chiến tranh của siêu cường thực dân mới áp đặt.

Sống làm người bổn phận là phải sống có nhân cách, nhân phẩm.  Bổn phận của những người lãnh đạo quốc gia là bảo vệ nhân phẩm cho dân tộc, và phải bảo đảm sự tham gia của toàn dân vào đại sự quốc gia.

Nhân phẩm dân tộc được thể hiện qua đường lối suy tư chính nghĩa đặt căn bản trên quốc hồn quốc túy, văn hiến truyền thống nghìn đời.  Nhân phẩm dân tộc không cho phép chấp nhận luật lệ do ngoại bang áp chế bất cứ từ phương nào, và hướng dẫn nhân dân trên đường sáng tạo lịch sử  không ngừng để tiến hóa.  Tư Bản, Cộng Sản, bay giờ hòa hợp với nhau trong chủ trương “Toàn Cầu / Trật Tự Mới” sẽ còn thắng thế một thời gian nữa trong những vùng địa dư chính trị chúng lựa chọn, nhưng trên thực tế chúng đang trên đường bại trận và bắt đầu tháo chạy vì biết sẽ không ngăn cản được trào lưu đang lên của Viễn Đông.  Đông Nam Á, và Ấn Độ đang hướng dẫn thế giới đệ tam, giải phóng thật sự Á Châu, rồi từ Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ.

Đổi mới là một đại lộ tất nhiên cho Việt Nam, Đông Nam Á, Trung Hoa, Ấn Độ (và toàn thể Á Châu sau này khi ở Tây Nam Á những người Ả Rập và Do Thái, cùng huyết thống, biết nhìn nhận nhau là anh em một nhà), chỉ có một điều kiện duy nhất là dân tộc ta và những nhà cầm quyền lãnh đạo đất nước dũng cảm nhận sự thách đố của lịch sử , của định mệnh, cùng sự thao túng của những con buôn chính trị đang cầm vận mệnh siêu cường.

Việt Nam phải tồn tại trong phẩm cách, và chỉ có thể tồn tại với hai điều kiện:

1, Điều kiện thứ nhất là Việt Nam phải tự tách rời ra khỏi con đường vong gia hoại quốc Cộng Sản, chấm dứt phiêu lưu vào những chiến tranh mới do siêu cường đang đồng lõa chủ mưu, và tự nguyện dấn thân vào công cuộc tìm kiếm xây dựng lâu dài, đáp ứng nguyện vọng sâu xa của dân tộc đã quá khổ vì chiến tranh nhiều đời trong quá khứ, và

2, Điều kiện thứ hai là phải hội nhập trọn vẹn vào vùng phát triển canh tân, chung ý tưởng, chung phúc lợi với các nước láng giềng Đông Nam Á để cùng nhau kiến tạo một chính sách xã hội khả dĩ đáp ứng được nguyện vọng nhân dân, mở mặt với thiên hạ và có thể đứng vững vàng trên hoàn vũ.

Cộng Sản đã chiến thắng Tư Bản ở Việt Nam do những trớ trêu bất ngờ của lịch sử,  chính quyền Cộng Sản đã thống nhất Đất Nước được hai mươi năm nay, nhưng đã thảm bại về hòa bình, đã không thực hiện được đoàn kết dân tộc, công bằng xã hội, tạo thế đứng khả kính trong cộng đồng nhân loại, - nhất là trong vùng Đông Nam Á và Viễn Đông -, vì những người lãnh đạo lòng dạ sài lang ác độc, chỉ biết hận thù, thực thi những chính sách nhỏ mọn của kẻ tiểu nhân không tim không óc, xảo quyệt và hèn hạ.  Đánh nhau thì quá dễ, nhất là đanh nhau bằng những súng đạn do ngoại bang chi viện để làm cho guồng máy kinh tế chiến tranh của họ chạy mạnh, tự giết nhau để cho thiên hạ sống giàu sang, phú cường trên xương máu đồng bào.  Hai mươi năm thống nhất Đất Nước là hai mươi năm Cộng Sản hủy hoại tiềm lực và sinh mệnh quốc gia, đọa đày dân tộc xuống hàng nghèo đói dốt nát hạng nhất trên thế giới, hai mươi năm diệt hủy quốc thể, phá hoại quốc phong khiến cho cả thế giới khinh main chê cười, biết rõ Hồ Chí Minh trước sau chỉ là một tên cán bộ cao cấp của Liên Xô, và Võ Nguyên Giáp chỉ là một huyền thoại Trung Cộng dựng lên cho chiến thắng Điện Biên Phủ, trong thực chất là chiến thắng của Sư Đoàn Pháo Binh Tàu đặt trong hang núi trùng điệp vây quanh lòng chảo Điện Biên Phủ.

Từ nửa thế kỷ nay các nước kỹ nghệ đã trở thành một khối kỹ thuật / kinh tế bao vây chặt chẽ những nước đang mở mang nguyên là những thuộc địa cũ của họ.  Họ áp đặt một tiến trình phát triển và tiến hóa cho những nước này, trong đó có Việt Nam và các quốc gia trong vùng Đông Nam Á.

Kinh tế kỹ thuật đưa dẫn đến những đổi thay xã hội chi phối đời sống tập thể chúng ta.  Họa đồ phát triển – vùng kinh tế – do các cường quốc vẻ lại, chia nhau ảnh hưởng.  Vấn đề cho các nước đang mở mang là đặt rõ thứ tự ưu tiên những vấn đề quốc gia, để tìm phương thực hiện công bằng xã hội, tự do dân chủ ngõ hầu đạt được hòa bình như một cứu cánh cho phép chúng ta sống còn và lớn mạnh.

Hai điều quan trọng trong vấn đề phát triển Đất Nước chúng ta cần lưu ý:

1, Thứ nhất là Việt Nam từ trước đến nay là một nước nông nghiệp có truyền thống tốt đẹp mà chúng ta tự hào hãnh diện.  Liệu chúng ta có thể giữ được truyền thống ấy để hội nhập thế giới mà không bị lệ thuộc vào ngoại bang không?

2, Thứ hai, nước Việt Nam là một nước kém mở mang về kỹ nghệ kỹ thuật, làm thế nào để thoát ra khỏi tình trạng ấy để thăng tiến, nếu truyền thống nông nghiệp được quý trọng vì công ích của nó.

Hai nhận xét trên được nối chặt với nhau để thành một nguyên tắc căn bản lớn cho đời sống kinh tế của quốc gia Việt Nam:  Việt Nam phải biết rõ sở trường của mình để chọn lấy cho mình một chủ thuyết kinh tế khai mở rộng rãi trong đó tất cả mọi hoạt động lớn nhỏ của quốc gia phải thích ứng với viễn tượng quốc tế cung cầu.

Đối tượng tối hậu là thực hiện công bằng, xã hội, tự do dân chủ để tất cả các thế hệ mai hậu đều có được những cơ may bình đẳng thành công trong đời.

Tự do bình đẳng luôn luôn đi kèm theo thịnh vượng và tiến bộ.  Nói cách khác, không có thịnh vượng, tiến bộ, thì sẽ không có tự do và bình đẳng.

Vấn đề của dân tộc Việt Nam là phải tìm cho ra một mẫu mực xã hội trong đó hệ thống giá trị của chúng ta chiết trung vẫn được giữ lại sống động để Dòng Sử Mệnh Việt Nam luôn luôn được khơi dòng không bế tắc.

Với kinh nghiệm một nửa thế kỷ huynh đệ tương tàn vì dại dột chấp nhận những ý tưởng ngoại lai, kem theo những khí giới khủng khiếp họ ép hai phe Việt Nam nhập cảng sử dụng, dân tộc chúng ta đã nhận chân ra rằng Cộng Sản Nga và Tư Bản Mỹ nguyên hình chỉ là những Đế Quốc Xâm Lược phải tiêu diệt để cứu dân cứu nước.

Cộng Sản là một tổ chức quốc tế quy mô nhằm phá hủy tất cả mọi cơ sở chính trị, kinh tế và kỹ thuật của nền độc lập quốc gia, còn Tư Bản thì cũng hủy hoại tận gốc, nguồn cội, con người và dân tộc.  Cộng Sản và Tư Bản chỉ là hai mặt sấp ngửa của nền văn minh vật chất, máy móc và tiền bạc, nền văn minh tiêu thụ súng đạn giết người, tiêu hủy nhân sinh, Tây Phương.

Bổn phận của dân tộc Việt Nam là phải cố gắng – hết sức cố gắng – lên cao mà nhìn xuống, là phải khởi hành lại từ một xuất phát điểm, vững mạnh, ngõ hầu không còn bị siêu cường lùa ép vào vòng chiến lược kinh tế chiến tranh của chúng nữa!
 
Làm thế nào?

Nói về chuyện nuôi dân – Canh Nông, Lúa Gạo – các nhà kinh tế đều đồng thanh báo động rằng loài người, thế giới, sắp chết đói, và phải cần sản xuất thêm nhiều lúa gạo.  Sự thực trái hẳn thế, ở tất cả mọi nơi, nhất là các nước kỹ nghệ, ngũ cốc có thừa.  Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Pháp , Anh, Đức, Úc, Bỉ, và ngay cả Nhật Bản đều dư lúa gạo để xuất cảng.  Họ xuất cảng sang Nga, sang Tàu, sang những nước muốn thay đổi hệ thống kinh tế bằng chính sách Cộng Sản. 

Các nước kỹ nghệ sản xuất rất nhiều và rất mau vì họ có kỹ thuật, có phương tiện chuyên chở, và họ là những con buôn biết nghề, vô địch.  Nông nghiệp là nghiệp tổ, sở trường của dân tộc chúng ta.  Nếu chúng ta không cạnh tranh được với họ trong sở trường của chúng ta, thì nói gì đến những môi trường khác?  Đây là vấn nạn chính của chúng ta, và chúng ta nhất thiết phải tìm cho ra giải pháp.

Dĩ nhiên vấn đề tiên quyết là phải nuôi dân, cho dân có ăn trước nhất.  Nhưng đến ngay sau đó là vấn đề phát triển, vấn đề kỹ nghệ hóa kinh tế để dân tộc ta lớn mạnh trong tất cả mọi ngành sinh hoạt – lớn mạnh trong nhân phẩm, trong phẩm cách Việt Nam.  Nhưng vấn đề này càng suy nghĩ càng thấy phức tạp, và rất khó khăn.  Chúng thử thách khả năng vượt thắng – khả năng “Việt” của dân tộc ta, xem ta có còn là dòng giống Tiên Rồng Âu Lạc, hay chỉ là những con giun đất như những người Cộng Sản đang làm ô nhục Tổ Tiên, đưa đất nước vào vong gia bại sản sau khi tình cờ nắm trọn được quyền bính từ hai mươi năm nay.

