Sử Gia Trần Quốc Vượng Và Số Phận Bi Thảm Của Sách “Trong Cõi”

Sử gia Trần Quốc Vượng (1934 - 2005)

VÀ SỐ PHẬN BI THẢM CỦA SÁCH “TRONG CÕI”
TS sử học Nguyễn Văn Quang

 


Gs Trần Quốc Vượng sinh năm 1934 tại Hà Nội, (gốc quê ở Hưng Yên ), mất ngày 8/8/2005. Đến ngày 8/8/2023 này là vừa tròn 18 năm thầy về với các bậc thánh sử tiền bối của dân tộc ta như Lê Văn Hưu, Phan Huy Chú..

Tôi may mắn được học với Thầy Vượng những năm 78-79, khi thầy được khoa Ngữ Văn- ĐHTH HN mời sang thuyết giảng một số chuyên đề về Thành tựu khảo cổ văn hoá VN, lịch sử Văn hoá folklore (dân gian) của các dân tộc VN. Một ông thầy đầy vẻ ngang tàng, đầy tính lập dị, với mái tóc xoăn tít dài trùm vai, mặc quần Jin, đi giày ba ta, miệng luôn phì phèo tẩu thuốc, lúc nào cũng cười pha trò với “các ông/ bà sinh viên”.

Thầy đến lớp chỉ với túi dết mang trên vai, không giáo trình, không sách vở, không cả bút, cả phấn! Thầy giảng theo ngẫu hứng, nói như lên đồng, tuy không giáo án nhưng bài thuyết giảng đầy lớp lang, rất mạch lạc, chặt chẽ, mọi tư liệu, sự kiện thầy nhớ vanh vách, không vấp sai hay bỏ sót một sự kiện nào, dù rất nhỏ. Với giọng thuyết trình đầy cuốn hút, pha chút hài hước, nghệ sỹ, rất hóm hỉnh, thâm thuý, cái cách thuyết trình và dẫn dắt vấn đề của thầy luôn đầy cuốn hút SV từ đầu đến cuối! Giờ giảng của thầy lúc nào cũng đông chật cứng SV! SV ở các khoá khác, rồi ở các khoa khác như khoa triết, khoa kinh tế chính trị, SV trường ngoại ngữ ở bên cạnh, nghe danh thầy cũng tìm đến, đứng chen nhau bâu kín ngoài các cửa sổ của giảng đưởng tầng 1 ( khu KTX Mễ Trì) để được nghe thầy thuyết trình! Khi giảng bao giờ thầy cũng gọi SV bằng từ “các ông, các bà” và xưng là “nhà cháu”.

Tôi vẫn còn nhớ như in những phát ngôn “rất sốc”, đầy mới lạ của thầy, tuy không nằm trong nội dung chính bản thuyết trình, nghĩa là những lời ngẫu hứng thầy thêm vào cho “không khí” học thêm rôm rả, nhưng lại luôn gây ấn tượng rất mạnh mẽ. Chẳng hạn:

-“Xin thưa với ông các bà, học đại học là gì? Nhà cháu xin thưa, học đại học là học đại, là không cần phải cắm cổ ghi chép gì nhiều, mà phải nhớ, phải biết tự biện luận & “tiêu hoá” được những kiến thức trên giảng đường, tư duy bằng cái đầu của mình. Các ông bà đừng tưởng cứ ghi chép nhiều là tốt đâu? Các ông, các bà khi thi trả bài cho thầy, nên nhớ đừng viết lại như vẹt những gì nhà cháu đã giảng nhé. Các ông, các bà phải luôn động não, nếu chỉ viết lại y chang những gì thầy đã giảng là vứt đi, nhà cháu không đọc, không chấm điểm cho thứ kiến thức nhai lại ấy đâu nhé! Nên nhớ, bài thi không cần viết dài, viết ngắn cũng được, nhưng đó phải là những suy nghĩ, là ý mới tư duy của các ông, các bà, tôi luôn đánh giá rất cao những ý tưởng này”!

- “Các ông, các bà ngồi đây có biết phương pháp lịch sử là gì không? Xin thưa là chẳng có phương pháp hay quan điểm viết sử nào hết! Viết sử chỉ có một yêu cầu cao nhất, một nguyên tắc lớn nhất- đó là viết đúng với sự thật lịch sử, trung thực với lịch sử, nói đúng, nói rõ, nói hết tận cùng của sự thật. Bởi, một nửa cái bánh mì thì vẫn là bánh mì, nhưng một nửa sự thật lại không còn là sự thật nữa! Các ông, bà đừng tưởng cứ viết đúng phương pháp, đúng với quan điểm Mác - Lê, tuân thủ nghiêm ngặt theo ý chỉ đạo của cấp trên, của người khác là hay, là chuẩn mực ư? Nhà cháu nói luôn: viết thế là vứt, in ra chỉ tốn giấy tốn mực, không ai đọc, không ai cần đến thứ sử ấy đâu!”

- “Chính trị là gì và bản chất của nó là gì? Nhà cháu xin thưa luôn: bản chất của chính trị là thủ đoạn, là các mánh, mung, là các “ngón đòn” dùng để cai trị thiên hạ, là để diệt nhau, diệt các đối thủ, diệt phe cánh khác, diệt những người giỏi hơn mình, thế thôi! Nói cho cùng, chính trị cũng là một thương trường, là nơi người ta kinh doanh con đường quan lộ, chức quyền, ngôi thứ.. Đã có chức, có quyền thì ắt có bổng lộc, có tiền nhiều, bạc lắm, cả con cháu, cả dòng họ ba đời, bốn đời của họ đều được hưởng vinh hoa phú quý! Các cụ ta nói rồi: “một kẻ làm quan cả họ được nhờ” mà. Bởi thế, họ sẵn sàng làm tất cả để có được cái ngôi thứ danh giá béo bở đó, nhà cháu nói vậy là chưa dám nói hết các mánh mung của chính trị đâu nhé? Nó chẳng phải là thứ gì cao quý, linh thiêng gì đâu mà các vị cứ sùng bái hoá nó lên! Các ông, các bà đừng tưởng nhà cháu nói thế là phản động, là sai quan điểm nhé? Xin thưa, nhà cháu là một người cách mạng nhất, cộng sản nhất đấy, cháu tuy không là đảng viên nhưng lại kiên định nhất, không thằng địch nào có thể lung lay hay mua chuộc được nhà cháu đâu nhé? Sử nhà cháu làm ra luôn viết đúng, viết trung thực, đúng với sự thật lịch sử.. Bởi thế đứa sợ sử nhà cháu đầu tiên, sợ đến thót tim, sợ vãi cả linh hồn, các ông, bà biết là ai không, chính là bọn đế quốc, bọn thù địch của dân ta, bọn phản động đấy nhé! Còn lãnh đạo của ta họ không sợ đâu, vì họ có đọc đâu mà biết sợ? Họ chỉ lo tìm các mánh mung, thủ đoạn để tiến quan thăng chức, với họ lo chạy quyền lực và bổng lộc là trên hết, thì giờ đâu mà đọc sử sách. Có cuốn sách sử nào nghe nói có “vấn đề” là họ giao ngay cho bộ phận thư kí, hay lâu la xu nịnh đọc, bọn này có ý kiến báo cáo lại lãnh đạo, thế là họ cứ thế phán lại y chang thôi? Chết là ở chỗ đó”.

- “Các ông, bà có biết người VN ta giỏi như thế nào không? Theo nhà cháu thì người VN ta là giỏi nhất thế giới, giỏi hơn cả bọn đế quốc sài lang Pháp, Mỹ, Tàu, Nhật. Các ông, bà đừng nghĩ nhà cháu nói phét nhé? Chính bọn này đến xâm lược VN đều thua trắng bụng, chúng “về đến nước vẫn còn tim đập chân run”! Ấy là trong đánh giặc, còn trong xây dựng hoà bình, cái gì người VN cũng làm được hết, chế tạo được tuốt. Này nhé, VN ta làm được tất cả các loại HẠT, từ khó như hạt an-pha, hạt ga-ma, hạt cơ bản, hạt điện tử, đưa được cả hạt bèo hoa dâu lên tàu vũ trụ, rồi đến khó như hạt nhân (ta có Viện nghiên cứu hạt nhân ở Đà Lạt và ở Hà Nội đấy) chúng ta đều làm được tuốt. Tuy nhiên, vẫn còn mỗi một loại hạt, đến nay ta vẫn chưa thể làm được, chưa sản xuất ra được- đó là HẠT LÚA! Cho nên cả nước mới đói rã họng ra, đói hoa cả mắt nhé! Mà đói thì hay nói liều, làm liều, viết liều theo ý chỉ đạo của đứa khác, để mong kiếm được đồng tiền, bát gạo nuôi con? Làm kẻ sĩ thời nay nó khổ vậy? Nên sử ấy, văn chương ấy chỉ dùng để tế đảng, tế lãnh tụ thôi, dân ta ai đọc? Bao giờ VN lo được hạt gạo no đủ, dư dật thì mới mong làm được sử sách, văn chương cho tử tế, cho ra hồn cốt nhé! Có thực mới vực được đạo mà!”

- “Còn học xong ra trường các ông/ bà dự định làm gì, làm nhà báo, nhà sử, hay nhà văn? Theo nhà cháu thì làm gì cũng được, đừng nghĩ rằng mình đã là cử nhân trường ĐHTH HN rồi thì phải được làm quan, làm vương, làm kẻ đè đầu cưỡi cổ thiên hạ nhé? Nếu nghĩ thế thì nhà cháu nói luôn, đừng học ở đây nữa? Nhà cháu không dạy, không đào tạo ra những ông/ bà ra đời chỉ muốn ngồi lên đầu của thiên hạ? Theo nhà cháu, làm gì không quan trọng, quan trọng là phải làm thật, làm giỏi, làm tử tế, kể cả đi làm thằng đá bóng? Cứ làm giỏi, làm tử tế thì thiên hạ sẽ kính nể mình ngay”!

