• MỖI NGÀY MỘT BÀI VIẾT Tưởng Niệm Tháng 4 Đen của VNCH • Nguyễn Lương Tuyền: Người CSVN và một thế kỷ DIỆT CHỦNG TỘC VIỆT,

• MỖI NGÀY MỘT BÀI VIẾT
Tưởng Niệm Tháng 4 Đen của VNCH

 

Nguyễn Lương Tuyền

 

Khoảng thập niên 20’s, Hồ Chí Minh và các đồng chí của y, theo lệnh quan thầy Cộng Sản Quốc Tế, nguyện làm những tên lính tiên phong quyết tâm nhuộm đỏ toàn nước Việt, nhuộm đỏ toàn vùng Đông Nam Á bằng bạo lực, bằng máu và nước mắt của dòng giống Lạc Hồng. Hiện nay bọn Cộng Sản đã hoàn toàn ”Cộng Sản hóa Việt Nam”. Trên thực tế, cho tới ngày nay, trong gần một 100 năm (từ 1920 tới 2017), Cộng Sản Việt Nam đã và đang tiến hành diệt chủng, tiêu diệt dân tộc Việt.

Câu chuyện dẫn nhập

Khoảng giữa tháng 4/2017, nhân dân Xã Đồng Tâm ở ngoại ô của Thành Phố Hà Nội đã nổi dậy phản đối nhà cầm quyền CS Hà Nội đã chiếm giữ một cách bất hợp pháp, không lý do đất đai của Xã. Dân chúng đã bắt giữ làm “con tin” 38 Viên chức, Cảnh Sát Cơ Động của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam.

Sáng ngày 22/4, Nguyễn Đức Chung, Chủ Tịch UBNDTP Hà Nội “đối thoại (!)” với người dân. Ông Nguyễn Đức Chung đã có bản cam kết viết tay gồm 3 điểm: trong đó điểm 2: không truy tố trách nhiệm hình sự đối với người dân Xã Đồng Tâm.

Tưởng như mọi sự đã tạm yên sau khi các Viên chức của chính quyền, Cảnh Sát Cơ Động được đồng bào trả tự do.

Lúc đầu, Ông Chung muốn người đại diện Xã Đồng Tâm lên gặp ông nhưng người dân Đồng Tâm đã từ chối, đòi hỏi Ông Chung phải đến Xã Đồng Tâm gặp nhân dân. Ông Chung phải ép lòng đến Xã. Ông đến Xã Đồng Tâm với một phái đoàn hùng hậu gồm: 3 Đại Biểu Quốc Hội (Đỗ Văn Trung, Lưu Bình Nhưỡng và Dương Trung Quốc) và 1 Tướng Công An từ Hà Nội. Ông Chung và 3 Đại Diện Quốc Hội cùng 1 Luật Sư cùng ký vào Bản Cam Kết.

Ngày 13/6/201, trái với cam kết do Ông Chung và 3 Đại Diện Quốc Hội ký, Công An Hà Nội đã quyết định truy tố hình sự người dân Xã Đồng Tâm. Đồng thời Đoàn Thanh Tra đến từ Hà Nội, sau khi nghiên cứu (?) đã kết luận đất Thị xã Đồng Tâm là đất Quốc Phòng. Người dân Đồng Tâm đã cư ngụ bất hợp pháp (?) trên đất của Bộ Quốc Phòng. Lật lọng, dối trá, lưu manh là “nghề” của CS từ xưa tới nay. Lời nói của Cựu TT Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu đã trở nên 1 chân lý: “Đừng nghe những gì CS nói, mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm”. Đó là một thí dụ điển hình về bản chất dối trá, lật lọng, bịp bợm, lưu manh lường gạt… của người Cộng Sản Việt Nam. Thế nhưng, họ luôn luôn đề cao cái mà họ gọi là “Đạo Đức Cách Mạng của Người Cộng Sản”. Đạo đức kiểu gí đây? Hỡi các đồng chí! !, người ta tự hỏi.

Nhìn lại vài khuôn mặt trong đám cầm đầu của Cộng Sản Việt Nam.

Những tên “đầu sỏ” trong đám cầm đầu Đảng CS Đông Dương và sau này là Đảng CS Việt Nam, phần lớn là những tên thất học hoặc ít học, những tên du thủ du thực, ba que xỏ lá, đá cá lăn dưa. Những tên này đang ngự trị trên quê hương VN… với toàn quyền ăn cắp, giết người.

Hồ Chí Minh: Hồ học chưa hết bậc Tiểu học. Năm 1911 Hố xuống tầu của Pháp làm phụ bếp sau khi bị Trường Hậu Bổ ở Huế (trường đào tạo học viên để ra làm quan) từ chối đơn xin nhập học của y (các đồng chí bịa ra là: Bác ra đi tìm đường cứu nước(!).

 

https://lh3.googleusercontent.com/XEkNVzOiGcAJQ-xZYbIl6FIoif0SenRHIEnI0RloCkeLtSjS7YZL8dIHdgs9DTpHrMTUdidXsyT00cTg8smND6HVKpDPzSAM5DvuUwl99qbZR35UNPmedFxLEAHPHW44XNAcPVbWA4Rpj2F2Sw

Tàu La Touche -Tréville của Pháp nơi Hồ làm phụ bếp (Hình Internet) 

Có lẽ Hồ học tiếng Pháp kiểu truyền khẩu qua các nhân viên nhà bếp trên tàu (thường là dân giang hồ tứ chiếng, đến từ khắp mọi nơi) nên khả năng tiếng Pháp của Hồ là tiếng “Tây bồi” của những người ít học, tuy là tiếng “bồi” nhưng cũng rất yếu kém- Bằng chứng là khi Hồ trả lời phỏng vấn của 1 Nữ ký giả Pháp, được phổ biến trên Youtube, tiếng Pháp rất “bồi” của Hồ lộ hẳn ra. Khi ở Pháp, Hồ được quí ông Phan Chu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Phan văn Trường, Ta Thu Thâu, Nguyễn An Ninh… thuộc nhóm LA LUTTE cho tá túc. Không hiểu vì lý do gì Hồ – với khả năng tiếng Pháp bậc Tiểu Học- lại được đại diện nhóm để đọc bài tham luận do nhóm này soạn thảo bằng tiếng Pháp: Le procès de la colonisation francaise, tại 1 Hội Nghị quốc Tế CS ở Thành phố Tour, Pháp. Nhóm La Lutte khi viết tham luận thường lấy tên chung là Nguyễn, Le Patriote (Nguyễn Ái Quốc). Hồ bèn lanh lẹ “thuổng” ngay cái tên đó cho thành tên của y là Nguyễn Ái Quốc cho tiện bề lường gạt mọi người. Các “đồng chí CS”, cho tới bây giờ, vẫn suýt xoa ca tụng tài hùng biện, nói tiếng Pháp của Bác. Bức hình Hội Nghị có hình của Hồ, được các đồng chí trân quí còn hơn 1 bảo vật quốc gia.

Hồ Chí Minh là tên đại bịp, đại gian ác, khát máu, dâm đãng đến độ trụy lạc tình dục (perversion sexuelle) và rất hiếu sắc nhất là đối với các bé gái thuộc dân tộc thiểu số (hãy nhìn cách Hồ ôm, hôn môi nút lưỡi các cháu gái). Năm 1958, Hồ sang Nam Dương (một nước Hồi Giáo) dự Hội Nghị Bandung, Y lại giở trò hôn môi các cô bé người bản xứ khiến báo chí Nam Dương phải kêu lên: President Hồ, stop kissing those little girls!. Nếu Hồ sống ở các nước Tây Âu, Hồ sẽ bị kết tội ấu dâm (pedophilia). Hồ có tên trong danh sách các tên đồ tể, diệt chủng trên thế giới của thế kỷ thứ 20…

 

https://lh5.googleusercontent.com/VTPlvRFRu-O8ZMhNz5Jtf5eaNcrJ8MGcMvi4yPrSuFSQaEy2aQIr6J6SgWtbgF8y8rV46uJS52Svamhb-w23Ur_bKYcfhXFFRJVhWd-X2iYaVb7Gs0Ay-v04UTNfp7ytmvhO8BDTt8ebn5hCZQ

https://lh5.googleusercontent.com/wKzUzb5dTGo4LZtPifaL_5qpYtjVwLSZGs1jO1byZN1FMMRcO65SRJpJR5dQ5ingBSeh9_6cyf3ApcLUEUNQ3fNpsGol2wfhSY_j92nVKmmP6LpXQRGRhXNJTpPUpc1pni4cf2hzbW6aFD1LLA