Những bước đi tới của dân tộc phải là những bước đi thận trọng, trên căn bản nông nghiệp cổ truyền, có những nguyên tắc phải theo để tránh những sai lầm tai hại:

1, Sản xuất nông phẩm, đứng về phương diện kinh tế, phải đủ lượng cho nhu cầu, và phải có dư và có nhiều nông phẩm khác nhau để nâng cao phẩm chất dinh dưỡng trong nước và để xuất cảng ra nước ngoài càng nhiều càng tốt để thêm công ăn việc làm cho dân, nâng cao mức sống.

2, Chính sách kinh tế chính quyền phải đồng thời là một chính sách cách mạng thăng tiến quốc gia: kinh tế nông nghiệp phải được phát triển song hành tuần tự với kinh tế kỹ thuật chung.  Việt Nam trong liên kết với đồng minh chiến lược là các quốc gia Đông Nam Á, phải chung sức với nhau trở thành một khối kỹ nghệ sản xuất những phương tiện giao thông thời đại – xe hơi, máy bay, tàu bể, v.v... – cung cấp cho toàn lục địa Á Châu, phải chỉnh trang thành thị và thôn quê trong khung cảnh thiên nhiên – đem suối rừng về thành phố, đem nhà cửa khang trang về thôn quê, - đem phồn thịnh an lạc đến cho tất cả, chấm dứt thảm trạng xã hội cũ, lạc hậu, dã man người bóc lột người (Tư Bản) và chính quyền bóc lột nhân dân (Cộng Sản).  Tất cả mọi kiến trúc xã hội, trên tất cả mọi bình diện – chính trị, kinh tế, hành chính, quân sự... – phải thay đổi với móng nền đạo đức văn hiến văn hóa dân tộc cổ truyền.  Kim phải nối tiếp với Cổ.  Cổ là gốc rễ, Kim là ngọn ngành, đấy phải là khung cảnh của phát triển thăng tiến dân tộc và quốc gia, Dân và Nước.

Thay đổi không hẳn là chỉ thay thế và đổi mới những gì đang  có sẵn.  Thay đổi là phải sáng tạo ra những yếu tố sản xuất mới trong tất cả mọi địa hạt.  Nếu cần phải gạt bỏ không thương tiếc những dữ kiện lỗi thời.    

Ở cuối thế kỷ XX nhiều quan niệm đã thực lỗi thời.  Cộng Sản đã lỗi (hết) thời mà Tư Bản cũng đang lỗi thời!  Đứng về phương diện hoạch định một chương trình kinh tế, điều tiên quyết là phải có một chiến lược tổng thể để phát triển kết quả hữu hiệu.  Vấn đề không phải chỉ là đề nghị một vài dự án với những toan tính gần gũi cục bộ thiển cận.  Vấn đề là định rõ căn bệnh kinh tế trầm kha của quốc gia, hiểu rõ nguyên nhân suy đồi  và những khả năng khôi phục, nghĩa là những lực năng động nội tạng tiềm tàng để phát triển.  Viễn tượng lành bệnh căn bản là ở sự định bệnh chính xác này:  có biết rõ căn nguyên của bệnh thì mới có phương thuốc đúng chữa chạy.

Nhưng thế nào là Chiến Lược Tổng Thể về phát triển (chiến lược phát triển tổng thể) đặt trên nguyên tắc căn bản Kỹ Nghệ Hóa Tuần Tự và Toàn Diện Nông Nghiệp để Việt Nam trở thành một quốc gia nông nghiệp, kỹ nghệ, và khuếch trương du lịch?  Câu trả lời đơn giản và rõ ràng là chính phủ phải hợp tác với “quốc dân” – không phải “quốc doanh” -, với tư nhân, trên một chương trình toàn diện, cùng chung một đường lối phát triển quốc gia, với những nguyên tắc được thỏa thuận đồng đều, để cho những dự án công tư phối hợp với nhau hợp lý, hợp tình, bổ túc lẫn nhau, không trái nghịch nhau, nhằm đưa Việt Nam lên hàng Cường Lực Kinh Tế Đông Nam Á Châu...

Chính quyền phải nhất thiết mở cửa đón nhận sáng kiến, khả năng, tài trí quốc dân, phải làm việc cho dân cho nước thực sự, phải luôn luôn nhắm giữa mục tiêu Dân Giàu Nước Mạnh, phải nhìn xa trông rộng, có chí lớn cống hiến quốc dân những yếu tố tiên khởi cần thiết thiết lập một chính sách năng động tái thiết và phát triển.

Bước đầu chính quyền phải làm như vậy là Dân Chủ Hóa Thể Chế. Song hành chính quyền phải đề nghị với quốc dân một Chương Trình Tái Thiết Phát Triển.,
 - xây dựng  một kiến trúc nội tại cần thiết tại mỗi nơi trọng yếu trên lãnh thổ quốc gia – xa lộ, sông đào, thí dụ như một sông đào tầm vóc quốc tế nối liền sông Cửu Long ra Thái Bình Dương qua Savanakhet, Đông Hà, và Cửa Việt chẳng hạn...
- tản quyền thế Lực và Hành Chánh Trung Ương (chẳng hạn như trao quyền cho Chính Phủ Tỉnh với một nền chính quyền tỉnh và lập pháp tỉnh phép-vua-thua-lệ-làng...),
- thiết lập một thị trường kinh tế và tài chánh xứng đáng với ước vọng quốc gia,
- thăng hoa nhân phẩm phụ nữ, bảo vệ ấu nhi, và
- chuyển hóa sức tay chiến tranh để kiến tạo hòa bình.

Một chương trình sâu rộng như vậy sẽ có khả năng thực hiện cái Cơ Cấu Chính Trị Kinh Tế khả dĩ đưa quốc gia lên hàng thế lực Đông Nam Á Châu.

Nhưng, Chương Trình / Đề Án và những Kiến Trúc Nội Tại dù sao cũng vẫn là “chính trị, chính sách.  Chính sách, chính trị phải có những người có đủ khả năng để chỉ huy, hướng dẫn và thực hiện, nghĩa là phải có nhân sự.

Đến đây, Chương Thứ Hai của bài góp này được mở ra, đề cập đến vấn đề Học Vấn và Giáo Dục Quốc Dân.

Dân tộc Việt Nam phải được tự do, giải phóng thực sự, tự do học hỏi, tự do trau giồi kiến thức, thủ đắc chuyên moan, để được góp phần trong sự nghiệp chung xây doing, giải phóng quốc gia.  Tương lai kinh tế, xã hội do Trình Độ Trí Thức và Tinh Thần Công Dân của quốc dân; Giao Ước Tiến Hóa găn liền với Nỗ Lực không ngừng đào luyện và giáo dục thanh niên.  Giao dục là địa hạt chiến lược trên quan điểm khả năng thực hiện của quốc dân và tương lai xã hội; chính quyền và toàn thể quốc dân phải đầu tư toàn diện vào đó để cống hiến bình đẳng cho mọi công dân cơ hội thăng tiến và thành công trên đời.  Giáo dục phải được coi là kho tàng quý báu nhất, châu bảo của quốc gia.

Trong tất cả mọi ngành, quốc gia cần phải có những nhà bác học, những giáo sư xuất sắc lỗi lạc, nhưng cũng rất cần đến những kỹ sư , kỹ thuật gia, thợ thuyền chuyên nghiệp thừa hành làm Khối Trung Gian giữa giới trí thức cao đẳng và đa số dân chúng căn bản quốc gia, cho đến giờ vô cùng thiếu thốn.

Trên quan điểm này có hai đặc tính - dân tộc tính – của thanh niên trí thức Việt Nam, các bậc phụ huynh và các nhà giáo dục cần lưu ý để sửa đổi, là:

1, Thứ nhất, thanh niên chúng ta, nói chung, thiếu Tinh Thần Trách Nhiệm,

2, Thứ hai, thiếu Trí Tò Mò Học Hỏi Thêm sau khi tốt nghiệp, tự mãn với mảnh bằng gặt hái được, khiến cho đường tiến thủ của quốc gia bị chắn lại không theo kịp trào lưu tiến bộ chung.

Nhận xét trên không phải là miệt thị, nhưng là để tự biết mình, biết những kém cỏi, thiếu sót của mình về phương diện  “dân tộc tính”, để thành tâm sửa đổi, cầu tiến.  Chúng ta vẫn thường nói mà không mấy thực hành “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”.  Bây giờ giai đoạn này của lịch sử , lúc mà cả Đông Nam Á Châu, cả Đông Á (Viễn Đông) đã thức dậy, giành lấy chỗ đứng danh dự dưới mặt trời, quốc dân phải một lòng đòi hỏi và nhận chung trách nhiệm với Quốc Gia Dân Tộc.  Các nhà cầm quyền, các nhà giáo dục phải thiết lập một học trình trí thức hóa tầng lớp lao động, dân chủ hóa mức thang lương bồng, đặt lại những tiêu chuẩn giá trị xã hội / chuyên môn và cương quyết đóng chặt cánh cửa hối mại quyền thế và tham nhũng.  Có sở học là để hành động, nâng cao trình độ trí thức, chuyên môn của mọi giai tầng xã hội, nhất là giai tầng lao động vốn là nền móng, căn bản của quốc gia, xã hội.  Điều kiện thiết yếu để cứu nước thiết thực là như vậy, đơn giản, rõ rệt.

Những điều cần thiết dường như  đã được nói lên, nhưng “lập ngôn” như vậy đã đủ chưa để khởi hành?  Chắc chắn là chưa.  Bởi vì còn rất nhiều điều kiện xã hội căn bản khác mà chúng ta còn phải tranh đấu để thực hiện.

Trước hết, chúng ta phải chung sức với nhau để đem lại an bình cho tất cả mọi tầng lớp quốc dân, và hòa bình cho quê hương đất nước.  Các nhà lãnh đạo chính quyền  và chính trị phải chân thành  đem lại công bằng xã hội cho quốc dân, và phải sáng suốt nhận chân rằng Nhân Bản Xã Hội phải được thực thi trong mọi lãnh vực hoạt động và áp dụng cho tất cả mọi người, không phân biệt kỳ thị, vì chính nhân loại xã hội là cốt tủy và huyết mạch  của hòa bình và an lạc.  Không có hòa bình nhân bản, không có công bằng xã hội trường cửu đất nước chúng ta không bao giờ có thể tái thiết được!