Nghe thầy giảng vậy, tất cả sinh viên đều vỗ tay rào rào hoặc cười ồ lên khoái chí! Một ông thầy bạo mồm bạo miệng, nói những điều trái khoáy, lạ hoắc. Thời đó nghe những lời như vậy, vừa khoái, vừa sợ, nghe sướng tai nhưng lại gai hết cả người! Không ít người cho đó là tư tưởng phản động, là lồi lõm “có vấn đề”?
Hồi cuối những năm 80, tiếng tăm của thầy nổi như cồn. Rất nhiều cơ quan, tỉnh, thành.. trong cả nước đều mời thầy về thỉnh giảng hoặc nói chuyện chuyên đề nào đó! Những lần như thế cán bộ, công chức, thanh niên.. đều đến nghe chật cứng cả hội trường và vỗ tay rầm trời! Tôi nghe có người nói lại rằng, hồi ấy mỗi lần thầy Vượng đi thuyết giảng hay nói chuyện thời sự ở đâu đó thì đều có cán bộ an ninh của bộ Nội vụ- nay là BCA (mặc thường phục) bí mật về dự và ghi âm lại những gì thầy đã giảng, rồi anh này về báo lại cấp trên (!)

Có người biết chuyện này nên nói lại với thầy. Nghe xong, thầy chỉ cười ngất rồi khoát tay: “các ông, bà đừng quá lo, nhà cháu biết chứ, cái anh mặc áo trắng, đeo kính đen ngồi im lặng ở trong góc cuối hội trường chứ gì? Mà thôi, nhà cháu giảng gì là việc của nhà cháu, anh ta làm gì là việc của anh ta ? Ai cũng sợ cả thì sẽ không bao giờ có người dám nói lên sự thật! Một xã hội mà không có ai dám nói lên sự thật, mọi sự thật, mọi chân lí đều bị bưng bít, bị bẻ cong hết, thì đó là một xã hội khuyết tật, một xã hội không dân chủ, không bình thường”! Cũng có địa phương sau khi nghe thầy nói chuyện, họ đã có đơn thư gửi về TW báo cáo và đánh giá đây là một người có tư tưởng trái với lập trường, quan điểm của đảng, là “phản động” (?), rất nguy hại cho lớp trẻ, cần phải ngăn chặn, cấm ngay?

Tuy có những “báo cáo mật” như vậy gửi về TW, nhưng thầy vẫn không bị trên “rung chuông” hay nhắc nhở gì? Bởi nghe nói thầy được Thủ tướng Phạm Văn Đồng và sau này là Thủ tưởng Võ Văn Kiệt cực kì quý, tin tưởng và đánh giá cao tài năng, khí phách, trí tuệ và nhân cách của Thầy. Thỉnh thoảng Thủ tướng đi công cán nước ngoài về vẫn gửi quà cho thầy, hoặc mời thầy ra nhà riêng uống cà phê và đàm đạo!

Nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới đều gửi thư cho trường ĐHTH HN đề nghị đích danh được mời GS TQV sang thuyết giảng cho SV của họ! Mặc dù TQV không chính thức bị ngăn cấm đi nước ngoài thuyết giảng, nhưng nhiều lần thầy vẫn bị cấp có thẩm quyền tìm cách từ chối khéo! Tháng 4/1992, một trường ĐH danh tiếng của Mỹ tha thiết mời GS sang thụ giảng, thời gian họ bao toàn bộ là trong 6 tháng. Sau một số “trắc trở”, trì hoãn kéo dài về thủ tục giấy tờ, cuối cùng thì với sự đích thân can thiệp của Cố vấn Phạm Văn Đồng, đến tháng 10/ 1992, thầy cũng được sang Mỹ. Những bài thuyết trình của GS Vượng tại Mỹ đã gây tiếng vang lớn, được giới sử học Mỹ đánh giá rất cao, đồng thời họ rất lấy làm ngạc nhiên là không ngờ trong giới sử học VN lại có những chuyên gia lịch sử - khảo cổ uyên bác và tầm cỡ như vậy?! Cũng chính trong thời gian ở Mỹ, các bài giảng, bài thuyết trình của GS Vượng đã được một nhà XB danh tiếng ở California tập hợp lại và xin được in thành sách (1/1993) để phát hành rộng rãi ở Mỹ. Đó chính là cuốn sách mang tên “Trong Cõi”, in bằng tiếng Việt, do NXB Trăm Hoa phát hành.

Tại sao vì sách “Trong Cõi” mà nhà nước xếp Sử Gia Trần Quốc Vượng theo chân các nhà dân chủ chống đối kiểu như Bùi Tín, Hà Sỹ Phu?


Mọi “rắc rối” với GS TQV cũng bắt đầu từ đây. Trong nước nhiều nơi, dù họ chưa được đọc cuốn sách này, người ta vẫn cứ phán như thật, rằng: GS TQV, với cuốn sách “Trong Cõi” là một cú chơi tất tay, chính thức quay xe “trở cờ” theo chân các nhà dân chủ chống đối kiểu như Bùi Tín, Hà Sỹ Phu.. Rồi nào là, với cuốn “Trong Cõi”, TQV sẽ không dám về nước nữa mà xin được cư trú chính trị tại Mỹ để còn có cơ hội.. “phá” đất nước tiếp!?

Lúc đó, Cố vấn Phạm Văn Đồng nghe vậy không tin, ông liền yêu cầu người của ta ở Mỹ điều tra và báo cáo! Khi được người của bộ Ngoại giao VN tìm đến hỏi, GS Vượng thản nhiên trả lời: Tôi là một người yêu nước, yêu dân tộc VN hơn ai hết, tại sao tôi lại phải ở lại Mỹ nhỉ? Còn cuốn sách “Trong Cõi” là những bài thuyết trình của tôi tại Mỹ, nó là một tác phẩm khoa học chân chính, sẽ góp phần làm cho giới lãnh đạo và nhân dân Mỹ hiểu đầy đủ và sâu sắc hơn về lịch sử dân tộc VN, con người VN. Tôi dám khẳng định rằng với các anh rằng, sau khi cuốn sách này được dịch ra tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp.. như các NXB bên này họ vừa đề nghị với tôi, thì tôi tin rằng, đây sẽ là “chiếc cầu nối hoà bình”, là một món quà văn hoá làm sứ mệnh “giảng hoà” với nước Mỹ, để lãnh đạo Mỹ và phương Tây nghiên cứu, qua đó giúp họ hiểu về VN hơn, tiến tới Mỹ và phương Tây sẽ xoá bỏ cấm vận với VN! Các vị hãy tin tôi đi! Tôi xin khẳng định lại, ở đây nhiều trường ĐH đang mời chào tôi ở lại, nhưng tôi đã trả lời là KHÔNG, dứt khoát là không bao giờ. Tôi sẽ trở về VN đúng hạn, trừ khi các vị trong nước cấm tôi trở về!

Chỉ sau chưa đầy 2 năm ngồi vào Nhà trắng, ngày 3/4/1994, TT Clinton đã chính thức kí xoá bỏ lệnh cấm vận về kinh tế của Mỹ với VN- một lệnh cấm vận từng kéo dài gần suốt 20 năm, gây ra bao hậu quả rất nặng nề cho nhân dân VN cũng như mối quan hệ & vị thế của VN trên trường quốc tế! Tiếp đó, đầu năm 1995, TT B. Clinton cùng Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã kí kết xoá bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận, hai nước chính thức bình thường hoá và lập quan hệ cấp ngoại giao. Từ đây đất nước VN bước sang một trang sử mới, vị thế của VN trên trường quốc tế được khẳng định & ngày càng nâng lên. Quan hệ Việt - Mỹ sau nhiều thập kỉ bị đóng băng, giờ đây đang từng bước trở lại bình thường và ngày càng nồng ấm, tốt đẹp lên!

Có nhiều nguyên nhân quan trọng khác để dẫn tới việc TT Mỹ, B. Clinton kí lệnh xoá bỏ cấm vận với VN, nhưng tôi tin có những yếu tố tác động đến từ cuốn sách “Trong Cõi”, như lời GS TQV đã khẳng định trước đó 1 năm! Sau này khi được làm việc với thầy Vượng, thầy đã cho tôi xem lá thư viết tay của bà Hillary Clinton gửi GS TQV, (lá thư được chuyển qua đường ngoại giao), trong đó bà Hillary khoe là đã đọc hết cuốn sách “Trong Cõi” (bằng tiếng Anh). Bà nói, nhờ cuốn sách này mà bà đã tích cực hối thúc chồng mình phải nhanh chóng huỷ bỏ lệnh cấm vận với VN. Bà Clinton còn viết là, bà rất mong muốn sớm được gặp lại GS tại Mỹ, đồng thời mong muốn được đọc nhiều cuốn sách hay như vậy nữa của GS!

Rất tiếc hồi đó chưa có đt thông minh để tôi có thể xin GS được chụp lại lá thư của bà Hillary!

Hết kì thỉnh giảng ở Mỹ, tháng 3 năm 1993, GS TQV trở về VN. Nhưng “dư chấn” của cuốn sách “Trong Cõi” vẫn tiếp tục bám theo ông một cách dai dẳng, hành hạ ông như một định mệnh. Mặc dù đến năm 1995, lệnh cấm vận của Mỹ với VN đã được xoá bỏ hoàn toàn, đúng như nhận định cùa GS Vượng. Song, ở trong nước vẫn có không ít người cho rằng cuốn “Trong Cõi” là một cuốn lịch sử độc hại, phản động, “xúc phạm” tới lãnh tụ HCM, cần phải nghiêm cấm và trừng phạt nghiêm khắc tác giả của nó, dù lời khẳng định của TQV rằng, cuốn sách sẽ là “Đại sứ hoà bình”, góp phần giải toả mối quan hệ bị “đóng băng” giữa VN và Mỹ đã bị kéo dài gần 2 thập niên, nay nhận định đó của GS đã thành sự thật!