Tờ Ba Lan Thời Báo (Polaska Times), trong số xuất bản ngày 15/3/2013, đã kể tên 13 nhà độc tài khát máu nhứt (Blood thirsty dictators) của thế kỷ thứ 20. Trong nhóm “select” đó, có Hồ Chí Minh của VNCS. Hồ được xếp ngang hàng với các tên đồ tể khác như Mao Trạch Đông, Hitler, Staline…

https://lh5.googleusercontent.com/ciNZ2kAn6pxA5zvOK_cQvllwuVS0Me7iaD7zxsOL7HrBDAf95r0Embm0SsVIZHNoFXU6PDRPzzN6SlTSsnDVXReImDaKbTYRHNVda6JZLcy91q4Xj6r2u_r10lChn3kLX8kyxJovm6kgRrZwkQ

Hồ Chí Minh of Việt Nam: cool blood mass murder of his countrymen

Trong đám đệ tử theo Hồ, chỉ có Võ Nguyên Giáp tốt nghiệp Trường Luật, nhưng chỉ đi dậy Sử bậc trung học tại Trường Tư thục Thăng Long của Đặng Thái Mai ở Hà Nội. Đặng là Cha của Collette Đặng Thị Hà, người vợ thứ hai của Giáp. Võ Nguyên Giáp là người độc nhứt được phong Đại Tướng dù chưa bao giờ theo học và tốt nghiệp tại một Trường Quân Sự nào (Xin đọc bài: VNG, thiên tài khốn nạn của quê hương). Chế độ CS giỏi về tuyên truyền loè bịp nên đã đánh bóng, đưa VNG lên “ngôi” Đại Tướng. Người ta nói rằng tuyên truyền của CSVN có thể biến một tên vô học về quân sự, thậm chí biến một con chó thành Đại Tướng. Mọi người vẫn tin và theo). VNG là một tên hèn, quá hèn. Khi Y bị đám Lê Duẩn, Lê Đức Thọ đầy ra làm về kiểm soát sinh đẻ, Y ngoan ngoãn vâng lời. Y im lặng khi các đàn em bị nhóm Duẩn, Thọ cho vào tù. Theo Bùi Tín: sở dĩ Giáp được nhóm trên để yên vì Giáp “biết thủ”. Người dân nhìn vào Giáp-người hùng Điện Biên Phủ (?)-như sau:

Ngày xưa Đại Tướng cầm quân

Ngày nay Đại Tướng cầm quần chị em.

Ngày xưa Đại Tướng công đồn

Ngày nay Đại Tướng công l… chị em

Tuy bị Lê Duẩn ”hạ xuống đất đen”, VNG là người ham danh nên lúc nào cũng ”diện ” bộ quân phục Đại Tướng đầy lon lá, kể cả khi y đến gập các phụ nữ để nói chuyện về hạn chế sinh đẻ, thậm chí cả khi nằm nhà thương trong những năm tháng cuối đời.

Những tên khác như Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Thọ, Tôn Đức Thắng, Tố Hữu Nguyễn Văn Lành… đều không học quá Bậc Tiểu Học. Tố Hữu nổi tiếng là “Thi sĩ Cung Đình của chế độ” với những câu thơ đằng đằng sát khí, đầy tính chất sát nhân khát máu:

Giết, giết nữa bàn tay không nghỉ

Cho ruộng vườn, hương lúa được bền lâu

Thờ Hồ chủ tịch, thờ Staline bất diệt.

Lê Đức Anh – sau lên làm Đại Tướng rồi Chủ Tịch nước – xuất thân là phu cạo mủ cao su thất học, làm việc tại 1 đồn điền cao su ở Miền Nam. Cũng như Văn Tiến Dũng có gốc gác là 1 anh thợ dệt vô học ở Hà Đông. Sau Dũng lên tới chức Đại Tướng, Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng của CSVN. Phùng Thế Tài, Trần Quốc Hoàn là 2 tên du thủ du thực, vô học. Tài làm hộ vệ cho Hồ. Sau năm 1954, Tài lên tới chức Thượng Tướng, Chỉ Huy Trưởng Không Quân của Miền Bắc. Trần Quốc Hoàn làm Bộ Trưởng Bộ Công An đầu tiên của CSVN từ năm 1952 cho tới khi chết năm 1986, Đó là một Bộ Trưởng Công An nổi tiếng là tàn độc cho tới ngày về hưu. Y là cánh tay mặt của Lê Đức Thọ trong vụ án nổi tiếng “Âm mưu chống Đảng”, vụ án làm các thành phần khác nhau trong Đảng run lên vì sợ. Nhiều người nổi tiếng, nhiều người cầm bút v.v… đã bị Thọ và Hoàn cho nếm cảnh đầy đọa, tù tội như TS Nguyễn Mạnh Tường, Triết gia Trần Đức Thảo….

CSVN: là hiện thân của dối trá, bịp bợm, lường gạt
trong gần một thế kỷ cho tới tận bây giờ

Với thành phần “đào kép” lãnh đạo vô học, vô giao dục… như vậy, người ta không mấy ngạc nhiên về bản chất lưu manh, dối trá của CSVN- lưu manh và dối trá cho tới giờ phút này.

Danh từ VẸM (tức Việt Minh) dùng để gọi tắt những người CSVN ngay từ thời chiến tranh chống Pháp. “Nói dối như VẸM” là câu ví von của đồng bào tả rõ bản chất dối trá của người CSVN. Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông, theo lệnh của CS Quốc Tế, đã vào VN từ thập niên 20’s trong tiến trình bành trướng của chủ nghĩa Mác Xít- Lênin nhưng mãi đến năm 1930, Đảng CSVN mới chánh thức xuất hiện trên vũ đài chánh trị ở VN.

Ngày 6/1/1930, Nguyễn Ái Quốc (tức Nguyễn Tất Thành, tức Hồ Chí Minh…) cùng các đồng chí đã triệu tập một Hội Nghị của các người CSVN tại Hương Cảng. Hội nghị kéo dài cho tới ngày 8/2/1930. Hội Nghị quyết định lập một Đảng CS duy nhứt lấy tên là Đảng CSVN. Sau đó đến tháng 10 cùng năm, Đảng trở thành Đảng CS Đông Dương do Trần Phú làm Tổng Bí Thư.

Phong Trào nổi dậy 1930-1931 được Đảng CS lãnh đạo, trong đó có Phong Trào Sô Viết Nghệ Tĩnh, nhưng bị Pháp đàn áp dữ dội. Từ năm 1931 cho tới năm 1945, tùy thuộc các cuộc kháng chiến tại các địa phương, các nhóm gốc CS tại địa phương đều mang những tên khác nhau. Tháng 11 năm 1945, Đảng CS Đông Dương của Hồ tuyên bố tự giải tán, để làm bớt sự nghi kỵ của dân chúng về bản chất CS của Đảng. Thay vào đó, Đảng CS biến thành Hội Nghiên Cứu Mac Xít do Trường Chinh làm Chủ Tịch. Trên thực tế, Đảng CS vẫn hoạt động bí mật, giữ vai trò lãnh đạo chính quyền và điều hành việc “Cộng Sản hóa” dân Việt, núp sau chiêu bài kháng chiến chống Pháp, dành độc lập cho quê hương.

Năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ 2 chấm dứt với phần thắng trận về phía Đồng Minh. Tại VN, một Chính Phủ Liên Hiệp được thành lập. Đất nước bấy giờ mang tên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hồ Chí Minh, lãnh tụ của Việt Minh (tên viết tắt của Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội: một liên hiệp các đảng phái khác nhau ở VN lúc bấy giờ) được làm Thủ Tướng của Chính Phủ, Nguyễn Tường Tam (Đại Việt), tức Nhà Văn Nhất Linh, làm Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao.