Hiện tại ở Việt Nam ít nhất cũng phải là ba triệu người bị tàn phế bởi chiến tranh.  Đối với một chính phủ có chính sách nhân bản đây là một gánh nặng phải cưu mang với nhiều tình thương, kính trọng, và ân nghĩa.  Bổn phận của chính quyền, của xã hội và gia đình là phải chung sức giúp đỡ họ hòa nhập lại bình thường với xã hội, để cho dân số được quân bình, mọi người đều có thể tham gia vào công cuộc phát triển kinh tế quốc gia.  Chính phủ và xã hội phải tạo ra những công việc thích hợp với sức khỏe và khả năng suy kém của họ.  Nhân lực lành-chân-khỏe-tay phải nhường cho họ những kỹ nghệ nhỏ để đảm đang những kỹ nghệ lớn mở đường tương lai cho đất nước.
Trí thức hóa dân chúng, cống hiến cho tất cả những cơ hội đồng đều để thăng tiến thành công, tôn trọng nhân phẩm, kính trọng ghi ơn những quân dân đã hy sinh thân thể, tài sản để mưu cầu hòa bình, an cư lạc nghiệp cho quốc gia dân tộc qua những đường hướng tranh đấu khác nhau, hoạch định những sơ đồ lớn tiến vào Tương Lai, tuy nhiên vẫn chưa giải thoát được Người Việt Nam khỏi vòng nô lệ, và Nước Việt Nam khỏi áp bức của ngoại bang.  Quốc gia Việt Nam còn cần đến – hết sức cần -  một Khung Cảnh Thuận Lợi để Công Tác và Thăng Tiến khả dĩ đảm bảo hòa bình an lạc cho dân tộc.  Đây là vấn đề Thời Cơ và Nhân Lực chúng ta sẽ bàn đến ở chương sau.
 

CHƯƠNG BA


Dân tộc Việt Nam không ngừng tranh đấu trong suốt dòng sử mệnh năm nghìn năm cho đến nay với một ý chí duy nhất đối đầu với ngoại cường để độc lập tự chủ, để quốc dân giữ vững niềm tin vào tiền đồ Tổ Quốc, và để vào đệ ngũ thiên niên kỷ tởi liên lập với các nước láng giềng Đông Nam Á tạo thế Đại Hòa Á Châu với Trung Hoa và Ấn Độ.

Tiếp ngay sau Thế Chiến Thứ Hai, chiến tranh đã là một thảm họa cho Việt Nam.  Cuộc chiến đó đã làm tan nát đoàn kết dân tộc cần thiết để xây dựng đất nước.  Nó được nuôi dưỡng bằng khí giới tối tân nhất của thời đại – trừ bom nguyên tử đã được dành cho Nhật Bản để bắt Nhật Bản quy hàng vô điều kiện – tiếp viện bởi Liên Xô, Hoa Kỳ và các thế lực kỹ nghệ Âu Châu.

Thật là điên rồ, vì tất cả các thuộc địa cũ của Tây Phương đều đã giành lại được độc lập mà không phải trả cái giá đau thương huynh đệ tương tàn ròng rã nửa thế kỷ.  Nhưng một điểm son cho tuổi trẻ Việt Nam trong cuộc chiến đau thương tàn khốc đó là đã nhất tề đứng lên rứt bỏ những lối mòn trí tuệ cũ , anh dũng dấn thân không đán đo dè dặt, tuyệt đối nghĩ mình hy sinh cho quốc gia dân tộc vì yêu nước thiết tha, không mảy may nghĩ rằng lòng yêu nước có thể bị lợi dụng bởi những đầu óc lãnh tụ bị tư tưởng ngoại lai không chằng rễ nhiễm độc đưa toàn thể quốc gia dân tộc đến thảm cảnh hoại vong, lệ thuộc vào Siêu Tư Bản ngày nay!  Tuổi trẻ Việt Nam đã biết hy sinh sinh mệnh nhưng Đại Nghĩa Quốc Gia Dân Tộc – vì tham vọng mê muội của lãnh tụ, đảng phái, bè lũ...- đã không tương xứng và không có.  Lịch sử sẽ ghi lại sự hy sinh vô bờ bean này của dân tộc qua hàng hàng lớp lớp anh hùng vô danh, và sẽ vạch mặt chỉ tên những kẻ đã đem Việt Nam vào vòng nô lệ thế lực siêu cường ngày nay.

Chiến tranh, cách mạng sắt máu mà Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản chủ trương ngày nay sau hai mươi năm cầm quyền trọn vẹn, đã chỉ đem lại cho quê hương dân tộc nghèo đói, thất học, mất nhân cách, vào hàng chót trong xã hội loài người.  Chiến tranh Việt Nam vào lịch sử là chiến tranh   Cộng Sản và Mỹ, và dân tộc Việt Nam đã là vật tế thần để cho hai chủ nghĩa ngoại lai hoành hành lợi dụng, khai thác hồn và xác đến tận xương tủy.  Dân tộc Việt Nam chém giết lẫn nhau, huynh đệ tương tàn vô lý, bằng khí giới tối tân của Cộng Sản và Tư Bản trong khi chính mình không làm nổi một viên đạn súng sáu!  Lấy chủ nghĩa ngoại lai nhuộm độc tâm hồn dân tộc, tự mình chui vào lò sát sinh, tự hủy tự diệt để cho những con buôn súng đạn quốc tế sống giàu sang...

Sau hai mươi năm quyền bính trong tay, làm chủ đất nước thống nhất, Cộng Sản Việt Nam vẫn chưa thức tỉnh, vẫn đắm đuối trong mê hồn trận danh vọng hão huyền, vẫn làm chính trị tiểu xảo, hoàn toàn không có một chính sách quốc gia để đưa dân tộc và đất nước lên hàng giàu mạnh.

Vẫn chỉ là những đường mòn với những vết xe đổ:  thắng trận nhưng vẫn hận thù những anh em ngã ngựa, các cấp lãnh đạo chính quyền lớn nhỏ, xử lý quốc sự như những quân cướp ngày, đem bán dần mòn cho Tư Bản Quốc Tế của cải Quốc Gia, đọa đày dân tộc để cho người dân cứ nghèo nàn, xơ xác, thiếu ăn, thiếu học, mất hết nhân phẩm làm người, khiến cho xã hội băng hoại, mất hết cương thường đạo lý.

Trong khi đó, tất cả các nước Viễn Đông dân trí đều cao, dân sinh sung túc, kiến thức công nghiệp kỹ nghệ tiên tiến, và ý thức chính trị liên kết thức thời để đối phó với những mưu lược phá hoại, thôn tính của siêu cường:  các nước Đông Nam Á đã hợp tác chặt chẽ với nhau để lớn mạnh, tự lực tự cường, đề phòng sự thao túng quy mô của những thế lực thực dân mới;  Đài Loan và Trung Hoa Lục Địa đã hớp tác kỹ thuật kinh tế với nhau; Nhật Bản cũng kết hòa với Trung Hoa và Nam Hàn; tất cả trong một viễn tượng thành lập những thực thể địa dư chính trị mới đối diện với chủ trương thôn tính địa cầu dưới chiêu bài Toàn Cầu / Globalism  của Nga- Mỹ, của Bush – Gorbachev hay của Clinton – Yeltsin.

Thế chiến lược mới cho các nước đệ tam là tập họp liên kết để chung vốn, chung sức, phân công, chia sẻ nhiên liệu, kỹ thuật, thị trường thay vì cạnh tranh sát phạt  lãn nhau.  Cộng Sản Việt Nam còn mù quáng chưa nhận ra, mà vẫn chỉ biết dựa thế lực ngoại bang để giữ vững quyền bính đàn áp dân chúng, đưa quốc gia dân tộc vào vòng nô lệ mới, ác độc hơn, xảo quyệt hơn, tài giỏi hơn những thế lực thực dân cũ gấp trăm lần, nghìn lần.

Để sống còn và lớn mạnh, giành lại chỗ đứng cho quốc gia dân tộc dưới ánh mặt trời, bình đẳng với thế giới, các quốc gia Đông Nam Á nhất thiết phải triển khai vùng địa dư chính trị mình thành một tập hợp Liên Bang để giữ quân bình giữa hai khối khổng lồ Á Châu là Trung Hoa và Ấn Độ, trong viễn tượng một thế Đại Hòa Á Châu / Great Asian Entente, chung sức nhau hóa giải âm mhư Thống Nhất Toàn Cầu / Globalism Nga – Mỹ đang được cỗ vũ ráo riết như là Một Trật Tự Thế Giới Mới / New World Order.

Trật Tự Thế Giới Mới bản chất là đảo lộn thế giới bằng một nền kinh tế chiến tranh cô hữu của Tư Bản Ngân Hàng Quốc Tế , đã tài trợ cho Karl Marx suốt đời không phải đi làm kiếm sống, ngồi yên trong tháp ngà tư tưởng viết “Tư Bản Luận”, cho Lenin lập đảng Bolsevik, cho Hitler lập Đức Quốc Xã để bán khí giới, gây chiến tranh liên tục làm khổ nhân loại, làm khổ Việt Nam trong suốt thế kỷ 20 này.

Là nạn nhân khốn khổ nhất của Tư Bản, rút kinh nghiệm đau thương huynh đệ tương tàn nhân danh những chủ quyền quỷ quái, được ngoại bang chi viện súng đạn tối tân, đôn lên hàng tiền tuyến Cộng Sản và Thành Trì Tự Do Dân Chủ, Việt Nam cuối thế kỷ 20 sang đầu thế kỷ 21 phải dũng mãnh đứng lên nhân danh Tình Người, nhân danh Đạo Lý, đưa ra cống hiến cho thế giới một chiến lược hòa bình toàn cầu để hướng dẫn nhân loại vào thiên niên kỷ thứ ba – thiên niên kỷ thứ năm của Dòng Tộc Bách Việt – bắt đầu bằng hòa bình giữa các nước Đông Nam Á, hòa bình giữa Đông Nam Á (trong một viễn tượng và thực hiện Liên Bang) với Trung Hoa, hòa bình tam lâp tối hậu giữa Liên Bang Đông Nam Á, Liên Bang Trung Hoa và Liên Bang Ấn Độ, sau này.

Việt Nam vĩnh viễn phải có đồng minh chiến lược có chung huyết tộc, văn hiến / văn hóa / văn minh.  Theo huyền sử, quốc tổ Tộc Việt là Lạc Long Quân dẫn 50 “con” xuống bể, nhưng không nói là đi đâu.  Thuận lý là xuống Bể Đông, Thái Bình Dương ngày nay; xuống Nam dương qua Mã Lai Á, Phi Luật Tân; đi khắp các đảo Thái Bình Dương sang đến tận bờ bên kia; trở thành những thổ dân châu Mỹ thường được gọi là Người Da Đỏ.