Thế là, GS phải ngồi viết bản tường trình kiểm điểm. Thầy chỉ là một GS trơn, không có chức vụ gì ở khoa, ở trường để mà cách chức cả. Tuy nhiên, họ vẫn không buông tha ông ! Không có chức vụ gì mà “cách” cả, thì người ta đã cấm thầy (lệnh cấm bằng miệng của ai đó trong Ban BT TW Đảng, nói với lãnh đạo nhà trường) là GS Vượng không được tham gia giảng dạy với SV ở trường ĐHTH HN nữa, mà chỉ được tự nghiên cứu, đi điền dã các di tích lịch sử để tiến hành khảo cổ, khai quật, rồi làm cán bộ viết sử (viết thuê) cho một số cơ quan, đơn vị có nhu cầu..

Từ năm 1993-1997, tôi (QNV) quay trở lại trường ĐHTH HN lần 2 để học tiếp ĐH văn bằng 2, khoa Lịch sử và học tiếp để lấy các học vị khác.. Tôi rất buồn, vì suốt cả thời gian đó, tôi không được học với thầy nữa, bởi thầy đã bị “cấm lên lớp”. Cuối năm 1995, Viện Lịch sử quân sự VN/ BQP triển khai bộ đề tài cấp BQP, công trình “Lịch sử quân sự Việt Nam“- gồm 14 tập, nghiên cứu Lịch sử quân sự VN từ thời Hùng Vương dựng nước đến thời hiện đại. Đây là 1 bộ công trình lớn, gồm rất nhiều tập, nên phải mời các GS, các nhà khoa học đầu ngành làm chủ biên và tham gia viết một số chương. Tôi được chỉ huy Viện giao đến gặp và mời GS TQV, lúc này đang bị “ngồi chơi xơi nước” hợp tác làm chủ biên Tập 2 bộ công trình này ( tập 1 - GS Hà Văn Tấn chủ biên; Tập 5- GS Phan Huy Lê chủ biên, tập 8- GS Đinh Xuân Lâm- chủ biên, tập 7- GS-TSKH Vũ Minh Giang chủ biên..). Như vậy, Bộ công trình lịch sử lớn này của Viện LSQS VN đã được các GS thuộc hàng “tứ trụ” của ngành Sử học VN tham gia nghiên cứu và làm chủ biên.

Cũng từ đây, tôi được gặp thầy TQV rất nhiều lần, cho đến khi T2 của bộ công trình này (do TQV làm chủ biên) hoàn thành và xuất bản. Được tiếp xúc trò chuyện với thầy, tôi thấy mình được học hỏi và mở mang ra rất nhiều kiến thức mới mẻ, nhất là tác phong làm việc nghiêm túc, cẩn trọng trong nghiên cứu khoa học.

Tập 2 mà GS TQV làm chủ biên (nghiên cứu dựng lại LSQSVN từ năm 179-TrCN đến năm 938) là một giai đoạn lịch sử rất dài, rất khó (kéo dài hơn 1000 năm), tư liệu để lại rất ít và tản mát. Nhưng với tinh thần nghiêm túc, đã nhận là thầy vào cuộc rất xông xáo, quyết liệt, cùng với các nhà khoa học trong và ngoài Viện, thầy đã ráo riết đôn đốc chỉ đạo, nên chỉ sau khoảng 3 năm, công trình tập 2 của thầy đã được nghiệm thu và sau đó Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản ( xuất bản lần đầu năm 1999, tái bản lần 2 năm 2017).
Trong một lần ngồi trò chuyện với thầy, tôi hỏi thầy vì sao người ta không cho thầy được giảng dậy nữa mà vẫn được tham gia nghiên cứu đề tài lịch sử? Thầy cười buồn: “Người ta bảo, quan điểm của tôi lồi lõm, có vấn đề ông ạ. Nếu để tôi tiếp tục lên lớp thì không ai kiểm soát được tôi đã nói, đã dạy những gì cho sinh viên. Ông biết đấy, người Tàu họ có câu:”Nhất ngôn tán phát, bát mã nan truy”- nghĩa là, một lời khi đã nói ra thì tám ngựa đuổi theo cũng không kịp thu lại ! Nên họ khuyên tôi không đi dậy nữa, mà họ nói không ai cấm tôi cả (?). Thế là tôi bỗng nhiên trở thành “mất dạy” ông ạ mà chẳng hiểu vì đâu lại như thế? Còn tham gia viết công trình, đề tài sử - như với các ông đây, thì trên thằng chủ biên là tôi, còn có đảng uỷ, có hội đồng chỉ đạo, hội đồng nghiệm thu đánh giá quan điểm, chất lượng công trình trước khi xuất bản? Vậy nên người ta không lo tôi sẽ viết sai về lập trường, quan điểm hay gì gì đó? Vậy là ông hiểu rùi chứ? Làm cái thằng nghiên cứu sử học, dù được họ tung hô là “cây đa, cây đề” gì đấy, thì vưỡn bị o ép, làm khó dễ đủ đường”.
Nghe GS nói vậy, tôi chỉ biết im lặng (vâng, thưa linh hồn thầy, cơ chế ở ta nó vậy!)…

Trở lại số phận cuốn sách “Trong Cõi”, nó vẫn là “cái gai”khó chịu trong mắt một số nhà lãnh đạo! Đã hơn 10 năm lùi xa, với thời gian trôi đi đã chứng minh rằng, cuốn sách không có gì là độc hại hay quá nhạy cảm! Năm 2004, nhân kỉ niệm tròn 70 ngày sinh của GS, có một vài nhà XB ở VN đã xin phép được in cuốn sách này ở VN để mừng ngày SN lần thứ 70 của GS! Nhưng tất cả đều trôi vào im lặng, không ai dám cho phép cả (?). Thật buồn là chỉ không đầy 1 năm sau đó, GS TQV đã sớm qua đời vì căn bệnh ung thư hiểm nghèo!


Phải mãi đến năm 2015, nhân kỉ niệm 10 năm ngày GS từ trần, thì Nxb Hội Nhà văn VN (chứ không phải là Nxb Khoa học Xã hội hay Hội Sử học nhé, họ coi như đây là cuốn văn chương hư cấu, chứ đâu phải là lịch sử mà làm căn cứ để nói đây là sự thật? ), mới được phép in lại cuốn sách này ở VN. Nhưng cuốn sách in ở VN.. lại bị người ta “bắt” cắt bỏ (!) đoạn nhạy cảm viết về gốc gác dòng tộc Nguyễn Sinh và thân phụ Chủ tịch HCM, ông phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và bài 17 “Nỗi ám ảnh của quá khứ” - là bài chiêm nghiệm về quá khứ lịch sử rất đặc sắc, thâm thuý? Vì lí do gì mà họ lại cắt những đoạn đặc sắc và bài (17), không ai giải thích cả (?). Trong “Lời nói đầu” giới thiệu cuốn sách của NXB họ cũng.. lờ tịt đi! Có lẽ ở nước ta, những bí mật của quá khứ liên quan tới gia tộc, gốc tích, dòng họ.. của lãnh tụ vẫn luôn là điều thuộc “cấm kỵ”…

Thôi thì dù cuốn sách bị kiểm duyệt, bị cắt mất những phần đặc sắc, minh triết nhất thì vẫn còn hơn là không được xuất bản ở VN! Với sự ra mắt của cuốn sách này ở VN, đã chứng minh rằng GS TQV vẫn là một nhà sử học tài năng, chân chính, một trí thức lớn luôn tâm huyết với đất nước, cả cuộc đời ông luôn sống thẳng thắn, cương trực, cống hiến hết mình cho dân tộc, cho Tổ quốc và cho một nền sử học vì con người của VN!
Qua bao thăng trầm, vui buồn, vinh hạnh, với những cống hiến to lớn cho Tổ quốc, cho Thủ đô ngàn năm văn hiến, ngày 28/ 10/ 2016, GS Trần Quốc Vượng đã được UBND Tp HN đặt tên đường phố mang tên ông! Đó là con đường khá đẹp, dài trên 750m, rộng 13 m, nối từ phố Xuân Thuỷ ra đường Phạm Hùng, thuộc Q. Cầu Giấy!

Đây là một sự đánh giá và vinh danh xứng đáng đối với cuộc đời và sự nghiệp của một nhà khoa học chân chính, một nhà sử học lớn tài năng của đất nước!

Sách TRONG CÕI của Trần Quốc Vượng được xuất bản tại Việt Nam thiếu mất 2 chương?


Cuốn TRONG CÕI của Trần Quốc Vượng được xuất bản tại Việt Nam. Đáng tiếc là so với sách xuất bản tại Mỹ năm 1993, thì phần viết về nỗi bất hạnh của Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc (cha của Hồ Chí Minh – Chủ tịch Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa) và bài 17 “Nỗi ám ảnh của quá khứ” đọc rất thú vị lại bị cắt bỏ !
Sách được NXB Trăm Hoa, California xuất bản tháng 1.1993 (Mỹ). “Trong Cõi” gồm 17 bài khảo cứu, suy nghẫm, tìm tòi của TQV về lịch sử Văn hoá, về khảo cổ học, về những chiêm nghiệm, về tâm linh. Nội dung đều rất mới, lạ, hay. Tác giả đã rất thẳng thắn đánh giá, nhìn nhận nhiều vấn đề “nhạy cảm” mà nhiều người biết nhưng không dám nói ra, viết ra.
Sách ngay từ khi ra đời đã gây nhiều phiền toái cho GS Trần Quốc Vượng vì có đoạn viết về cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc (cha ông Hồ Chí Minh) trong bài 15: “Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia (Kinh nghiệm điền dã)”, với nhiều điểm mới chưa có trong các sách, báo đã xuất bản trước đó.
Tác giả cho rằng Nguyễn Sinh Sắc là con của ông đồ Hồ Sĩ Tạo, không phải dòng dõi họ Nguyễn Sinh… Vấn đề này có gì ghê gớm đâu, họ nào thì các cụ vẫn người Việt Nam, con Lạc, cháu Hồng, thế nhưng chính quyền lại không thích những chuyện kiểu đó, chỉ muốn mọi chuyện đã như công bố, động chạm đến các “Lãnh tụ” là một điều cấm kỵ.
Danh mục 17 bài viết trong sách:
1. Vài suy nghĩ tản mạn về trống đồng
2.Mấy ý kiến về trống đồng và tâm thức Việt cổ
3.Từ huyền tích đến lịch sử (mấy vấn đề phương pháp luận và phương pháp cụ thể)
4. Tây Sơn Quang Trung và công cuộc đổi mới đất Việt ở thế kỷ XVIII
5.Đô thị cổ Việt Nam
6. Vị thế địa-lịch sử và bản sắc địa-văn hoá của Hội An
7. Một cách nhìn văn hoá học về Văn Miếu - Quốc Tử Giám
8. Hội hè dân gian
9. Căn bản triết lý người anh hùng Phù Đổng và hội Gióng
10. Triết lý trầu cau
11. Triết lý bánh chưng bánh dày
12. Một thời đã qua, một thời đang tới
13. Dân gian và bác học
14. Việt Nam: 100 năm giao thoa văn hoá Đông-Tây
15. Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia (Kinh nghiệm điền dã)
16. Xây dựng một nền văn hoá Việt Nam nhân bản, dân tộc, dân chủ, khoa học
17. Nỗi ám ảnh của quá khứ

Sau đây hai chương đã bị cất bỏ trong Cuốn TRONG CÕI của Trần Quốc Vượng khi được xuất bản tại Việt Nam so với sách xuất bản tại Mỹ năm 1993: đó là chương thứ 15 phần viết về nỗi bất hạnh của Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc (cha của Hồ Chí Minh – Chủ tịch Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa) và bài 17 “Nỗi ám ảnh của quá khứ” !