Hội Nghị Fontainebleau giữa Pháp và VN được diễn ra vào tháng 7 năm 1946. Phạm Văn Đồng là Trưởng Phái Đoàn VN. Hội Nghị, sau hơn 2 tháng họp, đã không đi đến một kết luận nào. Lúc đó, Hồ đang ở Pháp nên y bèn “đi cửa sau” khẩn khoản xin ký một Tạm Ước (Modus Vivendi) – một Tạm Ước phản quốc – vào ngày 11/9/1946 với Bộ Trưởng Pháp Maurius Moutet. Tạm Ước này là khởi đầu đưa đến chiến tranh Việt-Pháp vài tháng sau đó vì Tạm Ước cho phép Quân Đội Pháp trở lại VN. Đó là việc bội phản của Hồ Chí Minh và Đảng CSVN đối với quê hương. Đó là khởi nguồn của cuộc Chiến tranh Đông Dương kéo dài từ năm 1946 cho đến năm 1954, cũng là năm đất nước bị chia đôi ở Vỹ Tuyến 17 theo Hiệp Định đình chiến Genève được ký ngày 20/7/1954.

Trong cuộc chiến này, Hồ và Đảng CSVN đã lợi dụng tối đa chiêu bài “đánh đuổi quân Pháp, dành độc lập” để độc quyền điều hành cuộc chiến chống Pháp ngõ hầu áp đặt bằng bạo lực chủ nghĩa Cộng Sản lên quê hương VN. Hồ và đồng bọn ra sức săn đuổi, tiêu diệt những người Việt Quốc gia, không cùng chính kiến với chủ nghĩa CS. Nhiều người nổi tiếng đã bị CS thủ tiêu như Nhà văn Khái Hưng, Tạ Thu Thâu (khi Hồ còn sống với nhóm La Lutte, Y đã được ông Tạ Thu Thâu dạy kèm tiếng Pháp), Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ (Đạo Hòa Hảo), Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi v.v…. Hồ và bọn CSVN còn mượn tay quân Pháp để loại trừ các Đảng phái khác chính kiến trong suốt thời kỳ đánh nhau với quân Pháp. Trường hợp các “Tự Vệ Thành” của Hà Nội là một thí dụ điển hình về âm mưu thâm độc của Hồ và các đồng chí của y: mượn tay quân Pháp để loại trừ các thanh niên tiểu tư sản, một thành phần không có chỗ đứng trong thế giới Cộng Sản. Trận mở màn cho cuộc Chiến Tranh Đông Dương 1 nổ ra ngày 19/12/1946 giữa Tự Vệ Thành và quân Pháp. Hồ và các đồng chí đã rút ra An Toan Khu (ATK) trước khi cuộc chiến nổ ra. Vệ Quốc Đoàn – lực lượng gọi là tinh nhuệ của CSVN, đã không thấy xuất hiện để “làm cỏ” quân Pháp, chiến đấu bên cạnh các Tự Vệ Thành như Hồ và Võ Nguyên Giáp đã hứa. Tuy vậy, các thanh niên Tiểu Tư Sản của Hà Nội – thành phần nòng cốt của Tự Vệ Thành – đã đánh vùi với quân Pháp trong 2 tháng, cho tới ngày 18/2/1946 thì Tự Vệ Thành rút ra khỏi Hà Nội sau khi đã đưa được dân chúng rời Hà Nội tới nơi an toàn. Tự Vệ Thành tức Trung Đoàn Thủ Đô được đổi tên là Trung Đoàn Tây Tiến để tiếp tục cuộc chiến chống Quân Pháp,

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh mầu lá dữ oai hùm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

 (Trung đoàn Tây Tiến, thơ Quang Dũng) 

Trong hơn 8 năm của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, toàn thể dân lành bị CS và Ông Hồ khủng bố “trắng”, các viên chức xã, ấp được tấn phong trước khi làng mạc bị CS kiểm soát, đều bị CS thủ tiêu bằng nhiều cách man rợ nhất. Toàn dân sống nơm nớp trong sợ hãi các “thần chết” Cộng Sản Việt Nam. Cả nước bao trùm một không khí chết chóc, thê lương. Mặt khác, Văn hóa muôn đời của dân Việt bị CSVN tiêu diệt để thay vào đó một nền văn hóa Mác Xít “con tố cha, vợ tố chồng”, mọi người nghi kỵ lẫn nhau, chống đối lẫn nhau và nhất là nói dối, lường gạt lẫn nhau để sống còn…. Các giá trị căn bản của con người bị đảo lộn “up side down” vì chủ nghĩa vô nhân CS do Hồ và Đảng CSVN du nhập bằng bạo lực vào quê hương Việt Nam. Tại những vùng do CS kiểm soát, Ông Hồ và người CSVN đã cho thi hành ngay các chiến dịch giết người như: cải cách ruộng đất, trí phú địa hào: đào tận gốc trốc tận rễ, rèn cán chỉnh quân, phong trào tam phản trong quân đội… Trong suốt thời gian đối đầu với quân Pháp, Hồ và những người CSVN đã dấu kỹ xuất xứ CS của họ. Đảng CS được mang tên là Đảng Lao Động. Cát tên Đảng CSVN chỉ xuất hiện vài năm sau khi Hô và các đệ tử của y đã chiếm được một nửa quê hương, từ vỹ tuyến 17 đến biên giới với Trung Hoa.

Trong suốt cuộc chiến đối đầu với quân Pháp, CSVN đã lợi dụng để biến người dân thành những người vô sản thực sự bằng các chiến dịch như “Tuần lễ vàng” chiến dịch “Tiêu thổ kháng chiến, vườn không nhà trống” tiêu hủy hết tài sản của người dân. CSVN lấy cớ không cho quân Pháp chiếm những tài sản này nên họ phải đốt hết, phá hết trước khi quân Pháp xuất hiện. Trên thực tế CSVN đã biến những người dân thành vô sản trong một thời gian ngắn vì chủ trương tiêu thổ kháng chiến, vườn không nhà trống này.

CSVN: một thế kỷ diệt chủng, tàn phá quê hương về mọi mặt.

Tuân lệnh CS Quốc Tế để “Cộng Sản hóa VN, Cộng Sản hóa cả vùng Đông Nam Á”, CSVN đã trở thành các tên lính xung kích. Chả thế mà trong cuộc chiến xâm lăng Miền Nam, Lê Duẩn đã tuyên bố: “Ta đánh là đánh cho Nga, cho Tầu”. Điều đó bộc lộ rõ tính chất đánh thuê cho CS Quốc Tế của CSVN. Người ta thường có khuynh hướng gọi cuộc chiến 1946-1954 là Chiến Tranh Đông Dương thứ 1, trong khi cuộc chiến xâm lăng Miền Nam 1960-1975 là cuộc chiến tranh Đông Dương thứ 2. Theo chúng tôi, không có Chiến Tranh Đông Dương 1 và 2, mà chỉ có trận chiến duy nhứt: đó là trận chiến xâm lăng của Cộng Sản từ năm 1946, kéo dài cho tới ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì tiếng súng tạm im trên cả nước. Đó là một cuộc xâm lăng liên tục trong ngần ấy năm với vài thời kỳ tạm yên kéo dài vài năm thôi. Bằng chứng la ngay sau khi ký Hiệp Định Đình Chiến Genève ngày 20/7/1954, Hồ và đồng bọn đã sửa soạn ngay để “chiếu cố Miền Nam”. Hiệp Định Paris 1973 chỉ là những ngày “nghỉ” cho bọn xâm lược vì chúng vẫn tiếp tục cuộc chiến tàn bạo không thua gì trước khi có Hiệp Định.

Trong suốt cuộc xâm lăng Miền Nam, người CS đã hành xử như những con thú hoang dã. Bản chất thú vật dã man của họ đã lộ rõ tại bất kỳ nơi nào họ chiếm đóng. Cuộc thảm sát đồng bào Huế trong Tết Mậu Thân là dấu ấn của người CSVN. Trong gần 1 tháng chiếm đóng Huế, họ đã tàn sát hàng 5,6 ngàn người dân vô tội bằng đủ mội phương cách dã man, tàn độc, thú vật nhứt. CSVN, cho tới bây giờ, vẫn chối không xác nhận hành động diệt chủng của họ đối với nhân dân của Thành Phố Huế, một vết nhơ trong lịch sử của quê hương. Vết nhơ mà ngàn đời không thể nào rửa sạch.