Văn minh Da Đỏ cao nhất ở  Châu Mỹ là văn minh Maya, bên Mễ Tây Cơ.  Họ có một lịch sử rất-Bách-Việt 5,000 năm; một cuốn Kinh Dịch gọi là Tyolkin để tính năm, tháng theo những “mùa Ngân Hà” / “Galactic Seasons”.  Cuốn Kinh Dịch Maya đã được trao cho nhà Dịch Học Bác Sĩ Nguyễn Văn Thọ để nghiên cứu, phối kiểm với cuốn Dịch Trung Thiên / Trung Thiên Đạo của nhà Đạo Học cách mạng Trần Cao Vân đã được học giả Hành Sơn Lương Vĩnh Thuật trước tác, và gần đây được giáo sư triết học Trần Công Định tục biên bổ túc.

Văn minh Âu Lạc là văn minh Trống Đồng độc đáo, duy nhất trong lịch sử nhân loại, bắt nguồn từ Huyết Tổ chung của tộc Hán và tộc Việt là Thần Nông, nhưng đã trở thành di sản riêng của Tộc Việt từ Quốc Mẫu Âu Cơ và Quốc Tổ Lạc Long trong khi tộc Hán nhận Quốc Tổ là Hoàng Đế và không có Quốc Mẫu.  Tộc Hán từ đời Hoàng Đế trở xuống, có dã tâm chiếm đoạt dư đồ Tộc Việt, từ  Động Đình Hồ / Trường Giang xuống đến Lưỡng Quảng, Vân Nam, cưới con gái Tộc Việt cho con trai mình khiến cho một nửa người Trung Hoa ngày nay theo huyết thống mẫu hệ là người Hán-Gốc-Việt.  Và, sau khi nhà Thanh Mãn Châu chiếm quyền ở Trung Hoa đa số những người  Hoa-Gốc-Việt di tản sang Việt Nam tị nạn nhận mình là Minh Hương!

Việt Nam tương lai phải tạo cho mình một thế chiến lược huyết thống và văn hiến ở Đông Nam Á Châu, môi-hở-răng-lạnh với các quốc gia Đông Nam Á, chung hòa với nhau để cùng chung phát triển và tiến hóa.  Sáng kiến chiến lược đã được Phong Trào Liên Bang Các Quốc Gia Đông Nam Á trình bày cổ xúy từ năm 1969 dưới thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa.  Sáng kiến đi trước và tiên đoán thời cuộc gần 30 năm, bây giờ là thời điểm ứng dụng.

Việt Nam trong quá khứ có rất nhiều nhược điểm đưa dần đến bại vong, nhưng cũng còn rất nhiều tiềm năng cầm chân Siêu Cường và lật ngược thế cờ.  Điều cần và đủ là chúng ta phải Đoàn Kết  Nhất Trí mở rộng căn bản dân chủ trong nước và thuyết phục láng giềng cùng chung với nhau bảo vệ, duy trì, và sống thực truyền thống đạo đức văn hóa, khước từ tiêu thụ sản phẩm chiến tranh của siêu cường, và chung sức với nhau xây dựng hòa bình từ trong thâm tâm cho Đất Nước, cho vùng địa dư chính trị Đông Nam Á và cho Á Châu.

Cái thời của Tư Bản gốc rễ Thực Dân và Cộng Sản, và đang cố gắng sản sinh ra thuyết Toàn Cầu che đậy cái Đại Mộng thu Thế Giới về một mối do Siêu Tư Bản thống trị; cái thời của Văn Minh vật chất phiến diện do siêu cường kỹ nghệ chủ xướng phải qua đi, vì Tư Bản và Văn Minh vật chất thiếu nhân tính, thiếu nhân bản xã hội, thiếu tình người, vô đạo vô luân, chỉ tôn thờ Thần Linh mới là Tiền Bạc / Đô La, và chỉ biết làm giàu bằng sản xuất đủ mọi loại khí giới “kỹ thuật cao” để khuyến dụ những kẻ làm chính trị vì tham vọng cá nhân, độc tài đảng trị / gia đình trị, đưa các dân tộc đang mở mang trong thế giới đệ tam lao đầu vào những lò lửa chiến tranh cục bộ, liên tiếp, từ nửa thế kỷ nay, từ khi thế chiến thứ hai kết thúc.

Văn Minh Vật Chất và sản phẩm của nó, nền Văn Hóa Giết Người phải qua đi vì nó đã làm khổ loài người quá lâu và quá nhiều, và nó đã đạt tới thời kỳ quá độ của nó.  Sớm hay muộn tùy thuộc vào tâm thức và sức đề kháng trí tuệ của những quốc gia dân tộc nạn nhân của nó – điển hình là Việt Nam.

Việt Nam phải khởi xướng một cuộc vận động lịch sử mới, khắp mọi nơi trên thế giới, năm châu bốn bể, vì “Chương Trình Điện Toán Thiên Cơ Lạc Long Quân” đã đước áp dụng đúng thời điểm:  Dòng Tộc Việt thế hệ thứ hai ở ngay chính lòng các cường quốc đã chôn nhau cắt rốn nơi đó, trở thành công dân thiên hạ, thành nhân thành tài trong tất cả mọi ngành sinh hoạt xã hội, để sang Thiên Niên Kỷ thứ ba – Đệ Ngũ Thiên Niên Kỷ Việt Tộc – góp phần lãnh đạo chính trị, khai mở Kỷ Nguyên Nhân Ái, Hòa Bình một nghìn năm tới.

Trời đất đã mở cửa cho Dòng Bách Việt đi Bách Quốc, cho hậu duệ Quốc Mẫu Âu Cơ và Quốc Tổ Lạc Long được thiên hạ sau năm nghìn năm mất dân mòn dư đồ Tổ Tiên để lại cho Dònh Hoàng Đế Lĩnh Bắc, tuy chung cùng một huyết tổ Thần Nông nhưng đã thay lòng đổi dạ, soán quyền cướp đất, vô tình bội nghĩa.

Trời Đất đã đền bù cho Người Việt Nam.  Chúng ta không phụ lòng Cha Trời Mẹ Đất, phụ lòng Non Mẹ Nước Cha, chúng ta phải nhớ lời thệ nguyện xưa:

Nước Non nặng một Lời Thề
“Nước đi ra bể lại về với Non!”

Dòng Tộc Việt có nhiệm vụ Thần Tiên Năm Châu Bốn Bể / Tứ Hải Giai Huynh Đệ.  Nghĩa cả của cuộc đổi đời, ra đi năm 1975, năm Ất Mão, là thế.  Chúng tar a đi với lời thề Non Nước, giữ Gốc giữ Nguồn, giữa Đạo Làm Người, Đạo Trời, Đạo Đất, Đạo Cha, Đạo Mẹ, Đạo Tổ Tiên Ông Bà...

Đất  nước Việt Nam cần một cuộc Hồi Sinh Mãnh Liệt mà Khoan Hòa, dựa trên những nguyên lý và những định luật tâm linh xã hội, tương xứng với những nguyện vọng toàn dân.  Một Chính Phủ Việt Nam xứng đáng trong bất kỳ mọi hoàn cảnh – chiến hay hòa – bao giờ cũng phải vượt thắng và không bao giờ lệ thuộc vào thế lực tàn bạo ngoại bang.  Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã bị mù quáng bởi những lý thuyết ngoại lai quá lâu dài sâu đậm, bây giờ là thời gian  để cho tất cả dân tộc nhìn thẳng vào những thực tại phũ phàng để cho tất cả có một nhận thức và một lương tri trong sáng, không mặc cảm.

Sự sụp đổ của Cộng Sản bên châu Âu thực ra đã được tiên đoán từ năm 1969 giữa lúc Công Sản Việt Nam còn đang chới với sau cuộc đại bại Mậu Thân trên chiến trường Nam Việt Nam.  Trong bản báo cáo đệ trình đảng Cộng Sản Nam Tư ngày 15 tháng 8 năm 1969, giáo sư Cộng Sản thuộc trường Đại Học Belgrade, Branko Pribecevic, đã viết:  “Tất cả các đảng Cộng Sản trên thế giới, ngoại trừ đảng Cộng Sản đang cầm quyền, đã mất đảng viên từ 20 năm nay.  Trên ba mươi đảng Cộng Sản châu Âu ngoài chính quyền, một nửa số đảng đã không cầm giữ lại được 50% đảng viên và có độ một tá đảng mất đi từ 80 đến 85 % số đảng viên so sánh với 20 năm trước (nghĩa là năm 1949); lấy thí dụ là đảng Cộng Sản Áo, thì đảng này 63 % đảng viên đã trên 50 tuổi và 41 % trên 60”.

Những con số hùng hồn đó cho biết tuổi trẻ Âu Châu mê say tự do dân chủ đã chối bỏ Cộng Sản, đặc biệt là hai đảng Cộng Sản Pháp và Ý;  họ đã không còn ca tụng những đức tính giả tưởng của chủ nghĩa Cộng Sản và Mác Xít nữa.  Thêm vào đó, quan điểm Mác Xít về tiến trình của chủ nghĩa Tư Bản đã bị những thành công vượt bậc của Hoa Kỳ ở Tây Âu, Nhật Bản..., với một sức mạnh và một khả năng thích ứng mãnh liệt, phủ nhận hoàn toàn. Những người Cộng Sản lãnh đạo Liên Bang Xô Viết hồi đó biết rõ rằng chủ nghĩa Cộng Sản không thể là mồ chôn của Tư Bản được, mà rất có thể là ngược lại.  Cộng Sản Việt Nam đã thực đui mù trong giai đoạn sửa soạn cáo chung của chủ nghĩa Cộng Sản hai mươi năm sau cho nên cướp được chính quyền miền Nam và thống nhất được đất nước năm 1975, họ đã không biết làm gì với Chính quyền thống nhất “Trời Ơi” đó, và đưa quốc gia dân tộc đến thảm trạng ngày nay, dịch chủ tái nô, rơi vào tròng bẫy chiến lược kinh tế chiến tranh của Tư Bản Quốc Tế!

Giới lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam, từ Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp trở xuống chỉ đọc một cuốn sách từ năm 1945 đem áp dụng vào dân tộc, hay đúng hơn đem dân tộc thử nghiệm cho cuốn sách độc nhất và sai lầm đó là Chủ Thuyết Cộng Sản Mác Xít Lê Nin Nít.

Họ nói giải phóng dân tộc, nhưng trên thực tế là đưa cả dân tộc vào vòng nô lệ Nga – Tàu để đánh đổi lấy khí giới đem về giết hại phần dân tộc còn lại muốn thực sự giành độc lập, tự do cho quốc gia dân tộc.  Tội của họ đối với Tiên Tổ và tiền đồ Tổ Quốc chỉ nhẹ đi nếu, vì ái ngại, ta nghĩ rằng Họ Thực Sự Là Những Người “Chí U Minh” không hiểu gì về Cộng Sản cũng như Tư Bản!  Họ đã hành động vì ngu muội.