Sử gia Trần Quốc Vượng (1934 - 2005).

Lời truyền miệng dân gian
về nỗi bất hạnh của một số nhà Nho 

viết về Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc 


Đến đây tôi sẽ khép (lại) bài kể lể khá dài dòng của mình bằng câu chuyện một người tuy có tên tuổi nhưng không lấy gì làm nổi tiếng lắm, hay đúng hơn đã trở nên có tên tuổi nhờ gắn bó máu thịt với một người tên tuổi (nhưng từ đầu đến cuối câu chuyện của tôi đều nói về các nhà Nho, các vị thái học sinh, tiến sĩ, bảng nhãn hay là phó bảng cả).
 

Đó là câu chuyện về cụ thân sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc hay Nguyễn Sinh Huy.
Phó bảng là một học vị tiến sĩ, chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam từ đời vua Minh Mạng nhà Nguyễn (1830-1931).
Trong một lá đơn bằng tiếng Pháp gửi bộ Thuộc địa Pháp, Nguyễn Tất Thành (sau là Hồ Chí Minh) đã khéo dịch tên học vị của phụ thân mình là sous docteur (16), như ngày nay ta gọi là phó tiến sĩ.
Quê hương cụ, là làng Kim Liên, tên nôm là làng Sen, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Nhưng đậu phó bảng rồi cụ đã làm thừa biện bộ Lễ ở Huế rồi tri huyện Bình Khê (Bình Định). Rồi bỏ quan (hay bị cách chức quan, vì có con trai nằm trong diện mật thám Pháp truy nã) cụ phiêu dạt vô Sài Gòn, ngồi bắt mạch kê đơn ở tiệm thuốc bắc Hoa kiều, để có chút cơm rượu... Lại phiêu lãng nữa, tới miền Tây Nam bộ, và cuối cùng mất ở Cao Lãnh (Sa Đéc nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Mộ cụ phó bảng được xây lại cuối năm 1954 sau sự kiện Genève tạm thời chia đôi đất nước Việt Nam.
Người ta làm thế là vì cụ Hồ. Cũng như mộ bà Hoàng Thị Loan vợ cụ và là thân mẫu Hồ Chí Minh mới được dời xây lại vài năm nay ở Nam Đàn, Nghệ An. Người ta làm thế cũng là vì cụ Hồ. Hai ngôi mộ này, cũng như bản thân Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh giữa lòng Ba Đình, Hà Nội đều hiện hữu ngoài ý thức Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông Hồ vốn được xem là người giản dị, khiêm nhường...
Cũng đã có dăm cuốn sách nói về gia thế cụ Hồ Chí Minh. Nhưng câu chuyện tôi sắp kể dưới đây thì chưa từng ai viết.
Chỉ là lời truyền miệng dân gian, ở Kim Liên, Nam Đàn, ở một số người gốc Nghệ hiện sống tại Hà Nội và nhiều nơi khác trên mảnh đất Việt Nam. Nếu trong Folklore, có hiện tượng mà các nhà nghiên cứu gọi là lan truyền thì từ lâu câu chuyện này cũng đã lan truyền từ làng Kim Liên ra khắp huyện Nam Đàn rồi khắp tỉnh Nghệ An rồi rộng ra hơn nữa... Nhưng phạm vi lan truyền và số người biết câu chuyện này phải nói là hạn hẹp. Vì người ta Sợ.
Sợ động chạm đến cụ Hồ. Một cái sợ vô nghĩa nhưng người ta cứ gán cho nó cái ý nghĩa chính trị giả tạo. Vì như bà Trịnh Khắc Niệm viết trong cuốn tiểu truyện bằng tiếng Anh "Life and Death in Shanghai" (17), đã được phiên dịch ra tiếng Việt: Ở xã hội xã hội chủ nghĩa, cuộc đời của các lãnh tụ cộng sản được coi là "bí mật quốc gia".
Nhưng đây không phải là chuyện cụ Hồ, tuy cũng có dính dáng đến cụ Hồ. Mà vì đây là chuyện cụ thân sinh ra cụ Hồ. Cụ Nguyễn Sinh Huy. Mà cũng là truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại, folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã nói từ đầu bài này.
Người dân Kim Liên đồn rằng Nguyễn Sinh Huy không phải là thuộc dòng máu mủ của họ Nguyễn Sinh làng này. Mà là con của một người khác: Ông đồ nho, cử nhân Hồ Sĩ Tạo.
Cử nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An (đây là quê gốc của Hồ Quý Ly, nhân vật lịch sử cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, đây cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn thế kỷ XVIII, vốn họ Hồ ở xứ Nghệ), đây cũng là quê hương Hoàng Văn Hoan, người đồng chí thân cận một thời của cụ Hồ Chí Minh, được cụ Hồ giao phụ trách công tác đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thời kháng chiến chống Pháp và là Đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, sống lưu vong ở Trung Hoa, có viết một tài liệu lịch sử làng Quỳnh Đôi quê ông, bà vợ nhà văn lớn Đặng Thái Mai, người một thời làm Bộ trưởng Giáo Dục trong chính phủ của cụ Hồ 45-46 rồi làm Viện trưởng viện Văn Học, là Hồ Thị Loan, cũng thuộc dòng họ Hồ này ở làng Quỳnh Đôi). Khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX) cử nhân Hồ Sĩ Tạo có thời gian ngồi dạy học ở một nhà họ Hà, người làng Sài, cùng một xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, với làng Sen (Kim Liên). Đó là một nhà nghệ nhân dân gian, trong nhà có phường hát ả đào.
Nhà họ Hà có cô con gái tên là Hà Thị Hy, tài hoa, nhan sắc, đàn ngọt, hát hay, múa khéo, đặc biệt là múa đèn (đội đèn trên đầu, để đèn trên hai cánh tay, vừa hát vừa múa mà dầu trong đĩa không sánh ra ngoài) nên người làng thường gọi là cô Đèn. Người ta thường bảo: má hồng thì mệnh bạc. Như Đặng Trần Côn viết mở đầu khúc ngâm chinh phụ: "Hồng nhan đa truân" (Gái má hồng nhiều nỗi truân chuyên). Hay như Nguyễn Du than thở dùm người đẹp tài hoa trong truyện Kiều: "Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau"... "Rằng hồng nhan tự thuở xưa, Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu"...
Vả ở thời ấy, dưới chế độ quân chủ nho giáo lấy tứ dân (Sĩ Nông Công Thương) làm gốc, người ta vẫn xem thường nghề ca xướng và con nhà ca xướng "Xướng ca vô loài".
Cô Đèn, Hà Thị Hy tài hoa nhan sắc là thế mà rồi ba mươi tuổi vẫn chưa lấy được chồng. Mà trong nhà thì lại luôn có bậc văn nhân: ông cử Hồ Sĩ Tạo. "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" là lẽ thường theo tâm lý dân gian, huống chi là giữa văn nhân - tài tử - giai nhân: "Trai tài Gái sắc" mà! Và cô Hà Thị Hy bỗng dưng "không chồng mà chửa". Mà ông cử Tạo thì đã có vợ có con rồi! Lệ làng ngày trước phạt vạ rất nặng nề, sỉ nhục hạng gái "chửa hoang" hạng "gian phu dâm phụ". Để tránh nỗi nhục cho con gái mình và cho cả ông cử Tạo đang làm "thầy đồ" được hết sức kính trọng trong nhà mình, nhà họ Hà phải bù đầu suy tính...
Lúc bấy giờ ở làng Sen cùng xã có ông Nguyễn Sinh Nhậm, dân cày, tuổi cao mà góa vợ (bà vợ trước đã có một con trai là Nguyễn Sinh Thuyết, và người con trai này cũng đã có vợ).
Nhà họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn Sinh Nhậm đến điều đình, "cho không" cô Hy làm vợ kế ông này, như một người con gái xướng ca, quá lứa, lỡ thì, lấy ông già góa vợ, mong ém nhém việc cô gái đã "to bụng".
Công việc rồi cũng xong. Cô Hy ôm bụng về nhà chồng, có cưới có cheo cẩn thận. Việc phạt vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa nhan sắc thì bao đêm khóc thầm vì bẻ bàng, hờn duyên tủi phận. Và ông lão nông dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng cũng buồn vì đâu có đẹp đôi, lại cắn răng chịu đựng cái tiếng ăn "của thừa", "người ăn ốc (ông cử Tạo), kẻ đổ vỏ (cụ lão nông Nhậm)". "Miệng tiếng thế gian xì xầm", ai mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời "nói ra nói vào", lời chì chiết của nàng dâu vợ anh Thuyết, vốn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm điều. Ông Nhậm đành cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở riêng với bà vợ kế.
Chỉ ít tháng sau, bà vợ kế này đã sinh nở một mụn con trai, được ông đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc, lấy họ ông, mặc dù ông biết rõ hơn ai hết đó không phải là con ông, con nhà họ Nguyễn Sinh này. Nàng dâu ông càng "tiếng bấc tiếng chì" hơn trước vì ngoài việc bố chồng "rước của tội của nợ", "lấy đĩ làm vợ" thì nay còn nỗi lo: Người con trai này - được ông nhận làm con - lớn lên sẽ được quyền chia sẻ cái gia tài vốn cũng chẳng nhiều nhặn gì của một gia đình nông phu thôn dã. Việc ấy xảy ra vào năm Quý Hợi, đời vua Tự Đức thứ 16 (1863).