Sau ngày 30/4/1975, CSVN đã “ăn cướp” của nhân dân Miền Nam tất cả tài sản. Riêng về vàng, CSVN đã lấy cướp của Ngân Hàng Quốc Gia của Miền Nam 16 tấn vàng để chia chác cho nhau. CS tịch thu của nhân dân Miền Nam tổng cộng 43 tấn vàng. Số vàng này, CS nói họ mang qua trả nợ Nga Sô (?) . Trả nợ hay bỏ túi? Dieu seul le sait. “Dieu” ở đây chính là lũ cầm đầu của CSVN. Cho tới giờ phút này, cuộc chiến chống Cộng của Quân Dân Miền Nam vẫn được tiếp tục. Mặt trận này trải dài trên bất cứ nơi nào trên thế giới có sự hiện diện của người Việt tỵ nạn Cộng Sản. Đó là một cuộc chiến chống Cộng với tất cả mọi phương tiện ngoại trừ tiếng súng.

CSVN, trong cuộc chiến này, đang ở thế bị động, chỉ chống đỡ. Khác với các cuộc chiến trước 1975, các cuộc chiến mà Người Việt Quốc gia bị bắt buộc ở tư thế phòng thủ, không được “phép” tấn công quân thù.

Trong gần 1 thế kỷ, người CSVN đã mang lại chết chóc, tàn phá quê hương và sau cùng tới giờ phút này quê hương đang mất dần về tay kẻ thù ở phương Bắc, khốn nạn thay với sự đồng lõa dâng hiến của người Cộng Sản Việt Nam.

CSVN đã tàn phá quê hương trong suốt tiến trình nhuộm đỏ cả nước VN bằng các cuộc chiến vô bổ kéo dài triền miên. Hơn 4 triệu người đã bỏ mình vì cái ảo tưởng CS của Hồ và đồng bọn. Theo các quan sát quốc tế, có khoảng trên dưới 4 triệu người đã bị chết vì cái “communist madness” của một nhóm điên loạn: người CSVN.

Phải hàng ngàn trang giấy mới kể ra hết tội ác của CSVN đối với dân tộc. Chúng tôi chỉ đơn cử vài trường hợp trong cuộc xâm lăng của CS kéo dài từ những năm 20’s cho đến nay, tuy rằng tiếng súng đã tạm ngưng ngày 30/4/1975. Cuộc hành hạ, tiêu diệt dòng giống Việt vẫn được những người Bolchevick gốc Việt tiếp tục cho đến ngày nay.

Trong cuộc “trường kỳ tiêu diệt dân Việt” do Ông Hồ và Đảng CSVN chủ trương trong hơn 50 năm, bao gồm cả 2 cuộc chiến 1946-1954, 1959-1975, trong suốt thời gian từ 30 tháng 4 năm 1975 tới tận bây giờ, CSVN đã phạm muôn vàn tội ác đối với dân tộc. Diệt chủng là tội gì?

Diệt chủng là sự tiêu diệt có chủ ý, có hệ thống:

– Một dân tộc (thí dụ Đức Quốc Xã muốn tiêu diệt toàn thể dân Do Thái), một nhóm thiểu số, những người theo cùng một tôn giáo, cùng niềm tin về một triết lý sống (thí dụ Pháp Luân Công ở Trung Hoa)

– Những người theo các hệ thống chính trị tương phản (thí dụ: Tư Bản versus Cộng Sản)

– Thủ tiêu những dân không cùng một sắc tộc (groupe ethnique) thí dụ như trường hợp ở Rwanda, Phi Châu gần đây.

Hồ Chí Minh và những người CS Việt Nam đã du nhập chế đô CS – một chủ nghĩa ngoại lai – vào quê hương bằng võ lực, bằng cái mà CSVN gọi là “bạo lực cách mạng”, bằng giết chóc (deliberated killing). Điều này rất phù hợp với định nghĩa về diệt chủng kể ở trên.

Chỉ xin đơn cử vài trường hợp, biến cố lịch sử mang tính cách diệt chủng của người Cộng Sản Việt Nam:

Từ 1954 tới năm 1975 tại Miền Bắc VN.

Sau hơn 8 măm chiến tranh đối đầu với quân Pháp, Mặt trận Việt Minh do CSVN độc quyền lãnh đạo đã gây ra rất nhiều tàn phá, chết chóc cho người dân Miền Bắc qua các chiến thuật “tiêu thổ kháng chiến” các chiến trận “biển người” do các Cố Vấn Trung Cộng điều khiển. Thí dụ trong trận Vĩnh Phúc Yên hồi tháng 12 năm 1950, Quân Đội CSVN điều động gần 30 000 quân do chính Võ Nguyên Giáp chỉ huy, nhằm đánh vào Miền Trung Du, Bắc Việt. Quân Đội Việt Minh đã thảm bại với trên dưới 2 Sư Đoàn bị loại khỏi vòng chiến trong đó gồm hơn 6000 binh sĩ bị chết, gần 20 000 bị thương trong các trận đánh gọi là “biển người” vì bom Napalm của Pháp. Nếu chỉ đề cập đến các trận đánh như trận Vĩnh Phúc Yên, CSVN đã đưa hàng vạn, vạn thanh niên và thường dân vào chỗ chết.

Tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh và những người CSVN từ chiến khu Việt Bắc về tiếp thu Hà Nội cũng như tiếp thu một nửa nước Việt từ Vỹ tuyến 17 tới tận Ải Nam Quan theo đúng các qui định của Hiệp Định Genève ký ngày 20/7/1954. Trên thực tế, Ông Hồ và những người CSVN đã có những hành động thủ tiêu dân Việt vài năm trước khi Hiệp Định đình chiến được ký tại Genève ngày 20/7/1954. Các cuộc thủ tiêu được diễn ra ở các vùng do CSVN hoàn toàn chiếm giữ, tại các vùng, gọi là vùng “xôi đậu”.

– Ám sát, thủ tiêu một cách man rợ không bút nào tả xiết các thành viên, đảng viên của các đảng phái quốc gia không cộng sản. Thủ tiêu các viên chức xã ấp một cách tàn bạo để reo rắc sự sợ hãi trong dân chúng là sở trường của CSVN. Câu “thà giết lầm còn hơn tha lầm” được CSVN tận dụng tới mức tối đa.

Ngoài ra các Tôn Giáo như Cao Đài, Hòa Hảo…, cũng bị khủng bố giết hại. Tóm lại CSVN đã reo rắc sự sợ hãi trong khắp các tầng lới dân chúng của xã hội Việt Nam. Người dân lúc nào cũng nơm nớp sợ hãi các “đồng chí”, đêm cũng như ngày

Xin đơn kể vài trường hợp CSVN đã có hành động “diệt chủng” tại các vùng mà họ kiểm soát được họ gọi là “vùng giải phóng”, vài năm trước khi Hiệp Định Genève ra đời: Đó là các cuộc thảm sát đẫm máu rất nhiều người vô tội nếu không nói là tất cả nạn nhân là những người vô tội:

– Cuộc cải tạo công, thương nghiệp

– Các chiến dịch ”rèn cán chỉnh quân”

– Phong trào tam phản nhằm ”loại bỏ” ra khỏi hàng ngũ Quân Đội Nhân Dân các phần tử được CSVN gọi là ”tiểu tư sản”, các trí thức bị CSVN dán cho nhãn hiệu: ”trí thức phản động (?)”.

– Cải cách ruộng đất

Cải cách ruộng đất

Đó là một chiến tích đẫm máu nhất của Ông Hồ và Đảng CSVN đối với người dân ở đất Bắc. Chiến dịch kéo dài cho tới năm 1956-1957, sau khi đã giết chết hàng trăm ngàn người vô tội. CSVN lùi bước, chiến dịch phải ngưng rồi bãi bỏ vì những lời ta thán của toàn dân. Ông Hồ phải đưa người hùng (?) Điện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp đứng ra xin lỗi nhân dân. Còn ông Hồ thì nhỏ vài giọt nước mắt “cá sấu”.