Thực chất Nga và Tàu:  Nga và Tàu thực chất chỉ là những lá bài bịp bị Tư bản Quốc Tế điều động tinh vi, đi vào chiến lược kinh tế chiến tranh toàn cầu.  Những thực hiện kỹ thuật của Nga và Tàu, những lời tuyên bố chửi bới huênh hoang đối với Tư Bản chỉ là bề mặt – cái mặt hề! – Nga, Tàu trên thực tế cũng chỉ là những thuộc địa kinh tế của Mỹ.

Đương đầu với Mỹ để tranh giành ngôi vị bá chủ thế giới đã làm cho Nga, Tàu hụt hơi và mất khả năng kiến tạo một căn bản vững chãi để mở mang kinh tế và phát triển xã hội.  Những số tiền khổng lồ tung vào thế giới đệ tam, vào việt Nam để thăng tiến, thực hiện chính quyền Cộng Sản khắp mọi nơi đã khiến cả Nga lẫn Tàu đều phải nhập cảng hàng hóa của các quốc gia kỹ nghệ cho dân tiêu thụ; của Pháp, của Anh, Đức, Gia Nã Đại, Úc, Nhật...có biết đâu rằng mua đồ của các quốc gia kỹ nghệ là Gián Tiếp Mua Đồ Của Mỹ, bởi vì Mỹ kiểm soát 75% kinh tế thế giới tự do!

Những thí dụ không thiếu nhưng Cộng Sản Việt Nam, mờ người trong lò thiêu huynh đệ tương tàn, đã không thấy, không hiểu!  Thí dụ vào những năm 70, Thượng Viện Hoa Kỳ đã cho phép chính phủ Mỹ tháo khoán 50 triệu Mỹ Kim cho hãng xe hơi Ý Fiat vay để thiết lập những xưởng làm xe hơi ở Liên Xô khiến cho nền kinh tế Xô Viết  đã bị lệ thuộc – nô lệ – vào kinh tế Hoa Kỳ.  Nhật Bản cũng đã viện trợ kỹ thuật và kinh tế cho Liên Xô mở mang Tây Bá Lợi Á, là một thí dụ khác.  Liên Xô đã xáp lại với Hoa Kỳ từ nay để thanh toán món nợ danh dự đối với Tàu và đi dần vào thế tranh chấp toàn diện với Tàu không đội trời chung!

Thế còn Hoa Kỳ?  Hoa Kỳ là siêu vô địch trên cả hai phương diện quân sự và kinh tế ngay giữa chiến trận Việt Nam, và có thừa khả năng để giải quyết toàn thắng trận chiến ý thức hệ này, nhưng họ đã không muốn, vì Hoa Kỳ đặt căn bản chính sách kinh tế trên chiến tranh!  Chiến Tranh Làm Sống Kỹ Nghệ Mỹ, không phải hòa bình!

Trong thời gian chiến tranh Việt Nam, hỏa lực Hoa Kỳ gấp bốn lần hỏa lực của Nga, Tàu cộng lại, và hỏa lực của Hạm Đội Thứ Bảy trên Thái Bình Dương ngoài bể Nam Hải (Bể Đông Việt Nam) mạnh gấp ba mươi lần hỏa lực của tàu Cộng sản.  Thêm vào thế lực vô địch quân sự ấy, nên nhắc lại cho rõ là Hoa Kỳ kiểm soát 75% kinh tế của thế giới tự do.  Với sức mạnh quân sự kinh tế siêu đẳng như vậy ai có thể tính thuần lý rằng Hoa Kỳ đã để cho mình thua trận ở Việt Nam?  Ai có thể nghĩ được như vậy, vì còn vấn đề liêm sỉ, thể diện, danh dự của nước lớn, của đồng minh bất bại?  Chuyện Hoa Kỳ thua trận ở Việt Nam là chuyện không ai ngờ, nhất là Cộng Sản Việt Nam!

Như vậy, câu hỏi thiết thực phải đặt ra là thế này:  Tại Sao Người Mỹ Không Muốn Thắng Trận Ở Việt Nam, Và Tại Sao Họ Muối Mặt Để Cho Nga – Tàu Nhục Mạ?  Phải chăng là nền văn minh Hợp Chúng Quốc (United States Of America) là văn minh đô la?  Một câu chửi bình dân Việt Nam là “Mày chửi mày nghe, ba bốn thằng què dắt mẹ mày đi!”.  Văn minh (?) hơn, Hồng Y Mazarin của Pháp, thế kỷ 17, đã nói rằng: “Cứ để cho họ nói miễn là họ để cho mình làm – Laissez-les dire pourvu qu’ ils nous laissent faire”, đây cũng là phương châm xử thế của Hoa Kỳ.  Những lời lăng mạ hạ nhục của Cộng Sản Nga – Tàu không một mảy may ảnh hưởng gì đến chính sách của Mỹ.

Chiến tranh Quốc Cộng / Tư Bản Cộng Sản / Tự Do Độc Tài ở Việt Nam đã kéo theo chiến tranh Ai Lao, Cao Miên và những xáo trộn xã hội khắp vùng địa dư chính trị Đông Nam Á.  Tất cả Đông Nam Á đều phải cầu cứu đến sự hiện diện của quân lực Hoa Kỳ giúp cho Hoa Kỳ khai mở một diễn tiến thống trị Trung Hoa Cộng Sản về kinh tế theo đường vòng “Tam Quốc”.

Trong chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ đã lấy vồ đập muỗi; ong McNamara đã lãnh bao thầu – công việc đó do Đại Tư bản chủ trương.  Công khai giết Tổng Thống dân cử đầu tiên của Việt Nam để đổ một nửa triệu quân dũng mãnh, trang bị bằng vũ khí tối tân hiện đại nhất (nhưng không cần thiết), và cho phép lực lượng Cộng Sản Bắc Việt Nam cầu viện tương đương với Nga Tàu, Hoa Kỳ đã nuôi dưỡng chiến tranh.  Nhờ chiến tranh Hoa Kỳ đã tạo ra một tình hình thường xuyên gây cấn căng thẳng trong tất cả các nước Đông Nam Á.  Ảnh hưởng của Hoa Kỳ trong vùng này càng ngày càng gia tăng khiến cho Trung Cộng càng ngày càng lo sợ và bắt buộc phải tổ chức một quân đội thật hùng mạnh, hiện đại, để tự vệ.

Ảnh hưởng dây chuyền tạo nhu cầu súng đạn để làm sống kỹ nghệ chiến tranh động đến quyền lực đối đầu bean kia là Liên Bang Xô Viết, và cuộc chạy đua vũ trang chiến tranh nóng bắt đầu náo nhiệt, tưng bừng.  Trong khi đó nam nữ thanh niên Việt Nam chết thảm, con số lên dần hàng triệu, làm tiêu hao sinh lực quốc gia dân tộc!  Các nhà máy Mỹ chạy ngày đêm không ngừng nghỉ, kinh tế Hoa Kỳ phồn thịnh khiến Hoa Kỳ thủ thắng mọi mặt; trong khi đó Á Châu và Đông Nam Á thoái lui trên bình diện nhân sinh, xã hội, kiệt quệ và lệ thuộc kinh tài vào ngoại bang, Thực Dân Mới, Vĩ Đại, Kỹ Thuật Cao!

Sau ba mươi năm gà nhà bôi mặt đá nhau, huynh đệ tương tàn, nhân danh những chủ nghĩa ngoại lai, hợp tác với Cộng Sản, với Thực dân, Tư Bản, rồi hai mươi năm đất nước thống nhất dưới độc quyền cai trị của Cộng Sản, ròng rã nửa thế kỷ của một thế kỷ tân tiến vật chất nhất trong lịch sử nhân loại, khổ nạn của dân tộc Việt Nam không chấm dứt mà còn gia tăng khủng khiếp; kiếp sống con người không bằng giống vật ở những nước văn minh Âu Mỹ, tinh thần đạo hạnh quốc gia dân tộc băng hoại như chưa từng bao giờ thấy trong dòng sinh mệnh Việt Nam nghìn năm!

Nếu bây giờ, ở ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, người ái quốc Á Châu và Việt Nam không hồi tâm nghĩ lại con đường dân tộc mình và vùng địa dư chính trị mình đã qua, nhìn nhận những thiển cận, lỗi lầm, ác độc, nghiệp dữ mình đã làm đối với chính quốc gia dân tộc mình, gia đình mình, xã hội mình, để chứng tỏ cho Nhà, cho Nước, cho Thiên Hạ rằng mình vẫn là con Người có tâm hồn để từ mẫn, có lòng dạ để yêu thương, có đầu óc để suy nghĩ, học hỏi tìm về nhân cách và nhân phẩm, thì thử hỏi Quốc Gia Dân Tộc đi về đâu, tương lai nào đang chờ đón các thế hệ đương thời và mai hậu?

Người Cộng Sản Việt Nam đã nắm chính quyền quốc gia từ hai mươi năm nay do diễn tiến không ngờ của lịch sử, và hiện đang được cả thế giới con buôn muối mặt giao dịch với để khai thác, trục lợi sự ngu dốt, bất xứng, vô khả năng, và tàn bạo của một chính quyền không biết làm một sự gì khác cho quốc gia dân tộc ngoài gây chiến, gây hấn trong quá khứ đối với Người Quốc Gia và lân bang Ai Lao, Cao Miên, bán sinh lực quốc gia sang Tây Bá Lợi Á cho Liên Xô – một nửa triệu người đối lập có tinh thần quốc gia, làm nhân công nô lệ, để trả nợ súng đạn Liên Xô viện trợ – , và giờ đây, trong hiện tại, chỉ biết bán dần mòn tài nguyên và nhân lực quốc gia cho ngoại bang năm châu để vơ vét tiền bạc, vinh thân phì gia, dọn đường trốn chạy ra ngoại quốc một khi bị thời thế và quốc dân đào thải.

Cúi đầu còng lưng ăn mày ăn xin Tư Bản thế giới, chấp nhận làm lính đánh thuê cho Nga Mỹ trong thế Chiến Lược Toàn Cầu / Trật Tự Mới do Nga Mỹ chủ trương để thu thiên hạ về một mối, giúp cho họ phá thế Liên Bang Âu Châu và thế Đại Hòa Á Châu, không phải là một chính sách xứng đáng với Sử Mệnh Việt Thường hiển hách trong khi Âu Châu còn man di mọi rợ.