Vì trọng tuổi, lại vì lo phiền, vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng chỉ ít lâu sau đó, bà Hy cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ côi. Lên 4, về ở với người anh gọi là "cùng cha khác mẹ" mà thật ra là "khác cả cha lẫn mẹ", cùng với bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào cũng chỉ muốn tống cổ cái thằng "em hờ" của chồng đi cho "rảnh nợ".
Không cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn Sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ cực về vật chất như thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta cảm thấy vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh ngang trái của cuộc đời. Bên ngoại thì ông bà đều đã mất, họ hàng chẳng còn ai chịu cưu mang đứa trẻ có số kiếp hẩm hiu này.
May có ông Tú đồ nho Hoàng Xuân Đường, người làng Chùa (Hoàng Trù) gần đó, xót thương đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rơi của một nhà nho khác, lại có vẻ sáng dạ, nên đã đón về làm con nuôi, cho ăn học. Và đến khi Nguyễn Sinh Sắc 18 tuổi, ông bà đồ họ Hoàng lại gả cho cô con gái đầu lòng, Hoàng Thị Loan, mới 13 tuổi đầu, cho làm vợ, lại làm cho căn nhà tranh ba gian ở ngay làng Chùa, để vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ăn ở riêng. Ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Sinh Sắc gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ, làng Chùa, hơn là với làng Sen "quê nội", "quê cha hờ". Con cái ông, từ người con gái đầu Nguyễn Thị Thanh, qua người con trai đầu Nguyễn Sinh Khiêm (tục gọi ông Cả Đạt) đến người con trai thứ Nguyễn Sinh Côn* (hay Nguyễn Tất Thành, sau này là Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh) đều được sinh ra và bước đầu lớn lên ở làng Chùa bên quê Mẹ hay là quê ngoại. Khi ông Tú Hoàng (Hoàng Xuân Đường) mất, vợ chồng con cái Nguyễn Sinh Sắc lại về ăn ở chung với bà đồ Hoàng. Các cháu đều quấn quít bên bà ngoại.
Qua giỗ đầu cụ tú Hoàng, Nguyễn Sinh Sắc đi thi Hương khoa Giáp Ngọ và đậu cử nhân (1894). Ông được nhận ruộng học điền, ruộng công của làng Chùa chia cho những người có học (nhằm khuyến khích việc học) để học thêm, chứ không phải nhận ruộng học của làng Sen. Khoa thi Hội Ất Mùi (1895), ông thi trượt.
Nhờ sự vận động gửi gắm của ông Hồ Sĩ Tạo, người cha thực của Nguyễn Sinh Sắc, với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh Sắc được coi như ấm sinh, để được nhận vào học Quốc Tử Giám ở kinh đô. (Ai cũng biết: Để được nhận vào học Quốc Tử Giám và làm giám sinh phải là con cháu của những gia đình có thế lực gọi là "danh gia tử đệ". Nếu không có sự can thiệp của ông Hồ Sĩ Tạo là bậc khoa bảng cao quan thì làm sao Nguyễn Sinh Sắc được nhận? Thế là dù sao Hồ Sĩ Tạo vẫn còn có một "cử chỉ đẹp" với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn Sinh Sắc, đổi tên là Nguyễn Sinh Huy, đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học Quốc Tử Giám. Khoa thi Hội Mậu Tuất (1898) ông lại trượt.
Ngày 22 tháng chạp năm Canh Tý (10-2-1901), bà Hoàng Thị Loan ốm mất ở kinh đô Huế, sau khi sinh đứa con trai út (đứa con trai này ít ngày sau cũng chết). Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày sau) trở thành con trai út.
Nguyễn Sinh Huy đem hai con trai về làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng chăm sóc dùm, rồi trở vào kinh thi Hội. Khoa Tân Sửu (1901) này, ông đậu phó bảng và được "vinh quy bái tổ" về làng.
Theo thể thức triều đình, lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội, dù là quê nội danh nghĩa, tức là làng Sen - Kim Liên. Hội đồng hương lý và dân xã dựng nhà tranh 5 gian (chứ không phải nhà ngói) trên một khoảnh đất vườn làng Sen, để đón quan Phó bảng tân khoa Nguyễn Sinh Huy về làng.
Thế là buộc lòng ông phải về "quê nội". Ông cũng đón hai con trai về ở cùng ông. Lần đầu tiên Nguyễn Sinh Côn (Hồ Chí Minh ngày sau), về ở quê nội, nhưng thân ông, lòng ông vẫn hướng về quê ngoại là cái gì "đích thực" và gắn bó với tuổi thơ ông. Ông Phó bảng có đến thăm cụ Hồ Sĩ Tạo.
Nhưng gia đình ông phó bảng cùng hai con trai cũng không ở lâu tại Kim Liên. Chưa đầy 3 năm! Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô nhận chức quan (1904) ở bộ Lễ, đem theo hai con trai vào Huế học. Năm 1907 ông bị đổi đi Tri huyện Bình Khê... Rồi sau khi bỏ quan (hay mất quan, khoảng 1910), ông phiêu bạt vô Sài Gòn rồi lục tỉnh Nam Kỳ. Không bao giờ ông về làng Sen trở lại nữa...
*
Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh và ông Cả Đạt (Khiêm), cả hai đều không lập gia đình riêng.
Người ta bảo lúc sau khi cụ Hồ Sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh cũng qua Quỳnh Đôi góp giỗ cụ Hồ Sĩ Tạo. Thế nghĩa là cái "bí mật" về cội nguồn của cụ Phó bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất có bà con gái đầu biết. Người ta bảo: ông Cả Đạt cũng biết, tuy không bao giờ ông sang Quỳnh Đôi nhận họ.
Còn Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành có biết không? Từ khoảng 11 đến 14 tuổi, ông ở làng Sen, có nhẽ nào không ai nói cho ông biết? Hay là trước đó nữa, khi ông ở làng Chùa quê ngoại gần gặn với làng Sen! Hay là sau đó nữa chả nhẽ không khi nào cụ Phó bảng hay bà Thanh hay ông Đạt lại không kể với ông về "bí mật" của gốc tích phụ thân mình?
Không có chứng cớ gì về việc ông Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc, biết hay không biết chuyện này... Sau này khi hoạt động cách mạng, ông còn mang nhiều tên khác nữa...
Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này, thì người ta thấy ông mang tên Hồ Chí Minh.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công khai thì cũng bắt đầu từ đó dân gian Việt Nam, từ trí thức đến người dân quê, lại âm thầm bàn tán: Vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi họ tên là Hồ Chí Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho tới khi "về với Các Mác, Lê Nin" năm 1969.
Cuộc đời thực của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh còn quá nhiều dấu hỏi chứ phải đâu riêng gì một cái tên! Và biết làm sao được khi cụ Hồ, tôi nói lại một lần nữa theo cảm thức của người Ấn Độ, đã trở thành một huyền thoại. Huyền thoại Hồ Chí Minh được hình thành trong vô thức dân gian mà Carl Gustav Jung gọi là vô thức tập thể. Nhưng nó cũng có phần được hình thành một cách hữu thức, bởi một số cán bộ gần gụi cụ Hồ. Nghĩa là một phần cuộc đời cụ Hồ đã được huyền thoại hóa.
Ngay sau cách mạng tháng Tám, người ta còn in cả một cuốn sách (mỏng thôi) về sấm Trạng Trình có những câu vận vào cụ Hồ và sự nghiệp cách mạng tháng Tám. Và sấm Trạng Trình vẫn được vận vào cụ Hồ còn lâu về sau nữa, ở miền Nam Việt Nam và hiện nay ở một số người Việt lưu vong, dù là với hậu ý không ưa gì cụ Hồ... Nhưng đó lại không phải là chủ đề của bài viết này.
Trở lại với cái tên Hồ Chí Minh, lời truyền miệng dân gian bảo rằng: Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải cụ Nguyễn Sinh Nhậm.
Và dân làng Sen cũng bảo: Thì cứ xem, lần đầu tiên về thăm quê hương, sau cách mạng, sau mấy chục năm xa quê (15-6-1957), từ thị xã Vinh - tỉnh lỵ Nghệ An, cụ Hồ đã về làng Chùa trước, rồi sau mới sang làng Sen "quê nội" (18)!
Riêng tôi nghĩ, thì cũng phải thôi. Vì như ở trên ta đã thấy, cả một thời thơ ấu của cụ Hồ là gắn bó với quê ngoại làng Chùa, nơi cụ sinh ra và bước đầu lớn lên. Chứ đâu phải làng Sen, là nơi cụ chỉ ở có vài năm, lại là khi đã bắt đầu khôn lớn?