Rập theo “khuôn vàng thước ngọc” của Đảng CS anh em Trung Quốc, năm 1953, Hồ Chí Minh và Đảng CSVN phát động cuộc CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT (CCRĐ) trên toàn cõi VN nhứt là tại các vùng “giải phóng” trước khi Hiệp Định Genève được ký ngày 20/7/1954. Theo Sắc Luật 42 SL ký và ban hành ngày 1/7/1951, Ông Hồ và Đảng CSVN cho chỉ tiêu 5% là số địa chủ tại mỗi địa phương cần phải tiêu diệt bởi Ủy Ban Cải Cách mà sức mạnh hành động là các Đội Cải Cách.

Đội Cải Cách và những người dân học tập với Đội này (thường là những dân bần cố nông) đứng ra đấu tố, hài tội (hoàn toàn được bịa đặt ra) các địa chủ. Bản án đã được đội cải cách định trước khi xử. Nhiều người đã bị giết theo đúng tiêu lệnh của Hồ Chí Minh: Trí Phú Địa Hào, đào tận gốc trốc tận rễ.

Trước các phản ứng chống đối của người dân, CCRĐ bị tạm ngưng rồi ngưng hẳn. Một số viên chức như Trường Chinh, Lê Văn Lương, Hồ Viết Thắng… bị cách chức (?). Ai cũng biết đó là những con vật tế thần, những “Lê Lai cứu Chúa” Hồ Chí Minh.

Người ta đưa ra con số 172 000 người bị đưa ra “đấu trường”, nhưng con số thực sự cao hơn con số 172 000 đưa ra. Ta chỉ cần làm 1 con Toán nhỏ thì sẽ thấy ngay: năm 1954, dân số Miền Bắc là 20 triệu người. 5% – chỉ tiêu của Đội Cải Cách- là 1 triệu người, cao hơn con số 172 000 do CSVN đưa ra gấp bội. Theo CSVN trong số 172 000 bị đưa ra đấu trường có 165 000 bị oan (sic). Quả thật CSVN đã thi hành đúng chỉ thị: thà giết lầm còn hơn tha lầm.

Hồ Chí Minh đã nhỏ vài giọt nước mắt cá sấu, tuyên bố: sai thì sửa sai. Theo đúng tinh thần của người Bolchevik

Để xoa dịu sự phẫn nộ của dân chúng, CSVN cho thả 12 000 tù nhân bị bắt giam trong chiến dịch CCRĐ.

Theo kết quả do Viện Thống Kê Hà Nội cung cấp, có 172 000 bị chết nhưng theo Nhà Báo CS Bùi Tín, con số người bị chết trong CCRĐ có thể lên đến trên dưới 1/2 triệu người.

Tội ác diệt chủng trong vụ nổi dậy ở Quỳnh Lưu

Việc CSVN tạm lùi bước trong vụ CCRĐ đã như một chất xúc tác cho vụ nổi dậy ở Quỳnh Lưu (Nghệ An). Cuộc nổi dậy được khởi đầu vào tháng 11 năm 1956. Đây là cuộc đấu tranh mang tính cách một cuộc nổi dậy đẫm máu chống lại sự cai trị dã man, tàn ác của CSVN. Sự man rợ, tàn bạo của cuộc CCRĐ đã là nguyên nhân chánh làm bùng nổ sự phẫn nộ của quần chúng ở Quỳnh Lưu, Nghê An. Ngày 10 tháng 11 năm 1956, khoảng trên 10 000 người dân Quỳnh Lưu đã họp Đại Hội. CSVN đưa đến khoảng 1 Đại Đội Công An để đàn áp. Đồng bào đã vây chặt Đ Đ Công An. CS bèn đưa đến nguyên 2 Trung Đoàn Bộ Đội để đàn áp. Lập tức 2 Trung Đoàn này bị khoảng 30 000 người dân vây chặt. Tướng CS Văn Tiến Dũng được lệnh đem cả Sư Đoàn Bộ Đội 304 nhập trận đàn áp. Ngày 14/11 Văn Tiến Dũng điều động thêm SĐ 312 để tăng cường đàn áp. Có hàng ngàn người dân bị giết chết (CSVN không bao giờ tiết lộ con số tử vong này). Hơn 6000 người bị bắt. Cuộc nổi dậy ở Quỳnh Lưu bị CSVN dập tắt gần như trong trứng nước.

*

Các vụ thảm sát diệt chủng đối với dân chúng Miền Nam của CSVN trong cuộc xâm lăng Miền Nam từ năm 1959 tới năm 1975

Chiến tranh ở VN từ năm 1946 đến năm 1954 chấm dứt với Hội Nghị Genève được ký ngày 20/7/1954 tại Genève Thụy Sĩ. Quân, dân Người Việt Quốc Gia không Cộng Sản, với sự trợ giúp của các quốc gia thuộc thế giới tự do, dắt díu nhau về cố thủ tại phần đất quê hương kéo dái từ phía Nam vĩ tuyến 17 đến tận Mũi Cà Mâu. Gần 1 triệu người Miền Bắc cũng quyết “di cư vào Nam”, từ chối sống với bọn Cộng Sản.

Sau ngày 30/4/1975 chính CSVN đã tiết lộ, theo đó: “Ngay từ lúc các chữ ký trên các văn kiện của Hội Nghị Genève còn chưa ráo mực, Hồ Chí Minh và Đảng CSVN đã bàn thảo kế hoạch xâm chiếm miền Nam. Khẩu hiệu: “củng cố miền Bắc, chiếu cố Miền Nam “được CSVN học làm lòng”.

Một số lớn cán binh CS đã không tập kết để ra ngoài Bắc Việt Nam theo đúng tinh thần của Hiệp Định Genève. Các “lãnh đạo” của CS đã trốn không ra Bắc, ở lại Miền Nam như Lê Duẩn, Võ Văn Kiệt, Mười Cúc Nguyễn Văn Linh…

Các cán binh CS được lệnh chôn dấu võ khí, đợi lệnh trên đến từ Miền Bắc, từ Trung Ương Cục Miền Nam.

Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa, trong những năm đầu thập niên 50’s đã gặt hái được rất nhiều thành công như:

– Nhanh chóng hoàn tất định cư gần 1 triệu người tỵ nạn CS đến từ miền Bắc

– Kiện toàn miền Nam khiến VNCH được rất nhiều nước công nhận đồng thời Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm và Chánh phủ Miền Nam đã đem lại một cuộc sống tương đối dân chủ cho toàn dân của Miền Nam.

– Kinh tế và tình trạng xã hội của dân Miền Nam có những tiến bộ vượt bực chỉ trong vài năm.

– Các tổ chức nằm vùng của CS lần lượt bị quân dân của Miền Nam khám phá ra và triệt hạ

Bản Đề Cương Cách Mạng Miền Nam được Lê Duẩn, Xứ Ủy Nam Kỳ, gửi ra Bắc cho Bộ Chánh Trị của CSVN ở Hà Nội vào năm 1958. Trong Bản Đề Cương này, Lê Duẩn quả quyết: chỉ có đấu tranh võ trang mới có thể giải phóng (?) được Miền Nam. Các cán binh nằm vùng đang chịu áp lực rất mạnh có thể đi đến tan rã. Cũng theo Lê Duẩn, cuộc nổi dậy của các cán binh CS nằm vùng phải được bắt đầu cáng sớm càng tốt.

Cuộc Cộng Sản hóa Miền Nam được khởi đi bằng các cuộc tấn công của Du kích quân CS, phá hoại các dự án xây dựng, kiến thiết tại khắp mọi nơi ở Miền Nam. Du kích CS đã tàn sát không nương tay hàng ngàn viên chức xã, ấp. Phá hoại nhằm vào các cấu trúc căn bản của xã hội miền Nam như cầu cống, đường xá… được các cán binh CS thực hiện.

Trận Trãng Sụp, cách tỉnh lị Tây Ninh độ 8km, là trận đánh lớn đầu tiên, theo đó 1 Trung Đoàn của QLVNCH bị quân CS đánh úp, chịu nhiều thiệt hại. Trung Đoàn của VNCH do Trung Tá Trần Thanh Chiêu chỉ huy.