Lịch sử có nguyên do, nghiệp quả, muốn hiểu lịch sử Việt Nam dưới sự thống trị của Cộng Sản ít nhất cũng phải trở lại tình hình thế giới trong thời gian Quốc Cộng tương tàn tranh đua trên Quê Hương Dân Tộc.

a,  Người Mỹ đích thực đã cư xử ở Việt Nam như những người Thực Dân Mới, xảo quyệt, thâm độc, và quyền năng hơn tất cả những thực dân những thế kỷ trước.  Họ đã lợi dụng Việt Nam và các nước Đông Nam Á để nhắm vào thị trường Trung Hoa, thời gian đó mới gần một tỉ người (800 triệu).

b,   Người Liên Xô và người Tàu Cộng Sản không muốn phải trực diện hơn thua với Mỹ, đã trên thực tế kinh tế chính trị quy hàng Hoa Kỳ, vì Hoa Kỳ vẫn dành cho một thế đứng chư hầu đầy danh dự và lợi lộc.

Hoa Kỳ, Liên Xô,và Trung Cộng trong chiến tranh Việt Nam là những cò mồi, ngư ông thủ lợi.  Liên Xô Trung Cộng thực sự là đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ, Đồng Tình Làm Việc Cho Chính Sách Thực Dân Mỹ.   Trong cái thế chiến lược có tính chất âm mưu tay ba đó, chỉ có hai miền Nam Bắc Việt Nam – Bắc Cộng Sản, Nam Quốc Gia – là coi nhau như những chí tử thù, không đội trời chung, thực tình, khốn nạn thay!

Hai chính quyền Nam, Bắc Việt Nam đều là những chính quyền yếu kém và lệ thuộc ngoại bang.  Như sau chính quyền là dân tộc, dân tộc Việt Nam khôn ngoan và anh dũng nghìn đời, biết nhìn nhận phán xét chính quyền.  Quốc dân ngoài Bắc không theo “Cộng Sản”, quốc dân trong Nam không theo “Quốc Gia”. Quốc dân Việt Nam luôn luôn theo, tình tự dân tộc, truyền thống giống dòng, trọng nghĩa khinh tài, noi gương Anh Hùng Liệt Nữ sử xanh nghìn đời, thờ phụng Tổ Tiên, tự coi mình là con ruột của Cha Trời Mẹ Đất muôn thuở.  Cho nên dân tộc Việt Nam đã trường tồn và vượt thắng tất cả.  Cho đến ngày nay.

Nước Việt Nam trước hoàn cảnh hiện tại:  Việt Nam không thể đơn thương độc mã đối diện với sự tan rã của chủ nghĩa Cộng Sản đã bắt đầu từ Đông Âu và Liên Xô, cũng như trước khí thế hung bạo của chủ nghĩa Thực Dân Mới với nhãn hiệu Trật Tự Mới Toàn Cầu / New World Order – Globalism.  Nhưng nếu Việt Nam biết tự giải thể chế độ Cộng Sản, độc tài, công an trị, và liên kết với khối Đông Nam Á trong viễn tượng một liên bang thì Việt Nam sẽ trở nên hùng cường, giàu có, không thua ai dưới ánh mặt trời.       
 
Các quốc gia Đông Nam Á đã học được bài học Việt Nam bị Cộng Sản dựng lên thành một đoàn quân viễn chinh ở Đông Dương chiếm đoạt, cai trị Ai Lao và Cao Miên, và bị Tư Bản can thiệp chính trị và quân sự để làm guông máy kinh tế chiến tranh, biến Việt Nam thành một thị trường tiêu thụ súng đạn và một lò thí nghiệm vũ khí tối tân với sức giết khủng khiếp.  Các nước Đông Nam Á đã biết tập họp nhau lại thành một thực thể chính trị, kinh tế mới, đã lớn mạnh để tự lực cánh sinh, và trở thành ngang hàng với các quốc gia kỹ nghệ tiên tiến Âu Mỹ và Viễn Đông (Nhật, Đài Loan, Nam Hàn).

Sự tập họp các quốc gia Đông Nam Á, trong viễn tượng, có thể  trở thành một Liên Bang.  Sự vận động này, nếu thành hình được, sẽ là một giải đáp khôn ngoan, dũng mãnh đối với những mưu đồ Giải Pháp Toàn Cầu của Nga Mỹ ngày nay, muốn thâu thiên hạ về một mối trong thế kỷ tới.

Liên Bang Hóa Đông Nam Á không làm cho các quốc gia trong vùng mạnh và giàu ngang với Nga Mỹ, nhưng sẽ biến Đông Nam Á thành một khối chính trị kinh tế trên dưới 500 triệu người.  Hoa Kỳ sẽ cần  đến khối người đó với đầy đủ tiềm năng tự lực và đề kháng trước áp lực của Trung Hoa và, ngược lại, Trung Hoa cũng cần đến họ để kháng cự Hoa Kỳ và chống trả Nga.

Thế giới hiện đang bị động trước một vận động mới của Nga – Mỹ, sự vận động thành hình một “Trật Tự Mới Toàn Cầu”.  Nga Mỹ sẽ thu thế giới về một mối Văn-Minh-Kỹ-Thuật Tây phương, độc quyền kinh tế chính trị, áp đặt lối sống vụ tiền bạc, vật chất, nô lệ hóa dân sinh, nhân sinh vào máy móc kỹ thuật cao đẳng, điều kiện hóa sự sống bằng những chương trình điện toán tinh vi quỹ quyệt, đưa nhân loại xuống hàng chúng sinh tiêu thụ súng đạn, và những đồ dùng không cần thiết cho đời sống toàn diện tâm linh, trí tuệ, tình cảm, vật chất tạo ra những nhu cầu giả tạo, tha hóa con người với thiên nhiên càn khôn vũ trụ.  Trong lịch sử  nhân loại đã có những nền văn minh vật chất kỹ thuật vô Đạo như nền văn minh Tây Phương đang chi phối trái đất ngày nay, đã từng bị hủy diệt qua nhiều nạn Hồng Thuỷ vì Trời Đất không dung.  Không dung vì trái Luật Trời, trái Thiên Mệnh.  Nền văn minh vật chất thượng-bất-chính-hạ-tắc-loạn hiện nay đang ở trong cơ nguy bị hủy diệt, nếu nhân loại không kịp thời chuyển hướng nó.  Rất may thay Cơ Trời đã chuyển cho Á  Châu khả năng chuyển đổi này.

Ở Á Châu, Việt Nam là nước chịu hậu quả nặng nề nhất của những sản phẩm trí tuệ Âu Châu, và dân tộc Việt Nam là dân tộc đã phải trả cái nợ nghiệp quả đau đớn nhất , khủng khiếp nhất.  Việt Nam phải nhân danh những lỗi lầm quá khứ, những kinh nghiệm máu xương đau thương nhất, những ác báo rùng rợn nhất mình đã phải chịu để soi đường cho Đông Nam Á, cho Trung Hoa, cho Ấn Độ, và cho toàn thế giới đâu đâu cũng biết đến chiến tranh Việt Nam, đến những đau khổ không tiền khoáng hậu của Việt Nam, đâu đâu bây giờ cũng có những người Việt Nam, trẻ già, có sức vượt qua mọi trở ngại, mọi thách đố để Nên-Người-Lại, đem kinh nghiệm quá khứ của dân tộc mình đóng góp phần vào xây dựng trả ơn các quốc gia, các dân tộc đã cưu mang, đón nhận hỗ trợ mình trong cơn hoạn nạn.  Dân tộc chúng ta, dòng Việt Tộc Trăm Họ đã trở thành công dân Trăm Nước:  Bách Việt Bách Quốc! – dòng sử mệnh mới khai của dân tộc ta.  Giờ lịch sử  đích thực của Dòng Giống Lạc Hồng đã điểm sau gần năm nghìn năm học hỏi, khổ nhục, bị đàn áp đủ đường nhưng không bao giờ bị tiêu diệt, bởi vì Dòng Giống mình Trời Đất đã an bài cho một Sứ Mạng Lịch Sử – Sứ Mạng Cứu Chuộc, cứu chuộc mình trước, chính mình, rồi qua thức tâm của mình, cứu chuộc bàn dân thiên hạ...

Trong một quá khứ quá dài, quá lâu, dân tộc Việt Nam và những dân tộc Đông Nam Á Châu – một Dòng khác Giống – đã sống đối diện với những nước lớn, với Âu Châu, với Mỹ, nay tự ti mặc cảm, một mặc cảm có lý do, nhưng đã khiến chúng ta bị khai thác triệt đễ, chia rẽ triệt đễ để dễ bề thống trị.  Đông Nam Á đã thất bại vì thiếu nghị lực, và xét cho cùng, thất bại về trí lự, về khả năng suy tư , của giới lãnh đạo.

Ngay từ năm 1970, đã có những người Việt Nam nhận định, phân tích các thế đứng của siêu cường, đã cho rằng trong một tương lai, không xa lắm, Liên Xô sẽ bị loại khỏi vùng địa dư chính trị Đông Nam Á, và bàn cờ chiến lược sẽ chỉ còn lại ba đấu thủ là Chúng Ta – Những Người Đông Nam Á – Trung Hoa và Hoa Kỳ.

Nếu các quốc gia Đông Nam Á biết đứng chung với nhau  trong một thế chiến lược Liên Bang, thì Đông Nam Á Châu sẽ làm chủ được những điều kiện địa dư chính trị và địa dư chiến lược trong vùng, và sẽ có Trung Hoa và Hoa Kỳ là đồng minh thay vì là đối thủ hay quân thù.  Vấn đề là các nhà lãnh đạo Đông Nam Á Châu có đủ minh triết khôn ngoan để tạo điều kiện cho sự hợp tác vì quyền lợi và sự sống còn chung, tác thành Liên Bang Đông Nam Á để tự cứu hay không?

Liên Bang là con đường giải phóng của Đông Nam Á, giải phóng bằng tự cường lớn mạnh, bằng hợp tác thay vì tranh chấp, bằng hòa bình thay vì chiến tranh, bằng mở sinh lộ thay vì mù quáng dấn thân vào lò sát sinh do chiến lược chiến tranh do Siêu Cường chủ xướng, vận động, âm mưu.  Trong vùng địa dư chính trị chiến lược Đông Nam Á, Việt Nam là đầu cầu; các nhà lãnh đạo Việt Nam phải có viễn tượng sáng suốt, và phải dũng cảm khởi xướng, không mặc  cảm.  Nguy cơ của Việt Nam hiện tại là không biết sớm quy định Tinh Thần và Khí Phách quyết liệt, hy sinh quyền lợi nhỏ mọn của cá nhân, gia đình, phe đảng, day lên Đại Nghiệp bằng Đại Nghĩa (hy sinh lớn) cho Quốc Gia Dân Tộc, cho vùng địa dư chính trị chiến lược, cho Đại Lục Á Châu, và từ căn bản đó cho Nhân Loại trong Thế Kỷ XXI, cho Đệ Ngũ Thiên Niên Kỷ Hồng Lạc Bách Việt Bách Quốc.