 

NỖI ÁM ẢNH CỦA QUÁ KHỨ

Nước Việt Nam ta hiện là một quốc gia kém phát triển về mọi mặt, vừa lạc hậu, vừa lạc điệu với một thế giới nhìn chung đã và đang phát triển rất nhanh, đặc biệt từ nửa sau thế kỷ 20.
Tạm bỏ qua một bên mọi sự “giải thích”, nào đổ tội cho phong kiến đế quốc, thực dân, bành trướng, thiên tai, địch họa, chiến tranh, cách mạng; nào viện dẫn sai lầm chủ quan của những người cầm nắm vận mệnh quốc gia mấy chục năm qua, v.v… tình trạng ấy là không bình thường, gây nên một bức xúc tâm lý, một nỗi đau thân thể, một nhức nhối thân xác và tâm linh, buộc KẺ SĨ và NGƯỜI DÂN, vừa gian khổ kiếm sống, vừa suy nghĩ đêm ngày, tìm cách khắc phục và vượt qua tình trạng tủi nhục này…
Có ĐỘC LẬP rồi chăng, nhưng hoạ LỆ THUỘC vẫn luôn luôn mai phục, cả về mô hình chính trị và sự phát triển kinh tế…
Có THỐNG NHẤT rồi chăng, nhưng mầm CHIA RẼ mọc rễ sâu xa…
Điều chắc chắn, là NHÂN DÂN chưa có HẠNH PHÚC, TỰ DO thực sự.
Với biết bao hệ lụy của một cuộc chiến kéo dài, buộc ràng tới 3 thế hệ người Việt Nam (và rất nhiều quốc gia liên đới), lạ một điều (mà sao lại là lạ nhỉ ?), là từ “người thua” đến “kẻ thắng”, giờ đây, ai ai cũng mang một mặc cảm hoành đoạt (complexe de frustration), nói nôm na là MẤT MÁT.
Trước hết là NGƯỜI DÂN THƯỜNG.
Người ra đi hàng triệu, bỏ xác ngoài biển khơi hàng ngàn, vạn, biết bao em gái ta, chị ta, cả mẹ ta nữa… bị kẻ hải tặc khốn kiếp dày vò làm nhục!
Chưa nói đến của cải, ai còn sống thì đều cảm thấy mất quê hương!
Người ở lại, hàng chục triệu nông dân bỗng dưng cảm thấy mất đất, không có quyền tự do hành xử trên “mảnh đất ông bà”, trong khuôn viên do chính tay mình tạo dựng; hàng triệu công nhân mất việc, thất nghiệp hay bị kém sử dụng (sous-emploi), sống ngất ngư, lay lắt qua ngày…
Trí thức, thì tản mác, bị lãng phí thảm hại, trừ một số rất ít kẻ xu thời (đời nào chẳng có?), người nào cũng cảm thấy mất tự do tư tưởng và sáng tạo.
Một tình trạng như thế, chỉ có lợi cho lũ gian manh. Một cuộc “đổi đời” kỳ cục như thế, mà nếu cứ nhất định muốn gọi nó, muốn gọi đó, là “cách mạng”, thì là một cuộc cách mạng đã mất phương hướng. Phương hướng là cái tiêu ngữ trên mỗi đầu trang giấy...
Cho nên phải nghĩ lại, phải bình tâm mà nghĩ lại, nói theo thời thượng từ giữa thập kỷ 80, là phải ĐỔI MỚI TƯ DUY.
Tư duy là công việc của mỗi CON NGƯỜI, vì về bản chất, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức và vì có tư duy, có ý thức mà được / phải có quyền tự do lựa chọn mô hình hành động, cho chính mình (tự do cá nhân), cho chính cộng đồng mình (nhà mình, làng mình, nước mình…) và phải / được chịu trách nhiệm về chính sự lựa chọn đó.
Tôi rất thân và rất quí Nguyễn Huy Thiệp, hẳn thế, nhưng chính vì thế mà tôi không thể nào đồng ý với anh khi anh trả lời phỏng vấn báo Libération là “Tôi đã sống như một con thú“. Con thú làm sao mà biết viết, biết in “Tướng về hưu”, “Phẩm tiết”…?
Lẽ tất nhiên là tôi hiểu cái “ý tại ngôn ngoại” của anh: Cái mặt bằng kinh tế xã hội của một Việt Nam hiện nay trên đó “anh phải sống”, sự ràng buộc của “cơ chế”? v.v…
Tôi nhớ lại, ngày 12/01/1983, trong buổi họp kỷ niệm 40 năm ra đời “Đề cương Văn hoá Việt Nam”, ông tác giả chính của cái “Đề cương” đó đã nói với các “nhà khoa học xã hội” Việt Nam: “Nếu không có một điều kiện tối thiểu về vật chất để sinh sống thì con người có thể trở thành con thú! ”.
Điều đó chẳng có gì mới lạ, vì bằng kinh nghiệm nghiệm sinh, nhiều nhà trí thức chúng tôi đã nghĩ và nói thế từ lâu. Điều mới và lạ, là cho đến tận lúc ấy, một vị lãnh đạo cao cấp của đảng Cộng sản Việt Nam mới nói ra như thế!
Mà con người, nhất là người trí thức Việt Nam, đâu chỉ đói rét vì miếng cơm manh áo? Đói tự do tư tưởng cũng có thể trở thành con thú!
Vì con thú, như con trâu, con bò, dù có no cỏ thì cũng chỉ biết theo đuôi! Theo đuôi con đầu đàn!
Bao năm qua, có biết bao con người Việt Nam chỉ biết theo đuổi kẻ cầm quyền, hoặc khốn khổ thay, là chỉ được theo đuôi người lãnh đạo và lại được “khen” là “có ý thức tổ chức, kỷ luật” và vì vậy được vào Đảng, được “đề bạt” làm kẻ “cầm quyền” bậc sơ trung cấp, để, nói cho cùng, cũng chỉ thành kẻ “chấp hành”, “thừa hành”, nhưng có được chút “quyền”: Dối trên và nịnh trên, lừa dưới và nạt dưới!
Tôi nhớ lại, khoảng mười năm trước đây, một người học trò và là bạn trẻ của tôi, trước khi đi Nga làm luận án Phó tiến sĩ sử học, trong buổi “tiệc bia” tiễn biệt thầy trò, bè bạn, đã ngỏ với tôi lời “khuyên” tâm sự: – Nếu như thầy mà cũng “đầu hàng cơ chế” nữa là bọn em mất nhờ đấy!
Anh ấy ở Nga 4 năm, về nước với bằng xanh phó tiến sĩ, thẻ đỏ đảng viên và, gia nhập “cơ chế”, trở thành “người lãnh đạo” của tôi hôm nay! Tôi chẳng buồn mà cũng chẳng vui. Tôi chọn lựa cho mình một hướng đi: Gia nhập “Câu lạc bộ những người thích đùa”. Tôi thường nói đùa như người Hà Nội vẫn thường đùa, anh ấy: Cậu là đảng viên nhưng mà tốt!,
Câu nói đùa, mà “nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào” và hơn nữa, với câu nói ấy, có thể bị “quy chụp” là “phản động”.
Tôi có một anh bạn, phải nói là rất thân, học với nhau từ thuở “hàn vi”, lại cũng làm việc dưới một mái trường Đại học trên ba chục năm trường, cùng “leo thang” rất chậm, từ “tập sự trợ lý” đến full professor, chair-department. Anh là con “quan lớn”, em của “nguỵ lớn” nhưng “có đức có tài”, được chọn làm “hàng mẫu không bán – kiểu như ông Bùi Tín vừa làm ồn ào giới truyền thông một dạo, nhưng khác ông ta là cho đến nay anh không gửi “kiến nghị” kiến nghiếc gì, nói năng với TRÊN, với DUỚI bao giờ cũng “chừng mực”, chẳng “theo đuôi” mà cũng chẳng là “dissident” của chế độ.
Anh thường bảo tôi: Thì về cơ bản cũng nghĩ như cậu thôi. Nhưng cậu thông cảm, mỗi người một tính một nết, một hoàn cảnh. Cậu “thành phần tốt”, ăn nói táo tợn thì quá lắm người ta chỉ bảo cậu là “bất mãn cá nhân” thôi. Tớ “thành phần xấu”, ăn nói bằng 1/10 cậu thôi cũng đủ bị “quy” là “phản ứng giai cấp” rồi!
O.K.! Anh cứ sống kiểu anh, tôi cứ sống kiểu tôi. Chỉ có mỗi một điều thôi, là vì vậy và vì nhiều lý do sâu xa khác nữa, nên nước ta chỉ có những nhà trí thức (intellectuals) chứ không có giới trí thức (intelligentsia).
Vậy thua thiệt thì Dân ráng chịu!
Bi kịch, nỗi bất hạnh của trí thức Việt Nam, của nước Việt Nam là ở đó…
***
Báo Đoàn Kết của một cộng đồng người Việt Nam bên Pháp đưa tin: Vào cuối năm ngoái (1990), có một ông uỷ viên kiêm bí thư thường trực Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam, nhân sang Paris dự Đại hội đảng Cộng sản Pháp, có tập hợp Việt kiều lại để nói chuyện. Trong khoảng 2 tiếng, ông chỉ “nói” mà không “nghe”, lại còn bảo: “Sống ở nước ngoài, biết gì chuyện trong nước, tuổi 40-50 trở xuống (nghĩa là vào hạng tuổi con cháu ông) biết gì mà góp ý kiến!“
Xem chừng bà con Việt kiều, nhất là anh chị em “trí thức”, bực mình với ông lắm.
Tôi là “trí thức” ở trong nước, ở Hà Nội nữa, nghe những lời lẽ ấy “quen tai” rồi. Cũng ông ấy, lúc còn làm “Bí thư thành uỷ” Hà Nội, khi thấy báo “Quân Đội Nhân Dân” 1987 công bố “Bức thư ngỏ gửi ông chủ tịch thành phố Hà Nội” của tôi, nói về việc “Phá hoại các di tích lịch sử của Thủ đô” đã cho triệu tôi lên trụ sở Thành uỷ và “thân mật” bảo ban 2 điều:
- Nếu anh là công nhân, anh nói (nôm na, tục tằn) kiểu đó tôi còn hiểu được, đằng này anh là giáo sư, là trí thức, sao lại nói (nôm na, “toạc móng heo, treo móng giò”) kiểu đó ?
- Nếu anh nói thế, “tôi” thì “tôi” nghe được, nhưng những “người khác”, họ không nghe được! Từ nay anh nên “thay đổi” cái “giọng nói” của anh đi!
Tôi cũng “trả lại ông” 2 điều:
- Đảng bảo: “Trí thức là của Công Nông và cũng là Công Nông”, vậy nếu công nhân – theo ông – nói được như vậy thì trí thức cũng nói được như vậy. Có gì (theo ông) là khác nhau giữa giọng “trí thức” và giọng “công nhân” ?