Các vụ đặc công ám sát, phá hoại, nổ mìn… xẩy ra thường xuyên, ngay tại Thủ Đô Sài Gòn khiến hàng ngàn người chết; các khu cư dân bị tàn phá. Khoảng cuối thập niên 60’s cho đến ngày mất Miền Nam 30/4/1975, Sài Gòn luôn bị CS pháo kích, gây nhiều thương vong và tàn phá các khu dân cư.

Năm 1968, ngay ngày Tết Mậu Thân, CS đã đưa chiến tranh vào các thành phố lớn, kể cả Sài Gòn. Chúng đã chiếm giữ Kinh Thành Huế trong 26 ngày. CS đã hành quyết hơn 6000 thường dân Huế trong thời gian họ chiếm Huế. CS giết người dân Huế bằng các phương pháp cực kỳ dã man, cực kỳ súc vật, cực kỳ ác độc mất nhân tính của con người bình thường.

Cuộc xâm lăng miền Nam chưa chấm dứt với sự thắng trận thật bất ngờ của CSVN. Cuộc chiến Quốc – Cộng bước qua một hình thái mới mẻ.

Khủng bố, tán sát do CSVN gây ra
sau ngày họ chiếm được toàn Miền Nam

Ngày 30/4/1975, CSVN chiếm được toàn Miền Nam, không phải vì Quân CS Bắc Việt mạnh hơn quân dân của Miền Nam mà do sự xếp đặt của các thế lực quốc tế trong cuộc thư hùng giữa Tư Bản và Cộng Sản.

https://lh5.googleusercontent.com/Fnz9fnTPz_dOWlUEXVkJE6ONuX9M1st8CmAOYxMU4-dlRVwFnaqj9ASmVDu3i5j8dTndEaGBjCbrlR_kBtLA6BEVQoNsQkWRSy9zrOOwLMMypY4oJhBl-7UVOAvUwjxMm0kllS77ePxVALpJAg

Nổ bom tại Nhà hàng nổi Mỹ Cảnh (Bến tầu Sài Gòn) khiến 42 người chết, hơn 80 người bị thương hôm 26/4/1965.

Tiếng súng đã im trên toàn nước Việt, nhưng một giai đoạn mới của chết chóc, của lầm than khổ ải, của máu và nước mắt lại được Người Bolchevik VN mang lại cho quê hương. Cuộc chiến từ năm 1959 cho tới ngày 30/4/1975 đã tàn phá đế tận cùng quê hương, đã khiến cả triệu người bỏ mạng vì một ý tưởng điên rồ của Các Mác, đã khiến nhiều gia đình phải chia cách với mảnh khăn tang trên đầu. Tới nay hơn 4 triệu người đã phải bỏ quê hương. Hàng triệu người đã chết trên đường đi tìm tự do.

Ôi hai chữ TỰ DO sao mà quá đắt thế!!

Sau ngày 30/4/1975, CSVN tiếp tục đầy đọa, trả thù quân dân Miền Nam:

– Chỉ ít lâu sau ngày 30/4/1975, CSVN bắt đầu chiến dịch trả thù Quân, Cán, Chính của Miền Nam bằng cách lùa hơn 1 triệu người vào hơn 150 trại tù (mà họ gọi dưới cái tên mỹ miều là trại học tập, cải tạo). Các trại này được thiết lập trong rừng sâu, khỉ ho cò gáy. Các tù nhân bị CSVN giam giữ không hề được xét sử trong bất kỳ một Tòa Án nào. Thời gian trung bình bị giam giữ từ 5 năm tới 7 năm. Một số các vị Tướng của Quan Đội VNCH như Tướng Lê Minh Đ, Tướng Đỗ Kế G… chỉ được CS thả sau 17-18 năm tù đầy. Các Biệt Kích Miền Nam nhẩy toán ra Bắc trước 1975 bị

CSVN giam giữ suốt đời, không ngày về.

– Không kể một số đáng kể bị bệnh nặng sau một thời gian ngắn tù đầy được CS thả về để được chết bên người thân (thí dụ trường hợp của Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương), hơn 165 000 người đã bỏ mình trong các trại tù do CS thiết lập.

Theo Tổ Chức Tưởng Niệm các nạn nhân của Cộng Sản (The Victimes of Communist Memorial Foundation): con số nạn nhân chết trong các trại tù CS xấp xỉ 850 000 người. CSVN chưa bao giờ nói thật con số chính xác những người đã chết trong các Trại Tù (CSVN gọi là các Trại Cải Tạo, Học Tập).

Việc giam giữ, tù đầy các Quân, Cán, Chính của Miền Nam đã vi phạm 5 trong số 11 Tội chống nhân loại (Crimes against Humanity) theo Luật Pháp Quốc Tế được dự trù tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Roma Statute)

– Tội ác thứ nhứt:

Tội cầm tù hay tước đoạt tự do thân thể (Imprisonnement or other severe deprivation physical liberty in violation of fundamental rules of internationnal law). CSVN, sau ngày 30/4/1975, đã cho hơn 1 triệu Quân, Cán, Chính của Miền Nam vào các trại tù. Không một hình thức án lệ nào được CSVN xử dụng.

– Tội ác thứ hai

Tội tra tấn, hành hạ (torture). Hành hạ bằng cách bỏ đói triền miên. Vì quá đói, người tù dễ dàng đánh mất phẩm giá (dignity). Bỏ đói là một hình thức tra tấn của CSVN. Nhiều người bị chết vì suy dinh dưỡng, thiếu thuốc men.

CSVN đã hành hạ bằng cách bắt tù nhân lao động đến kiệt lực (khẩu hiệu của CSVN: lao động là vinh quang)

Tra tấn về tinh thần bằng các buổi tuyên truyền, học tập, làm thu hoạch, dự các phiên Tòa của CS, dự kiến các buổi xử bắn tù nhân…. Đó là những hình thức hành hạ về tinh thần, nhồi sọ về chính trị (political indoctrination), tự phê bình, tự kiểm điểm (confession).

– Tội ác thứ ba

Tội giết người (murder). Ngay những ngày đầu sau khi chiếm được Miền Nam, CSVN đã thủ tiêu nhiều viên chức của Miền Nam, nhất là các nhân viên tình báo, Cảnh Sát, An Ninh Quân Đội… Giết một cách vô tội vạ khi các tù nhân trốn trại bị CSVN bắt lại.

Hành hạ các “tù cải tạo” cho đến chết là một hình thức giết người. Hàng trăm ngàn người đã bị giết chết trong các “trại tù của CSVN”.

– Tội ác thứ tư

Tội bắt người làm nô lệ (enslavement). Bên cạnh việc bỏ đói triền miên các người tù, CSVN còn bắt tù nhân làm việc khổ sai hàng ngày như câu vè: làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm ngày chủ nhật.

Rất nhiều tù nhân bị chết vì lao động khổ sai, bị bỏ đói triền miên, khi bị bệnh lại không có thuốc men. Thực là một địa ngục trần gian!

– Tội ác thứ năm

Tội thủ tiêu mất tích (enforced disappearance of persons). Thủ tiêu mất tích là “nghề” của CSVN. Không riêng gì trong thời kỳ chiến tranh, bị bắt mất tích là sở trường của CSVN trong mọi thời đại, không cứ gì trong thời chiến.

Đó là sơ lược 5 tội ác mang tính cách diệt chủng của CSVN đối với dân Việt (Crimes against Humanity)

Khi CSVN chiếm được toàn thể Miền Nam nước Việt, hơn 2 triệu người, bằng cách này hay bằng cách khác, đã bỏ nước ra đi. Cuộc bỏ nước ra đi, từ chối cuộc sống dưới chế độ CS, được kéo dài cho đến đầu thập niên 80’s. Tổng cộng hiện có hơn 4 triệu người Việt tỵ nạn CS. Họ sống rải rác tại hơn 100 nước tự do trên thế giới. Hoa Kỳ, Pháp, Úc, Gia Nã Đại là những nước đã định cư gần như 75% Người Việt tỵ nạn CS. Người Việt tỵ nạn CSVN đã rất thành công tại các quê hương mới. Chỉ riêng tại Hoa Kỳ đã có gần 1/2 triệu chuyên viên, giáo sư… với trình độ khoa học, kỹ thuật cao, khá cao.