Dân tộc Việt Nam – nhất là những người tự cho mình sứ mạng lãnh đạo Đất Nước, làm chính trị, làm lịch sử  - phải hết sức cùng nhau chuẩn bị Tâm Hồn, sáng suốt sáng tạo cho Tổ Quốc, Giống Dòng, một khung cảnh hào hùng, độ lượng để sinh sống và vươn lên dưới ánh Mặt Trời.  Đây là “hữu trách” của mỗi người muốn sống có ý nghĩa cao cả, không thẹn với lương tâm, Tiên Tổ, và Trời Đất!

Xin Thượng Đế  ban cho Việt Nam nhiều những người “hữu trách” như vậy!
 

LỜI KẾT


Liên Bang Đông Nam Á – Liên Bang Của Chúng Ta – là một viễn kiến cao vọng hướng về một đối tượng cụ thể để thực thi thăng tiến là:  tăng cường và xúc tiến diễn tiến trưởng thành, đồng tời chủ động cơ cấu chính trị, kinh tế, và quân sự, với mục đích tối hậu giải thoát tiệm tiến con người trong hòa bình và an ninh đảm bảo.

Để thực hiện đối tượng đó, chúng ta phải đem những ý kiến của chúng ta ra thử thách, phải cân nhắc những đề kháng chống đối, hiểu rõ những mục đích, và trước hết phải tranh đấu để giành quyền thông tri cho quần chúng về những hoạt động của chúng ta.

Cương vị chúng ta muôn đề nghị với các nhà lãnh đạo quốc gia và chính trị gia không phải là cương vị độc đoán, độc tài, phe đảng.  Chúng ta phủ nhận chủ nghĩa Cộng Sản bởi vì chủ nghĩa đóù hãm con người, không hiến cho con người cơ hội tự tu tự tiến; chúng ta cũng chối bỏ, lên án chủ nghĩa Tư Bản theo quan niệm hiện hữu bởi vì trong hệ thống Tư Bản con người chỉ được đối xử bằng đồng tiền tiền lương, bằng lợi tức, bằng đẳng trật xã hội vật chất tài sản; con người không được kính trọng trong phẩm hạnh xây doing gia đình, tự tu tự tiến, giáo dục con cái cho nên người đức hạnh, hữu ích về toàn diện tâm linh, tình cảm và trí tuệ; và vận mạng con người cũng không được đếm xỉa tới trên bước đường hướng thượng tiến hóa chung của loài người,là tiến từ nặng lên nhẹ, từ trọng trược lên thanh cao, từ vật chất lên tinh thần, từ trọng lượng lên tinh lực.

Chúng ta trực diện với hoàn cảnh hiện hữu của xã hội, với những vấn đề trầm trọng, tưởng chừng như nan giải, để tu sửa dần dần, cải tiến dần dần, tiệm tiến nhưng vững chắc.  Thời gian sẽ làm việc cho chúng ta, yếu tố thời gian, lòng kiên trì nhẫn nại rất quan trọng, bởi vì thời gian và lòng kiên nhẫn là Tinh Lực / Energy.

Chúng ta không chấp nhận làm Cách Mạng đốt thời gian, đốt giai đoạn bằng loạn động và sắt máu:  chúng ta đặt Trọng Tâm Cuộc Cách Mạng Của Chúng Ta trên tu tâm sủa tính, trên đức độ, tự chế, trên bổ phận, nghĩa vụ đối với bản thân, gia đình, quốc gia xã hội, và thiên hạ.  Chúng ta tranh đấu cho Dân Tộc Đất Nước chúng ta, nhưng chúng ta cũng tranh đấu cho những anh em láng giềng cùng chung với chúng ta một nền văn hóa tâm linh, và một quá khứ lệ thuộc ngoại bang, chịu nhiều ảnh hưởng băng hoại của nền văn minh vật chất kỹ thuật Tây Phương.  Chúng ta tranh đấu cho lý tưởng Vạn-Thù-Quy-Nhất-Bản hướng thượng, về Trời, để thể hiện một Liên Bang Đông Nam Á, tạo thế Đại Hòa Á Châu, rồi từ Á Châu thái hòa trong Thiên Hạ.

Chuyện đấu tranh cho lý tưởng là chuyện Đại Sự, cần phải có Đại Nghĩa.  Tương Lai và Sống Còn của Việt Nam và các quốc gia (nhỏ) trong vùng địa dư chính trị chiến lược Đông Nam Á là kết hợp lại với nhau để trở thành một thực thể chính trị kinh tế có thực lực, đủ sức đề kháng đối với Trung Hoa và Hoa Kỳ, và có thế đứng quân bình hóa cán cân lực lượng ở Đông Nam Á, vì Đại Nghĩa phải biết hy sinh những quyền lợi nhỏ, và phải hết sức dũng cảm sử dụng những tư tưởng chiến lược, và những phương tiện lớn – Tâm Linh, Tinh Thần, Trí Tuệ – nếu không muốn diệt vong vĩnh viễn.

Khái niệm địa dư chính trị chiến lược Liên Bang Đông Nam Á là một khái niệm của Quốc Gia Việt Nam không Cộng Sản khởi nguyên từ ngày mồng 5 tháng 5 năm 1969 ở Sài Gòn, áp dụng và thực thi tư tưởng minh triết chiến lược của nhà tư tưởng triết học chính trị Trần - Minh Tiết (1918 – 1990), người đã được Ủy Ban Quốc Gia Vận Động Giải Nobel Hòa Bình năm 1972 đề nghị là Ứng Viên Giải Nobel Hòa Bình năm ấy – một năm lạ lùng thay giải thưởng này được giữ lại để năm sau, năm 1973, trao cho Henry Kissinger và Lê Đức Thọ trong một âm mưu Tư Bản / Cộng Sản, chung sức nhau đào mồ chôn sống một Đồng Minh Anh Hùng của Hoa Kỳ!...

Khái Niệm Liên Bang các quốc gia Đông Nam Á đã được đi trước khái niệm Hợp Nhất Âu Châu trong tư tưởng và phong trào chính trị.  Khái niệm đó, cuộc vận động lịch sử đó, tiền phong trong lịch sử cận kim, đã bị Hoa Kỳ và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lờ đi và cố hết sức nhận chìm, nhưng đã được một số các nhà lãnh đạo Đông Nam Á như Cựu Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc U Thant, Cựu Quốc Trưởng Mã Lai Á Abdul Rahman, Cựu Hoàng Norodom Sihanouk Quốc Trưởng Cambodge, tán thưởng bằng văn thư.

Khái Niệm Liên Bang Đông Nam Á là một lý tưởng và một viễn tượng công chính cao cả, có thể ví biểu tượng như một cây đa, cây đề, rễ rất sâu – tự đáy lòng dân tộc – để có khả năng vươn lên thật cao tỏa bóng mát và dưỡng khí đem lại sự sống cho người dân.

Thời điểm đã đến lúc để cùng với nhau các dân tộc Đông Nam Á hướng thượng, trông lên, để sống lại, toàn diện, mãnh liệt, không mặc cảm.

Liên Bang Đông Nam Á sẽ là bản hùng ca, tiếng kèn rạng đông của một phần quan trọng của Á Châu với nay đủ tài năng, đức tính lập quốc, kiến quốc mới, mở rộng biên cương lớn mạnh, góp phần xây dựng cảnh Thái Hòa vào Thế Kỷ XXI / Đệ Ngũ Thiên Niên Kỷ Lạc Hồng.

Chúng ta có Thiên Thời và Địa Lợi:

Việt Nam đã thống nhất;  nhưng chủ nghĩa Cộng Sản đã tự hủy bên trời Âu và đang rẫy chết ở Viễn Đông;  chính quyền Cộng Sản Việt Nam đang tan rã vì ác độc, bất nhân nghĩa, bất tài, bất xứng;
Nước Nga đã bị loại khỏi vùng Đông Nam Á và đang níu kéo Tư Bản Mỹ để sống còn;
Các đấu thủ còn lại chỉ còn Trung Hoa, Mỹ và các quốc gia Đông Nam Á.

Đây là thời cơ thuận tiện nhất cho Đông Nam Á trở thành một thực thể chính trị mà Trung Hoa và Mỹ phải quan tâm tới.  Đây cũng là thời cơ thuận tiện nhất cho các lực lượng tranh đấu ở ngoài nước / quốc ngoại vận động giải thể Cộng Sản để cho nhân tài măng trẻ đầy đủ khả năng trở về  giúp nước, bắt đầu bằng những hợp tác, vận động văn hóa, giáo dục, kinh tế, chính trị, xã hội với các nước Đông Nam Á láng giềng của Việt Nam.

Quốc gia Việt Nam, Dân Tộc Việt Nam đã thua quân sự ở Việt Nam vì Hoa Kỳ, nay là lúc Mở Hội cho Quốc Gia Dân Tộc Việt Nam chiến thắng Hòa Bình.  Nhân tài Bách Việt ở Bách Quốc trong thiên hạ hiện nay không thiếu, thiếu chăng là một Chiến Lược Hòa Bình Tất Thắng / Nhân Hòa.  Cho đến bây giờ những mục tiêu đấu tranh của các đoàn thể chính trị ngoài nước vẫn không ngoài chiêu bài / khẩu hiệu như Giải Thể Cộng Sản, Đa Đảng Đa Nguyên, Dân Chủ Nhân Quyền...tiệt nhiên chúng ta không có Chiến Lược Chính Trị.  Chúng ta vẫn chỉ biết vận động với chính phủ Mỹ, và đã quên bài học “Đồng Minh Mỹ ở Việt Nam Cộng Hòa!  Mỹ đã bỏ rơi chúng ta – cái thứ “đồng minh” vô dụng – mặc cho quốc gia Mỹ, dân tộc Mỹ thân bại danh liệt; và chúng ta – những tinh thần quốc gia dân tộc truyền thống – chúng ta đã mất Đất Nước Văn Hiến nghìn đời cho Cộng Sản – một thứ cướp ngày mới, cõng rắn cắn gà nhà, chôn sống dân chúng và đào mả anh hùng liệt sĩ!

