Nguyễn Đức  Sơn,  nhà thơ ngông đồi Phương Bối 

Nguyễn Đức  Sơn, 

nhà thơ ngông đồi Phương Bối 


Trịnh Thanh Thủy



Từ trái: họa sĩ Hồ Hữu Thủ, họa sĩ Dạ Thảo, nhà thơ Nguyễn Đức Sơn

Tôi được quen biết nhà thơ Nguyễn Đức Sơn tức Sơn Núi hay Sao Trên Rừng qua bạn tôi, họa sĩ Đào Nguyên Dạ Thảo. Tuy nhiên tôi chưa từng gặp ông dù có thư từ qua lại, dù rất mến thơ của ông vì mỗi người mỗi phương. Mới đây Dạ Thảo cho tôi biết hiện bệnh của ông đang trở nặng, tôi cảm thấy lo lắng nhiều đến sức khoẻ của ông. Tôi chỉ sợ không may thì…

Nếu đồi Phương Bối vắng bước chân ông, trăng Phương Bối tìm đâu ra cái bóng đồng hành để cùng say khướt đổ nghiêng bên những gốc tùng xanh ngắt? Cây ổi đồi cao tìm đâu ra tên đạo chích ăn trộm nửa quả ổi rụng đã bị dòi ăn nửa kia?
Trưa đứng một mình đợi ai lên 
Đất trời đâu có dưới và trên 
Đồi cao ổi sót rụng một trái 
Dòi ăn một bên ta một bên. 

(Rụng một trái)


Rừng Phương Bối cũng không thể thiếu đi một ánh Sao, một gã Du Tử có hỗn danh là Sơn Núi, lúc cô đơn thì đi luồn vô núi, khi mệt nhoài, chân rục rã, thì đi luồn ra núi. Thế gian còn ai ngông nghênh hơn một người thơ, khuya nằm nghe đá hát, sáng dậy ngắm hoa nở, để thấy chính mình mênh mang thiên thu một màu xanh.

Ta và đá 
Hồn xanh 
Như lá
 
(Thiên Thu)


Tự do là đôi cánh, ngục đá là cái chuồng nhốt đôi chân con chim Hoàng Oanh bay nhảy về phương trời vô tận. Có sống đời cá chậu, chim lồng, tiếng hót con chim mới u uất làm sao khi nó mở miệng chửi cha sự sống.

Khi không ta lại ngồi tù 
Tiên sư ai biết một ngày thiên thu 
Đêm nằm nắm chặt con cu 
Đâm qua lao xá cho mù trăng thâu 

(Tạm vui)


Càng sống đời lao xá, tiếng thơ bị dồn nén càng cao cung uất hận. Một Cao Bá Quát ở trong tù còn chửi “đù cha kiếp” khi nghĩ đến “ba hồi trống giục” của pháp trường, huống hồ gì một Nguyễn Đức Sơn chỉ đòi đâm mù trăng thâu lúc ngồi tù. Ai trong đấy không mơ giấc mơ thoát cũi sổ lồng?

Đêm mơ 
Trốn về nhà 
Ôm con gà 
Ta khóc 
(Đêm mơ)


Ngôn ngữ ông dùng vừa tân, vừa cổ, vừa lãng mạn, vừa dung tục. Khi trắng, khi đen, phơi bày lồ lộ, lúc mờ, lúc nhạt, thơ thẩn, lượn lờ, kỳ ảo. Có thể nói, có hai cực trong con người ông, khi chánh, khi tà, khi thô ráp, lúc dịu dàng, âu yếm. Là một người viết nữ, tôi đặc biệt chú trọng rất kỹ cái cách mà ông dùng từ ngữ trong thơ ca để miêu tả người nữ của ông. Kỹ thuật gây sốc bằng những từ ngữ được gọi là “tục tằn” được ông sử dụng nhiều trong thơ ông đã tạo nên những tranh cãi không những cho những người đọc thơ ông mà cho cả nhóm chủ trương Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng của chúng tôi vào thập niên 2000. Khi ấy những bạn bè trong nhóm chúng tôi người bênh, kẻ chống những từ ngữ của ông dùng, đã tạo nên những cuộc tranh luận vô cùng hào hứng.
Có lần tôi viết thơ cho ông, nói về những cảm nhận của mình về lối ông làm thơ cho người nữ. Tôi nhận xét rằng ông phải yêu người nữ ấy lắm mới làm nên được những vần thơ như vậy. Ông phủ nhận điều này như một điều thú tội…

 
Thủ bút của nhà thơ Nguyễn Đức Sơn
 
Dẫu sao tôi chỉ đọc và nhận xét thơ ông dưới con mắt chủ quan của riêng mình, còn tình yêu của ông và nàng thơ của ông ra sao chỉ có mình ông biết. Tuy nhiên trong cái cách ông mắng yêu và xem tụi con gái chúng tôi và Dạ Thảo là gà, vịt, giun, dế, tôi thấy vui vui một cách thú vị. Ông cũng gọi con ông, vợ ông là con gái, gái con, con nhóc, con cóc, con nhái. Có lẽ ông cũng hiểu hơn ai hết cái tính ngang bướng, ngông nghênh, hành động theo ý riêng của mình không kể hậu quả, thiệt hơn, nên ông lấy bút hiệu là ngôi sao cô đơn mắc đoạ trên rừng. Bửu Ý đã gọi Nguyễn Đức Sơn là hình ảnh của một con tê giác, đơn độc, quắt queo, từ cách ăn nói cho đến dáng đi, húc đầu về phía trước.
Gái con 
Con gái 
Con cóc 
Con nhái 
Con cái 
Con nhóc 
Chưa bóc 
Em ra 
Hồn ta 
Gần khóc