Khoảng hơn 1/2 triệu người đã bỏ xác trên đường vượt biên, vượt biển tìm tự do. Khi họ vượt biên hay vượt biển, họ chấp nhận cái chết còn hơn là sống dưới chế độ Cộng Sản. Không ai trong chúng ta không nhận thức được Người Việt tỵ nạn tại hải ngoại lại chính là nguồn hy vọng cho sự tồn vong của giống nòi, của văn hóa Việt.

Mối nguy mất nước về tay người Đại Hán để rồi dòng giống Lạc Hồng,
dưới ách đô hộ của Đại Hán, sẽ biến mất trên quả đất này.

Với dân số trên dưới 1tỷ 5 người, dân Tầu cần đất để sống như một ông Tướng của Trung Cộng Trì Hạo Điền (Chi Haotian) đã tuyên bố vào khoảng thập niên 90’s. Khi đó Trì là Thượng Tướng, Bộ Trưởng Quốc Phòng (trong 10 năm, từ 1993 tới 2003) của Trung Cộng, trong bài nói chuyện: “Chiến tranh không xa chúng ta và sẽ là Bà Mụ của kỷ nguyên của Người Tầu” Cũng theo họ Trì, chiến tranh với Hoa Kỳ là điều không thể tránh được Họ Trì cho rằng việc đánh chiếm nước Mỹ, làm đất cho người Tầu đến định cư là một lối thoát, giải quyến vấn đề dân số nước Tầu quá đông. Bài nói chuyện này được phổ biến năm 2005. Ai cũng biết dân Tầu cần đất để sống, để sinh hoạt. Gần đây, việc hạn chế sinh đẻ đã được chánh quyền CS của Tầu bãi bỏ. Hậu quả là trong khoảng 10 năm tới, người ta sẽ chứng kiến dân Tầu sẽ tăng theo một tỷ lệ cấp thời (exponentiel).

Chiếm đoạt các nước khác bằng quân sự là truyền thống từ ngàn xưa của người Đại Hán. Hiện nay việc tiến chiếm bằng võ lực như những ngày xa xưa không còn nữa nên Trung Hoa lấn chiếm các nước khác một cách tinh vi hơn: bằng kinh tế nhất là bằng di dân. Sự thật ngày nay, trên quả đất này, bất kỳ một vùng hẻo lánh nào cũng có mặt người Tầu. Dù sống ở bất kỳ nơi nào, người Tầu vẫn là người Tầu, dù sau nhiều thế hệ, không bao giờ bị đồng hóa với dân bản địa. Ngày nay, Tầu đang dùng một chiến thuật khác để lấn chiếm nước khác, bằng cách cho rất nhiều di dân Tầu sang lập nghiệp cũng như dùng kinh tế, viện trợ là một thứ võ khí lợi hại trong việc chinh phục đất đai, diệt chủng một cách từ từ.

Người ta đã thấy TC dùng di dân + viện trợ kinh tế để đưa dân Tầu qua lập nghiệp ở Phi Châu, ở Chau Mỹ La Tinh.

Sau đây là vài thí dụ về tội ác diệt chủng của Đại Hán:

 Tân Cương

https://lh6.googleusercontent.com/TaoHxPKsR14gif7wsK7xC2O5Z7iykJ9WbVNhU_6OT8jFENXF7yGO66gjlPHdO9HOx9XWCfGkqItPuHUu3L0BRNS5PmFEmQ18BGuoqxqn2bGG1-KDVRzuennj5ed9hrC3KLb_VIGjkXXSukcDww

Năm 1826, Trung Hoa chiếm Tân Cương, biến xứ này thành Khu Tự Trị Tân Cương. Đó là một vùng đất bao la, 1 triệu 6 km2. Sắc dân Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, đa số là theo Đạo Hồi. Hiện nay, dân số Tân Cương là 21 triệu 8. Dân Duy Ngô Nhĩ chỉ chiếm 8,3 triệu người. Dân Hán chiếm 38%, số còn lại là các sắc dân khác. Sau gần 200 bị người Hán đô hộ, dân Duy Ngô Nhĩ trở thành 1 sắc dân thiểu số ngay chính tại quê hương của họ.

Nội Mông Cổ

Là Khu Tự Trị thuộc Trung Hoa từ năm 1947… Dân số Nội Mông là trên 21 triệu 7 người, nhưng hiện nay người Nội Mông Cổ chỉ còn lại có 3 triệu 7 thôi. Số dân sai biệt 18 triệu biến đi đâu?

https://lh6.googleusercontent.com/5nfWWriRwEPUtuhAuFKQ7vmxWQJ7UmiQXaIW2q4u97Ig8eP7mrvVsgUg6fftc9BKc1HJCC8mNX_2YAs5GURE9P6lxWIRYDZq7b33MgognwANeYxq2JvLOziLRJxZF8xgY9HzEOFu00Qmnk2IlQ

Tây Tạng

Trung Cộng mang quân sang chiếm Tây Tạng năm 1952, ngang nhiên biến nước này thành một Khu Tự Trị thuộc Trung Hoa Cộng Sản. Nền văn minh cũng như các di tích điện đài, chùa chiền bàng bạc chất Phật Giáo của Tây Tạng đã bị Trung Cộng phá hủy. Học Viện Phật Giáo nổi tiếng Larung Gar bị TC phá hủy hoàn toàn vào tháng 7 năm 2016.

https://lh6.googleusercontent.com/h78qJOuiqyD45yzL9all4Lyz5WUtj4onRKRLoPZDVoD0-YxIuicbMSxhFJSTgnU84VSrehXvZm6LHFHvSltdqHR150v7_WwAMoHp1xB9EHPFZbMEpjVRAbLobvTNRWc8RNvsMSYFKUtSMQF2sQ

Học Viện Larung Gar

https://lh4.googleusercontent.com/ylTEjX3R6rTz8KZF6ua9TynCSjCLkqYpDH2Cke17c2Fn3UddZNhuIOB9UrjZ6V-lFkNd1WFTKShuzYKbfQcqtpQxhICkl6WXaFZrfWQFkjibJ_Dhvu5MH0KeNLHts56pKukiAlGgN75SnAo0AQ

T Tây Tạng gần vùng Hy Mã Lạp Sơn, giáp Ấn Độ

TC đang tiêu diệt văn hóa Tây Tạng. Ít năm nữa, văn minh Tây Tạng chỉ còn là những dấu vết của quá khứ.

Trước khi bị TC chiếm đóng, dân số Tây Tạng khoảng trên dưới 3 triệu người. Người Hán đã sang lập nghiệp ở Tây Tạng. Dân Đại Hán, hiện nay, đông hơn dân Tây Tạng gấp bội- độ 7 triệu người Hán. Dân Tây Tạng trở thành thiểu số trên chính quê hương của họ.

Khi bị TC chiếm đóng năm 1952, rất nhiều người Tây Tạng đã bỏ nước ra đi, định cư ở nhiều nước trên thế giới. Lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng là Đức Đạt Lai Lạt Ma hiện sống lưu vong ở Ấn Độ. Ngài đã đến mọi nơi trên thế giới tự do để vận động cho sự sống còn của nước Tây Tạng.

Tóm lại, tại các “Khu Tự Trị” người dân bản địa đã biến mất dần dần sau nhiều năm bị TC đô hộ. Chính sách “diệt chủng” của người Tầu quả là ác độc.

Việt Nam

Đã và đang biến thành một Khu Tự Trị của Trung Hoa như những nước kể trên. Thảm họa diệt chủng do Trung Cộng chủ mưu với sự cấu kết, đồng lõa của Đảng CSVN. Khởi thủy từ những năm 50, Hồ Chí Minh đã hứa với Tướng Tầu Trần Canh là VN sẽ sẽ là một phần của Trung Hoa sau khi đuổi được quân Pháp. Trần Canh là 1 trong Ngũ Hổ tướng (Trần Canh, Trần Nghị, Bành Đức Hoài, Điệp Kiếm Anh và Chu Đức) của Trung Hoa Cộng Sản – do Mao Trạch Đông phái sang VN cùng một phái bộ Tầu, gọi là “để giúp VN đánh Pháp dành độc lập”.