Chúng ta hiện đã có Thiên Thời, Địa Lợi, chỉ thiếu có Nhân Hòa.  Để tạo yếu tố Nhân Hòa thiếu thốn này, chúng ta cần đến một chiến lược chính trị thời đại – một Chiến Lược Hòa Bình để thay thế Chiến Lược Chiến Tranh của Hoa Kỳ - ; một chiến lược Việt Nam để thay cho những chiến lược ngoại bang; một chiến lược Đông Nam Á để thay cho chiến lược Trung Hoa hay chiến lược Hoa Kỳ; một chiến lược Á Châu thay cho chiến lược thực dân Âu Châu hay chiến lược Tư Bản Mỹ.

Đồng minh với Hoa Kỳ chúng ta đã thua trận ở chiến trường.  Cuộc đấu tranh của Dân Tộc Việt Nam không dừng ở đó trên đường dài sinh lộ của Tổ Quốc.  Tất cả dân tộc chúng ta còn phải tranh thủ cho hòa bình, yên vui trở lại thực sự và lâu dài trên Quê Hương để thăng tiến bằng thiên hạ.  Chúng ta phải tự tạo cho mình một khung cảnh hòa bình tiến bộ mới tìm những đồng minh mới để hóa giải mọi âm mưu của Trung Hoa và Mỹ.  Chúng ta, những người Bách Việt hiện đang kinh qua, học hỏi và suy nghiệm nơi Bách Quốc Năm Châu Bốn Bể, phải lãnh nhiệm vụ sửa soạn cho bước đường tiến tới của Đất Nước Dân Tộc trong những năm tới của Thế Kỷ XXI.

Dân tộc Việt Nam đã thua Cộng Sản vì Tư Bản.  Đây là Bài Học Đắt Giá Nhất mà dân tộc đã phải trả trên đường tranh đấu giữ gìn gia sản tinh thần và mảnh dư đồ Quê Hương Tổ Tiên, Anh Hùng Liệt Nữ đã để lại.  Bài Học Lịch Sử này chúng ta bắt buộc phải thuộc nằm lòng:  Cộng Sản với Tư Bản Chỉ Là Một!  Chính Tư Bản đã sinh ra và nuôi dưỡng Cộng Sản, để vào cuối thế kỷ XX này hòa với nhau làm một như hai mặt phải trái giáp lại với nhau – hai phương diện của một nền văn minh đang tàn lụi, nền văn minh vật chất, kỹ thuật giết người, hủy diệt sinh linh trên mặt địa cầu. 

Dân Tộc Việt Nam, Đất Nước Việt Nam không thể sống chung với Tư Bản / Cộng Sản được, vì cả hai đều mở cho Dân Tộc ta duy nhất một cửa:  Ấy là Cửa Tử! Dân Tộc Việt Nam phải biết tự mở cho mình Cánh Cửa Sinh dẫn vào Sinh Lộ.  Cánh cửa đó, con đường đó rất có thể vì hợp tình hợp lý, hợp thiên thời địa lợi, là Liên Bang Các Quốc Gia Đông Nam Á.  Người viết bài này xin hết sức Tâm Thành, Khẩn Khoản gợi ý này đạo đạt đến các Nhà Ái Quốc  Công Chính, các Chính Trị Gia, các Nhà Văn Hóa Giáo Dục, các Chiến Lược Gia Việt Nam và Đông Nam Á, với Hy Vọng và Thành Khẩn nguyện cầu Chúng Ta Ngồi Được Với Nhau trên một chiếu, và hướng tâm cùng về một Chân Trời Mới, huy hoàng, xán lạn cho tiền đồ chung của tất cả chúng ta, đối phó với hiểm họa không tiền khoáng hậu trong Lịch Sử Nhân Loại gây nên bởi những Siêu Cường Vô Luân, Vô Đạo, Ác Dộc Thâm Sâu.
 
Đề nghị của người viết bài này phải chăng là một Ảo Tưởng?  Một chuyện Đội Đá Vá Trời?  Chúng ta không bắt buộc phải tin rằng một thành công vĩ đại bắt buộc phải toàn hảo, trên quan niệm và trong hiện thực chi tiết; chúng ta chỉ cần  Dũng Cảm Đứng Lên, tiến tới, rồi sự toàn hảo toàn bích sẽ đến với chúng ta.

Mọi chuyện đều khó nếu chúng ta chống đối nhau.  Tất cả sẽ thực dễ nếu chúng ta Chung Sức, Đồng Tâm đoàn kết nhau thành một Khối Nhất Trí.

Đất nước Việt Nam đang trực diện với những vấn đề nan giải vì những lỗi lầm quá khứ, vì chiến tranh do Cộng Sản / Tư Bản đồng lõa chủ mưu, khởi xướng, khiến chúng ta lệ thuộc vào họ:  chống Tư Bản phải lệ thuộc Cộng Sản / chống Cộng Sản phải lệ thuộc Tư Bản.  Đường lối, chính sách quốc gia là Đường Lối Cộng Sản hay Tư Bản, và chưa bao giờ có đường lối chính sách Việt Nam!  Chúng ta cần nhìn xa trông rộng, biết đưa ra những cải cách tuần tự, công chính và bao quát, rộng lượng, đem lại lý tưởng cho dân tộc, nhất là cho tuổi trẻ nhiệt huyết, hướng thượng.

Chúng ta ngày nay phải đối diện với dư phái Cộng Sản cùng với chủ trương không cần che giấu, toàn cầu, của Tư Bản, muốn thu hết tài nguyên của trái đất , và ban phát sinh tử cho toàn thể thiên hạ, với những cuộc chiến tranh càng ngày càng khủng khiếp bạo tàn, được gây ra theo kế hoạch để Tư Bản đã giàu lại giàu thêm và dân nghèo khắp thế giới đã nghèo cứ nghèo thêm!

Việt Nam, Đông Nam Á Châu, Toàn Thể Châu Á, Toàn Thể Thế Giới phải vận động hòa bình bằng hết sức mình, trí lực, tinh thần, đạo đức; phải bằng đủ mọi giá tránh chiến tranh vì chiến tranh đưa đến nghèo khổ, bần cùng và xáo trộn trật tự xã hội.  Việt Nam và Đông Nam Á phải trở nên giàu mạnh, chỉ có hòa bình mới có thể giúp cho mục tiêu công chính, nhân đạo đó thực hiện được.  Chỉ có hòa bình mới là con đường khai mơ, tiết lộ huyền cơ của Đất Trời trong Thiên Niên Kỷ Mới, đem lại An Vui, Phồn Thịnh, Phúc Hạnh cho chúng ta và cho tất cả.

Theo huyền sử và cổ sử Bách Việt, năm mươi phần trăm / một nửa dòng tộc Việt theo Cha là Quốc Tổ Lạc Long Quân xuống Bể Đông / Thái Bình Dương ngày nay.  Các dân tộc hải đảo Thái Bình Dương cũng thuộc về huyền sử, cổ sử đó.  Ngày nay, sau hơn bốn nghìn năm Nhất Bản Tán Vạn Thù, chính là thời điểm phục hồi, để Vạn Thù Quy Nhất Bản trong thế địa dư chính trị chiến lược Liên Bang Đông Nam Á cho huyền cơ Đất Trời thể hiện, đem quân bình lại cho Á Châu, và đại hòa cho Thế Giới.

Huyền cơ kỳ diệu này cũng ứng vào lời phát biểu tiên tri của nhà chính khách lỗi lạc Hoa Kỳ, ông N. P Banks, ngày 22 tháng 7 năm 1968, khi ông cảnh cáo Quốc Hội Mỹ vào dịp nước Nga bán Alaska cho Hoa Kỳ rằng:  “Thái Bình Dương sẽ chứng kiến sự huy hoàng của nền văn minh tương lai.  Chính trên đại dương này những thể chế tương lai sẽ được rèn luyện và vận mạng thế giới sẽ được xây dựng.  Khi đó, không còn ai nói đến nền văn minh Âu Châu hay vận mạng Âu Châu nữa, bởi vì một nền văn minh mới cao cả hơn, một vận mạng đáng quý hơn sẽ ra đời.”.

Nước Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á là trung tâm của Thái Bình Dương.  Huyền sử, cổ sử Việt Nam đã rao truyền và lời tuyên bố tiên tri của ông N.P Banks đã ứng vào đó.  Hoa Kỳ đã quay lưng lại Âu Châu và quay mặt sang Thái Bình Dương có vẻ như Thấy Sang Bắt Quàng Làm Họ!  Sự phối hợp cơ duyên hiện tại rất đáng kể để các chính khách và chính trị gia chúng ta suy nghiệm dấn thân, lần này – lần chót – vào Công Cuộc Cứu Quốc Thực Sự và Mở Dòng Sử Mệnh.

Nước Đại Nam Bách Việt muôn năm!
Liên Bang Các Quốc Gia Đông Nam Á muôn năm!
(Viết trong ngày 30 tháng 4 năm 1995 / Ất Hợi)

Hoàng Văn Đức

Cảm Tạ Tri Âm

Bản văn Khơi Dòng Sử Mệnh này có sự đọc trước, góp ý và tán đồng của hai bạn Nguyễn Tân Trãi và Nguyễn Lan Hinh.
Xin hai bạn nhận nơi đây lòng quý mến và biết ơn của tác giả. 























 
Kiều Mỹ Duyên, Đại Hội Quân Nhân Người Mỹ Gốc Việt Năm 2024
Đại hội quân nhân người Mỹ gốc Việt năm 2024 được tổ chức lúc 5 giờ chiều chủ nhật, ngày  27/10/2024 tại Great Wolf Lodge, 12681 Harbor Blvd., Garden Grove, CA 92840.           Các chiến sĩ Hoa Kỳ hưu trí cũng như hiện tại đến trước giờ khai mạc, cùng nhau trò chuyện một cách vui vẻ. Quân nhân trong bộ quân phục oai nghi không kém gì lúc ở chiến trường, bên cạnh người chiến sĩ nào cũng có bóng dáng giai nhân. Nếu người đó có gia đình hoặc có cha mẹ thì cha mẹ cũng hiện diện bên cạnh con của mình. Đó là niềm hãnh diện của gia đình có con là chiến sĩ Hoa Kỳ, cũng như ngày xưa ở Việt Nam mỗi lần đón chào đoàn quân chiến thắng trở về thành phố.
Tòa soạn
Do công ty Saigon News LLC thực hiện
Editor-in-chief: HOÀNG DƯỢC THẢO
Director of Marketing: ANDY TRƯƠNG
Với sự cộng tác của: LÊ TẤT ĐIỀU, HOÀNG NGỌC NGUYÊN, NGUYỄN THỊ CỎ MAY, TRẦN TRỌNG HẢI.

Email: saigonweeklyonline@gmail.com

Thư từ bài vở: 702-389-5729

Quảng cáo: 702-630-0234

702-426-4404

Hotline: 702-426-4404

back top