- Ông không khác gì người khác. Nếu theo ông, ông “nghe được” vậy thì người khác cũng phải nghe được. Vậy tôi chả việc gì phải “đổi giọng” cả!
Thực ra, tôi biết thừa cái “giọng tôi” chính ông nghe không được nên ông mới “góp ý” cho tôi, nhưng ông lại cố tình đổ cho là người khác nghe không được. Hơn nữa ông lại cố tách “tôi” ra khỏi công nhân, “đề cao” tôi là “trí thức”, để chỉ cốt răn dạy tôi: Với vị thế của anh, anh không được ăn nói với chúng tôi (những nhà lãnh đạo) bằng cái giọng như vậy!
Bà xã tôi lúc ấy còn sống và là giáo viên trường Trung học Trưng Vương nổi danh ở Hà Nội – nghe tin tôi được / bị phải gọi lên thành uỷ, lấy làm lo lắng lắm, bảo tôi (“giọng” bà ấy bao giờ cũng vậy, con gái nhà “tư sản Hà Nội” mà): – Anh lên đấy, liệu mà ăn mà nói! Anh có sao, chỉ khổ vợ con!... Một con én chẳng làm nổi mùa xuân, “ăn cái giải gì” mà cứ nói, chỉ khổ vào thân; có cái giấy Úc mời sang kỷ niệm 200 năm nước “nó” đấy, khéo các “bố” ấy lại không cho đi, vợ con lại mất nhờ.
Ôi, làm “thằng người Việt Nam”, làm “trí thức Việt Nam” biết bao là “hệ luỵ”.
Tôi đưa chuyện HỌC TRÒ, BÈ BẠN, VỢ CON dàn trải trên mặt giấy đâu phải để “nói xấu” họ, nhất là nói về vợ tôi (nay đã mất, cầu cho linh hồn bà ấy tiêu diêu miền cực lạc) mà trong tâm khảm tôi, bao giờ tôi cũng cảm thấy mình xấu tính hơn bè bạn – vợ con – học trò. Tôi chỉ muốn nói về thân phận trí thức ở cái nước Việt Nam mang cái nhãn hiệu Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa mà thực ra là còn đang rất kém phát triển này: Ông uỷ viên ấy, kiêm bí thư Trung ương này, kiêm bí thư thành phố này… ai chả nghĩ là ông ấy cộng sản hơn ai hết nhưng thực ra thì ứng xử của ông ấy từ Hà Nội đến Paris lại “gia trưởng”, “nho giáo cuối mùa” hơn ai hết!
Khổ vậy đó, Cho nên giáo sư Alexander Woodside, từ góc trời tây bắc của xứ tuyết Canada mới hạ một câu về cách mạng Việt Nam: “The spiritual and cultural milieu from which the vietnamese revolution sprang was both confucian and comunist” (Cái môi trường tâm linh và văn hoá mà từ đấy cách mạng Việt Nam phóng tới là cả Khổng Nho và Cộng sản).
***
Ông giáo sư Từ Chi một trong những bạn bè thân thiết của tôi từ một “cậu Tú” ở Huế đi Nam tiến ngay sau ngày 23/9/1945 và trở thành cộng sản, rồi năm 1954 trở về học đại học để trở thành một nhà dân tộc học.
Ông đi làm chuyên gia ở Tây Phi, thương một người con gái Hà Nội nhà nghèo vì chiến tranh mà lưu lạc mãi sang tận bờ sông Niger. Ông quyết đưa người phụ nữ bất hạnh đó trở về Tổ quốc chỉ bằng cách kết hôn với nhau, dù ông biết trước rằng hành động dấn thân ấy ông sẽ phải về nước trước thời hạn.
Và cho đến 25 năm sau, ông không bao giờ được ra nước ngoài, dù ông, không có bất cứ một hành vi gì phạm pháp. Cái án được phán quyết không theo “Luật hôn nhân và gia đình” của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành năm 1960, mà là theo đạo lý hủ Nho.
Về nước năm 1965, qua ngã Moscow, ông dừng chân ở đó 5 ngày, về Hà Nội gặp tôi ở quán cà phê Sính, ông rỉ tai tôi: “Chế độ Xô Viết không thể nào viable” (nguyên văn có nghĩa: không thể “thọ” được).
Đấy là lời tiên tri đúng trước 1/4 thế kỷ!
Vì sao NƯỚC và ĐẢNG có những người trí thức giỏi đến thế mà bây giờ cả NƯỚC, cả ĐẢNG đều lâm vào tình huống “khủng hoảng toàn diện”?
Từ năm 1965, cứ mỗi lần nghe thấy lời khuyến dụ tôi vào Đảng, ông lại bảo tôi: – Tùy ông đấy, nhưng… nếu ông có vào thì đừng để người ta đuổi ông ra! Ông biết kỷ luật của Đảng ông là “kỷ luật sắt” mà tôi thì ông cũng biết quá rõ tôi là người “tự do”, tính ưa phóng khoáng, là người “bất cơ” (không chịu ràng buộc) theo chữ dùng để đánh giá mình của nhà sử gia họ Tư Mã bên Tàu!
Tôi hỏi ý kiến ông về tính chất Cách mạng Việt Nam. Ông trả lời: Cụ Hồ bảo nước mình là một nước nông nghiệp, dân tộc mình là một dân tộc nông dân. Cứ đấy mà suy, thì cuộc “Cách mạng” bây giờ hẳn vẫn là một cuộc khởi nghĩa nông dân.
Khác chăng là trước, khởi nghĩa nông dân do một số nhà nho xuất thân nông dân như Quận He, như Cao Bá Quát cầm đầu, bây giờ là do những người cộng sản cũng xuất thân ở nông thôn và có căn tính nhà nho, như cụ Hồ, như ông Trường Chinh… lãnh đạo. Ông đọc bài ông Nguyễn Khắc Viện rồi chứ, “Confucianisme et Marxisme” (La Pensée, No 105, Octobre 1962). Ông Viện là cộng sản và là con cụ nghè Nguyễn Khắc Niệm đấy!
Đầu thế kỷ 20, trong xã hội yêu nước vẫn âm ỉ một chủ nghĩa yêu nước xóm làng (village patriotism, chữ của Alexander Woodside). Yêu nước chống Pháp kiểu Nho của cụ Phan Bội Châu thất bại ở 2 thập kỷ đầu của thế kỷ 20. Và dòng trí thức Nho gia tàn lụi.
Một số con cháu nhà Nho, một số con cháu nông dân, một số con cháu nhà công thương mới trở thành lớp trí thức Tây học. Một số ấy chấp nhận le fait colonial và trở thành công chức cho Tây, như ông cụ ông là kỹ sư canh nông, như ông cụ tôi là bác sĩ…
Một số khác, yêu nước hơn, mong áp dụng ở Việt Nam những lý tưởng Mác - Lê thế kỷ 19. Cái chủ nghĩa quốc gia của kiểu tư sản mà ông Nguyễn Thái Học, ông Xứ Nhu, kể cả cậu ruột ông đã khởi xướng ở Việt Nam Quốc dân đảng thì đã bị thực dân vùi dập khủng bố tan hoang từ thập kỷ 30. Còn lại cái chủ nghĩa quốc tế của Mác-Lê mà Nguyễn Ái Quốc và những nhà cộng sản mang về áp dụng vào một xã hội nông dân châu Á nghèo khổ, khác hẳn cơ địa xã hội tư sản Tây Âu, nơi hình thành chủ nghĩa Marxisme. Người cộng sản Việt Nam có căn tính nông dân – Nho giáo đã gần Dân hơn người tiểu tư sản Tây học ở thành thị. Họ đã vận động và tổ chức được phong trào nông dân và toàn dân đánh Pháp, đuổi Nhật, làm cách mạng tháng Tám thành công. Kháng chiến là sự nối dài của Cách mạng tháng Tám.
Kháng chiến đã thắng lợi. Chủ nghĩa thực dân phương Tây đã bị hóa giải.
***
Dưới thời Quân chủ – Nông dân – Nho giáo, ở Viễn Đông, có một ước mơ ĐẠI ĐỒNG. “Thế giới ĐẠI ĐỒNG, thiên hạ VI CÔNG”.
Ở đầu thập kỷ 20, trong một bài viết, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cái chủ nghĩa ĐẠI ĐỒNG của Khổng Nho ấy rất gần với chủ nghĩa Cộng sản.
Alexander Woodside nhận xét: Ông Mao phê phán rất dữ dằn Khổng Nho còn ông Hồ rất nhẹ nhàng với Nho Khổng.
Xây “đời sống mới” năm 1946, ông Hồ nêu khẩu hiệu của Nho Khổng: CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH CHÍ CÔNG VÔ TƯ. Dạy đạo đức cho cán bộ, ông Hồ lấy câu Nho Tống: “Tiên ưu hậu lạc”. Về giáo dục xã hội, ông cũng dùng câu có sẵn của Khổng Mạnh, đại loại như “Bất hoạn bần nhi hoạn bất quân…” (Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng…) hay là “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, v.v… và v.v…
Đến di chúc, ông cũng đưa vào một câu trích dẫn của Đỗ Phủ đời Đường: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Thơ chữ Hán của ông, có nhiều câu, ý phỏng theo Đường thi…
Nhưng cái mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Stalin hay kiểu Mao (Staline Mao hoá) dù đã ít nhiều Hồ hoá, Việt Nam hoá cũng tỏ ra không thành công trước thực tiễn “bướng bỉnh” của một nước Việt Nam nhỏ bé – tiểu nông.
Người Cộng sản Việt Nam đã lầm khi tưởng rằng dù với cơ cấu kỹ thuật cũ, ít thay đổi, cứ làm đại việc công hữu hoá (quốc hữu hoá, tập thể hoá, hợp tác hoá…) thì vẫn xoá bỏ được áp bức bóc lột, cải tạo xã hổi chủ nghĩa thành công. Hoá ra là một công thức đơn giản hơn:
CÔNG HỮU HOÁ + CHUYÊN CHÍNH (VÔ SẢN) = (QUÁ ĐỘ sang) CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Tôi và ông Từ Chi bàn mãi về chuyện này. Sau thời công xã nguyên thuỷ, chế độ áp bức bóc lột đầu tiên nảy sinh ở đất Việt với chế độ “thủ lĩnh địa phương”, lang đạo, phìa tạo (tiếng Anh tạm dịch là local chieftains) khi ruộng đất còn gần như y nguyên là “của công”, nhưng “dân đen” là tiểu nông tản mạn, còn thủ lĩnh giữ quyền “thế tập” theo dòng máu.
Dân gian nói giản dị:
"Trống làng ai đánh thì thùng
Của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng"!