Năm 1990, Đỗ Mười (lúc đó là CT Hội Đồng Bộ Trưởng tức Thủ Tướng) Nguyễn Văn Linh (lúc đó là Tổng Bí Thư) và Phạm Văn Đồng (lúc đó là Cố Vấn của Bộ Chánh Trị) đã sang Tầu để ký kết một Hiệp Ước với Tầu tại Thành Phố Thành Đô (Chengdu, tỉnh Tứ Xuyên (Hiệp Ước Thành Đô)

CSVN đã dấu kín, không cho toàn dân biết nội dung của Hiệp Ước này nhưng các “rò rỉ” đã cho mọi người biết rõ nội dung của Hiệp Ước này, theo đó VN sẽ trở thành 1 Khu Tự Trị của Tầu như các Khu Tự Trị đã kể ở trên sau năm 2060. Tiến trình “mất nước đó” sẽ được chính thức bắt đầu vào năm 2020. Trên thực tế Trung Cộng đã biến VN thành một thành phần của Đại Hán từ lâu, ngay từ những ngày Hồ và đồng bọn “bán linh hồn” cho quỷ sứ Đại Hán để đưa chế độ CS vào Việt Nam khoảng đầu thập niên 50’s.

– Người Tầu đã được tự do sang sinh sống, lập nghiệp ở VN, không cần bất cứ một mẩu giấy cho phép nào. Các Đặc Khu Trung Hoa mọc lên như nấm ở khắp mọi nơi trên quê hương VN, từ Nam ra Bắc. Miền Tây Nguyên Trường Sơn, xương sống chiến lược của quê hương VN, đang bị người Tầu hoàn toàn chiếm đóng. Họ lấy cớ khai thác “bâu xít”.

– TC đã làm tràn ngập quê hương VN bằng các thực phẩm, các hàng hóa, vật dụng có chứa chất độc chết người, sinh ra bệnh Ung Thư (UT). Tỷ lệ những người bị bệnh UT ở VN trở nên cao nhứt trên thế giới.

Vì quá dư thừa đàn ông (khoảng 200 triệu đàn ông Tầu không lấy được vợ), đàn ông Tầu sẽ sang VN lập gia đình với các cô gái Việt. Họ sẽ ở lại VN, sanh con đẻ cái. Đất nước VN sẽ bị người Tầu tràn ngập. Đân Việt sẽ dần dần bị người Hán diệt vong. Chủng tộc Việt sẽ biến mát từ từ. Dân số 90 triệu người Việt, sau 1 vài thế kỷ hay ngắn hơn, sẽ chỉ còn độ 2,3 chục triệu người thôi. Một viễn ảnh khiến ta lo sợ cho tương lai dân Việt, cho văn hóa Việt.

– TC đang hủy diệt miền châu thổ sông Cửu Long, hủy diệt châu thổ sông Hồng là 2 vựa lúa của quê hương VN bằng các đập nước được TC thiết lập tại thượng nguồn trong đất nước Tầu của Sông Cửu Long (ở Miền Nam VN) của sông Hồng (ở Miền Bắc VN). Châu thổ của sông Cửu Long sẽ bị ngập nước mặn từ biển tràn vào vì mực nước sông xuống thấp, Miền châu thổ phì nhiêu của Miền Nam VN sẽ không trồng trọt cầy cấy được. Dân Việt sẽ bị nạn đói đe dọa trầm trọng.

Tưởng cũng nên nhắc lại, trước ngày 30/4/1975, VN là một trong nhũng nước đứng đầu về xuất cảng gạo trên thế giới.

Các nhà máy như nhà máy của Công ty Formosa đang làm ô nhiễm vùng biển của VN. Nghề đánh cá ở ven biển bị đe dọa trầm trọng vì ô nhiễm trong rất nhiều năm. Nên nhắc lại chánh Phủ Nhật Bản phải bỏ ra hơn 50 năm để làm sạch vùng biển Mimata bị ô nhiễm vì chất thủy ngân. VN không có khả năng và phương tiện như Nhật nên vùng biển VN còn bị ô nhiễm dài dài.

Về phương diện quân sự

TC đang bao vây VN trên 4 hướng:

– Về phía Đông, Hải Quân của TC đã chiếm gần như hoàn toàn Biển Đông. Họ đã xây dựng một căn cứ quân sự khổng lồ ở Đảo Hải Nam, đối diện với các yếu khu ở Miền Trung Việt Nam. Nếu chiến tranh xảy ra, từ căn cứ ở đảo Hải Nam, TC sẽ chiếm cứ Miền Trung dễ dàng để cắt VN ra làm 2. Chỗ hẹp ở Đèo Ngang (chỉ có 52 km) sẽ bị chiếm. Một đơn vị nhỏ của quân thù “chốt” ở đây sẽ đủ sức ngăn chận một đoàn quân tiếp viện khá dễ dàng.

– Ở phía Tây, TC chỉ cần đóng các đập ở thượng nguồn của sông Cửu Long, cũng như đóng các đập ở thượng nguồn của Sông Hồng, sông Đà là VN sẽ bị thiếu thực phẩm trầm trọng. Nạn đói sẽ xảy ra, đe dọa hàng chục triệu dân Việt.

– Người Tầu đã tràn ngập VN, từ Nam ra Bắc. Khi hữu sự, họ sẽ biến ra những người lính một cách dẽ dàng.

Tóm lại, đối đầu với TC, VN bị tứ bề thọ địch. Mặt khác, với TC, các nhà lãnh đạo của CSVN ở Hà Nội đã tỏ ra thần phục một cách quá hèn hạ. Điều đó cũng dễ hiểu vì CSVN đã dâng hiến quê hương VN cho đàn anh Tầu để trở thành 1 Khu Tự Trị của nước Đại Hán.

Với sự tiếp tay của CSVN, TC đã và đang chiếm cứ VN. Chắc chắn các người Cộng Sản Việt Nam sẽ tiếp tay đắc lực cho người Tầu để thi hành việc diệt chủng dân Việt.

Nữ Nghệ sĩ Kim Chi, rất nổi tiếng trong chiến tranh, trong một cuộc phỏng vấn gần đây, khi Bà sang Hoa Kỳ, đã tuyên bố: “Họ đã bán nước cho Tàu rồi”

Hỡi những người CSVN!

Lịch Sử của dân tộc không tha thứ tội bán nước, tội diệt chủng dân Việt của các quí vị. Đời đời người CSVN sẽ bị người Việt nguyền rủa vì đã dâng quê hương VN cho kẻ thù truyền kiếp Đại Hán ở phương Bắc.

(McGill University, Montréal, Canada)

Nguyễn Lương Tuyền MD, CSPQ, FRCSc

 

 

 

 

 

 

 

Kiều Mỹ Duyên, Đại Hội Quân Nhân Người Mỹ Gốc Việt Năm 2024
Đại hội quân nhân người Mỹ gốc Việt năm 2024 được tổ chức lúc 5 giờ chiều chủ nhật, ngày  27/10/2024 tại Great Wolf Lodge, 12681 Harbor Blvd., Garden Grove, CA 92840.           Các chiến sĩ Hoa Kỳ hưu trí cũng như hiện tại đến trước giờ khai mạc, cùng nhau trò chuyện một cách vui vẻ. Quân nhân trong bộ quân phục oai nghi không kém gì lúc ở chiến trường, bên cạnh người chiến sĩ nào cũng có bóng dáng giai nhân. Nếu người đó có gia đình hoặc có cha mẹ thì cha mẹ cũng hiện diện bên cạnh con của mình. Đó là niềm hãnh diện của gia đình có con là chiến sĩ Hoa Kỳ, cũng như ngày xưa ở Việt Nam mỗi lần đón chào đoàn quân chiến thắng trở về thành phố.
Tòa soạn
Do công ty Saigon News LLC thực hiện
Editor-in-chief: HOÀNG DƯỢC THẢO
Director of Marketing: ANDY TRƯƠNG
Với sự cộng tác của: LÊ TẤT ĐIỀU, HOÀNG NGỌC NGUYÊN, NGUYỄN THỊ CỎ MAY, TRẦN TRỌNG HẢI.

Email: saigonweeklyonline@gmail.com

Thư từ bài vở: 702-389-5729

Quảng cáo: 702-630-0234

702-426-4404

Hotline: 702-426-4404

back top