Hay
Gái con 
Con gái 
Dấu mãi 
Trong hang 
Cái màng 
Thiên địa 
Run lịa 
Hồn anh 
Mong manh 
Ngàn kiếp


Người con gái đương xuân như đóa lan rừng thơm ngát vừa hé nở đêm trăng mười sáu. Gã thi nhân ngủ quên trên bờ cỏ ướt, nằm mơ thấy mình là chú bướm đêm vơ vẩn bay đi tìm mật. Gã chợt thấy mảnh hồn mong manh của mình run bắn, đôi cánh bướm bỗng chập chờn hư ảo như ngã vào mông lung khi đối diện cái màng thiên địa tinh tuyền của nhụy hoa. Ôi đẹp làm sao ngôn ngữ xác thân mà Nguyễn Đức Sơn đã dùng để tả người con gái băng trinh còn dấu cái màng thiên địa trong hang!!!
Gái con 
Con gái 
Cái gái 
Con con 
Trắng nõn 
Trắng nà 
Ngọc ngà 
Trời đất 
Bất nhất 
Vạn niên 
Gậy thiền 
Chưa thọc


Thuật dụng ngữ trong thơ ca càng giản đơn, càng cô đọng, chữ dùng càng phải chắt lọc. Trong bài thơ 12 câu ở trên, hai câu cuối thật sự gây sốc cho tôi khi đọc: “Gậy thiền, chưa thọc.” Tôi nghe người ta nói “cái gậy của thằng ăn mày” hay chọc lung tung, nhưng cái câu “Gậy thiền, chưa thọc” được dùng trong ý nghĩa nội dung bài này, quả làm tôi sửng sốt. Ý nghĩa cây “gậy thiền” được giảng theo nhà Phật là cây gậy của trí tuệ, của chánh niệm. Cây gậy của chặt đứt lục căn, lục trần, lục thức. Cây gậy đánh tan vọng tưởng, giúp tâm ta sáng suốt, và biết dùng trí tuệ để khắc phục vô minh để đem lại sự thanh tịnh, tinh khiết trong tâm của chúng ta. “Gậy thiền” được dùng như cái chân thứ ba của con người hay cái gậy của thằng ăn mày của Nguyễn Đức Sơn trong bài thơ ở đây, ắt hẳn không có cái nghĩa của thiền tông mà chỉ có thể được xem là ngôn từ “phạm thánh.” Nhưng với ông phạm thánh là chuyện thường ngày và không biết trong lòng ông có vị nào là thánh không nữa.

Bên bờ suối 
Anh tặng em 
Hai củ khoai lang 
Một trái chuối 
Ăn rồi 
Còn thấy tử sinh 
Đắm đuối
 
(Trưa)

Giấc mơ và đời sống là hai thực thể khác biệt. Bên những vì sao sáng vẫn có những làn sương che mờ ánh sao. Tuy nhiên em ơi dù sống khó, con chim trong thơ ca gã du sỹ vẫn hót véo von buổi trưa nào bên bờ suối. Hắn không quên trao em món quà đơn sơ một trái chuối và hai củ khoai, mà vẫn thấy hạnh phúc của tử sinh sao mà ngọt.
Tôi có vài người bạn đến chơi thăm ông ngày ông còn khoẻ, có kể tôi nghe về hoàn cảnh sống của ông trong rừng Phương Bối rất cơ cực, nên món quà chuối và khoai lang quả là hình ảnh tả chân của ông trong thơ ca.

Sao lạnh quá 
Không thấy bóng Hạnh 
Đi qua 
Đứng từ xa 
Tôi đã thấy 
Núi khóc 

(Chiều ơi)

Cũng có lúc núi cũng phải lạnh, phải khóc hu hu khi không thấy bóng người. Gió đã quên lời hẹn hò, cây đã ngưng tiếng rì rào, trái tim và đôi mắt cùng nhau buông thả…

Cùng với thơ 
Chẳng lẽ 
Chỉ còn có 
Một cách 
Là đứng một chân 
Trên núi 

(Sống)

Ôi sống với thơ là một khốn khó vô biên. Làm thơ và để sống còn cùng thơ mà không chết vì đói, có lẽ là một nan giải đời người. Nhà thơ yêu núi, yêu đá Nguyễn Đức Sơn đã tự hỏi bao nhiêu lần trong tuyệt vọng, làm sao có thể sống với thơ và làm thơ mà không phải ăn, phải uống, phải lăn lộn mưu sinh cho vợ con và gia đình. Và ông đã tìm ra giải pháp “đứng một chân trên núi”!!!

 
Từ trái: họa sĩ Đinh Cường, chị Phượng (vợ nhà thơ Nguyễn Đức Sơn), nhà văn Bửu Ý

 
Viện Việt-Học và chương-trình văn-nghệ chủ-đề \"Những Tình Khúc Mùa Thu\".
Viện Việt-Học trân-trọng kính mời Quí-vị tham dự chương-trình văn-nghệ được tổ chức vào Thứ Bảy, 19 tháng Mười năm 2024 lúc 3 giờ chiều.  Chương-trình do Nhóm Bạn Văn Nghệ QGHC và Thân Hưũ thực hiện với chủ-đề "Những Tình Khúc Mùa Thu".
Tòa soạn
Do công ty Saigon News LLC thực hiện
Editor-in-chief: HOÀNG DƯỢC THẢO
Director of Marketing: ANDY TRƯƠNG
Với sự cộng tác của: LÊ TẤT ĐIỀU, HOÀNG NGỌC NGUYÊN, NGUYỄN THỊ CỎ MAY, TRẦN TRỌNG HẢI.

Email: saigonweeklyonline@gmail.com

Thư từ bài vở: 702-389-5729

Quảng cáo: 702-630-0234

702-426-4404

Hotline: 702-426-4404

back top