Thì giờ đây, ruộng hợp tác, của kho hợp tác, bọn bí thư, chủ nhiệm, kiểm soát đều ở trong một cơ sở Đảng chuyên chính, chúng sẽ “vẫy vùng” thành riêng thôi!
Ba năm liền từ 1976 đến 1979, tôi đi Định Công (Thanh Hoá), ngày - khảo cổ ,đêm - khảo kim. Và 3 ngày liền cuối năm 79, tôi thuyết trình trước Tỉnh ủy Thanh Hóa về sự phá sản của mô hình làng Định Công (người ta tuyên bố “Định Công hóa” toàn tỉnh Thanh Hóa, với bài báo tràng giang “Bài học Định Công” của Bí thư Trung ương Tố Hữu). Thính giả cứ bỏ dần trước sự “vắng mặt” của Bí thư, Phó bí thư Tỉnh uỷ (người ta phải “nhìn Trên” để định thế ứng xử). Còn một ông thường vụ phụ trách tuyên huấn kiên trì nghe 3 ngày, để sau này khi Định Công phá sản hoàn toàn, đã khoa trương tuyên bố, chứng tỏ ta đây sáng suốt hơn các nhà lãnh đạo khác:
- “Lúc bấy giờ (79), ai dám nghe Trần Quốc Vượng nói, ngoài tôi?” (ông ấy bây giờ là Bí thư Đảng uỷ Bộ Văn hoá – Thông tin).
Năm 1982 tôi đi Liên Xô thuyết trình khoa học. Bài viết của tôi bằng tiếng Việt, Dương Tường dịch sang tiếng Anh, Từ Chi dịch sang tiếng Pháp, bà Nona Nguyễn Tài Cẩn dịch sang tiếng Nga. Bà Nona bảo: Bài của anh hay lắm, nhưng thuyết trình ở Paris thì hợp hơn, nói với trí thức nước tôi (Liên Xô), họ không hoan nghênh đâu! Mà quả nhiên!
Về nước, tôi briefing cho bạn bè nghe về Liên Xô và nói lén qua hơi men: “Dứt khoát hỏng!” Và đấy là lần duy nhất tôi “được” đi Liên Xô. Đầu năm 1983, giáo sư Phạm Huy Thông cho đăng bài của tôi lên trang đầu Tập san Khảo cổ học. Đảng uỷ Uỷ ban Khoa học Xã hội viết bản báo cáo dài lên ban Tuyên huấn Trung ương quy kết tôi 4 tội:
- Chống chủ nghĩa Mác - Lê: vì tôi bảo: Công hữu hoá có thể đẻ ra bóc lột.
- Chống công nghiệp hoá: vì tôi bảo: Nông nghiệp phải / còn là mặt trận sản xuất hàng đầu.
- Chống đấu tranh giai cấp: vì tôi bảo: Nông dân khởi nghĩa (ngay cả ăn cướp) cũng không đánh vào người làng, mà chủ yếu đi cướp nơi khác và đánh vào Quan.
- Chống chuyên chính vô sản: vì tôi bảo: Chuyên quyền đẻ ra tham nhũng.
Vụ án “văn tự” này kéo dài 3 năm, không có kết luận. Ba năm tôi được “ngồi nhà”, khỏi đi Tây và nói tiếng Tây! Cuối năm 86, khi Đại hội VI đảng Cộng sản Việt Nam kết luận lại trong nghị quyết là Nông nghiệp là “mặt trận hàng đầu”, giáo sư Phạm mỉa mai ở trụ sở Uỷ ban Khoa học Xã hội: Thế bây giờ Đảng uỷ đúng hay Trần Quốc Vượng đúng ?
Nhưng “nỗi ám ảnh của quá khứ” vẫn không tha người làm Sử như tôi (mà nói theo nhà Phật thì kiếp này còn là “quả” của kiếp trước kia mà). Năm 1985, nhân năm “quốc tế người già”, ông Nguyễn Hữu Thọ nhờ người nói tôi viết bài “Truyền thống người già Việt Nam”. Báo Đại Đoàn Kết của ông không “đoàn kết” nổi bài của tôi, tôi nhờ báo Tổ Quốc của ông Nguyễn Xiển đăng dùm. Rồi năm 1986 có hội Khoẻ Phù Đổng của đoàn Thanh Niên, ông Bí thư Thanh Niên nhờ tôi viết bài “Phù Đổng khoẻ”. Mùa hè nóng bỏng 86, trước Đại hội VI 5 tháng, ông Bí thư Trung ương Đảng phụ trách tư tưởng H.T. đem hai bài của tôi ra “chửi bới” giữa Hội nghị mở rộng Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam, đề bạt Nguyễn Khắc Viện, Trần Quốc Vượng, Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng là 4 trí thức chống đối.
Ông Giàu, thầy học cũ của tôi, đâm thư kiện. Ông H.T. biên thư trả lời (tôi còn giữ làm “chứng từ thanh toán”) bảo: Tôi không động đến anh, tôi chỉ động đến Trần Quốc Vượng, vì anh ta viết “Các vua Trần nhường ngôi” ám chỉ đòi chúng tôi rút lui, và viết “Thánh Gióng bay lên trời” ám thị chúng tôi đánh giặc xong còn cứ ngồi lại giành quyền vị…!
Khốn khổ, vì sao các ông ấy cứ “mỗi lời là một vận vào khó nghe” như vậy? Hay là tại dân gian “nói cạnh” các cụ: Có tật giật mình?
***
Xã hội Việt Nam truyền thống cũ có nhiều nét hay, vẻ đẹp nên ở cạnh nước lớn, bị xâm lăng, đô hộ, đè nén hàng ngàn năm vẫn trỗi dậy phục hưng dân tộc, “trở thành chính mình”. Nhưng xã hội quân chủ – nông dân – nho giáo từ sau thế kỷ XV có nhiều “khuyết tật trong cấu trúc” – nói theo các nhà khoa học hôm nay:
Ở trong NHÀ thì có thỏi GIA TRƯỞNG, tuy tâm niệm “con hơn cha là nhà có phúc” mà vẫn không thích “ngựa non háu đá”, “trứng khôn hơn vịt”.
Ở trong LÀNG thì có nạn CƯỜNG HÀO, với tinh thần ngôi thứ, chiếu trên, chiếu dưới, “miếng giữa làng hơn sàng xó bếp”.
Ở trong VÙNG thì có nạn SỨ QUÂN, thủ lĩnh vùng thích “nghênh ngang một cõi”, gặp dịp là sẵn sàng “rạch đôi sơn hà”.
Ở cả NƯỚC thì có nạn QUAN LIÊU, quan tham nhũng, tân quan tân chính sách, luật không bằng lệ, kiện thì cứ kiện nhưng “chờ được vạ má đã sưng”, nên chỉ cứng đầu thì dại, “không ngoan” nhất là “luồn cúi”. Và trí thức “lớn” thì cũng tự an ủi “gặp thời thế thế thời phải thế”.
Vì ngoài thì “bế môn toả cảng”, trong thì “chuyên quyền độc đoán”, cho nên sĩ khí ắt phải bạc nhược.
Thế giới giờ đây thay đổi đã nhiều. Song, trong nước mình thì chưa đổi được bao nhiêu. “Nỗi ám ảnh của Quá khứ” vẫn còn đè nặng.
Chỉ còn một cách để “đổi đời” cho DÂN, cho NƯỚC: Đó là xây dựng một chế độ dân chủ, một nhà nước pháp quyền, một nền kinh tế công – nông – nghiệp với thị trường tự do, một tư tưởng cởi mở, rộng dung, khoáng đạt, tự do, một nền văn hoá đa dạng, giữ cho được bản sắc tốt đẹp của dân tộc nhưng biết hoà nhập với thế giới, với nhân gian…
Tóm một chữ thì không phải là chữ “ĐẤU” mà là chữ “HÒA”: HÒA BÌNH, HÒA HỢP, HÒA THUẬN, HÒA GIẢI…
Chẳng những NHÂN HÒA mà cả NHIÊN HÒA (hoà hợp với thiên nhiên, tự nhiên)
“Hoà nhi bất đồng”… mong lắm thay!

Bài tổng hợp từ Facebook của Nguyễn Đình Bin







 
Viện Việt-Học và chương-trình văn-nghệ chủ-đề \"Những Tình Khúc Mùa Thu\".
Viện Việt-Học trân-trọng kính mời Quí-vị tham dự chương-trình văn-nghệ được tổ chức vào Thứ Bảy, 19 tháng Mười năm 2024 lúc 3 giờ chiều.  Chương-trình do Nhóm Bạn Văn Nghệ QGHC và Thân Hưũ thực hiện với chủ-đề "Những Tình Khúc Mùa Thu".
Tòa soạn
Do công ty Saigon News LLC thực hiện
Editor-in-chief: HOÀNG DƯỢC THẢO
Director of Marketing: ANDY TRƯƠNG
Với sự cộng tác của: LÊ TẤT ĐIỀU, HOÀNG NGỌC NGUYÊN, NGUYỄN THỊ CỎ MAY, TRẦN TRỌNG HẢI.

Email: saigonweeklyonline@gmail.com

Thư từ bài vở: 702-389-5729

Quảng cáo: 702-630-0234

702-426-4404

Hotline: 702-426-4404

back top