Hú hồn! Hú vía!
Nguyễn Dư
.png)
Ảnh hí họa của Có Lã Nguyễn Văn Trấn
Còn nhớ lần nghe ông bạn kể chuyện đi chơi... Nào ăn uống, nào thăm viếng...







Thế là cái loa phóng thanh lập tức bị tắt tiếng. Mụ ta thu xếp quang gánh, chuồn cho mau.


*
Nhân chuyện ông bạn sợ hú hồn, bị đốt vía, mời các bạn cùng ngồi bàn chơi về hồn và vía của tín ngưỡng dân gian.

Theo quan niệm của Đạo giáo thì phách hay vía là phần tinh thần của người phải phụ vào xác mới tồn tại, khi người chết thì tan đi, còn hồn là phần tinh thần không có xác vẫn tồn tại được. Theo quan niệm thông thường thì có người vía xấu, có người vía tốt.


Vía là yếu tố vô hình phụ vào thể xác mà tồn tại, được coi là tạo nên phần tinh thần của mỗi người, khi người chết thì cũng mất đi (khác với hồn, độc lập với thể xác), theo quan niệm duy tâm của người xưa.
Nói tóm lại, mọi người bình đẳng trước Hồn, vía. Từ anh Hồng mao đến chú Bạch quỷ, từ bác dân đen đến ông con trời, ai cũng có thể xác và hồn, vía. Lúc chết thì thể xác bị tiêu diệt, vía mất đi, nhưng hồn thì vẫn tồn tại ở đâu đó.















Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Văn Thành, Phan Bội Châu cũng đồng ý là chết rồi phách (hay vía) vẫn còn:

Dòng nước chảy về đâu, biết có về Đông hải vậy chăng?

(Nguyễn Hữu Chỉnh, Văn tế chị)



















Hồn, vía của các bà, các cô dường như có ảnh hưởng nhiều đến đời sống... kinh tế:






















Tục hú hồn, hú vía
- Khi (cha hay mẹ) tắt hơi thì phải lấy một cái khăn hay một tờ giấy để phủ trên mặt, khiêng xác đặt xuống đất rồi lại khiêng lên giường, có ý để cho người chết hấp thụ sinh khí của đất may ra có sống lại được. Đoạn một người cầm cái áo của người chết, tay tả cầm cổ, tay hữu cầm lưng, do đường trước trèo lên mái nhà để gọi tên và hú hồn người chết ba lần, rồi do đường sau nhà mà xuống, đó là lễ phục hồn. (2)





Tranh Oger có tấm Hú hồn nhập quan, vẽ chung hai nghi thức Hú hồn và Nhập quan. Chữ Hú của tên tranh được viết bằng chữ Hán (Hú nghĩa là ấm áp).

Hú hồn nhập quan
Tục đốt vía
Đào Duy Anh cho biết có vía xấu, vía tốt. Dân gian gọi là vía dữ, vía lành.













Hú vía cho con
Tục gọi hồn
Gọi hồn, một biến thể của đạo Lão, khác hú hồn.
Những nhà có người mới chết, thương xót nhớ tưởng muốn tìm cách gặp hồn người thân để hỏi han về cuộc sống ở cõi âm, hay mời cô hồn về nhà gọi hồn.
Cô hồn cũng hơi tương tự như đồng cốt, ở chỗ một âm hồn nhập vào cốt một người trần và mượn miệng người trần này, tức là cô hồn, để nói lên ý muốn của âm hồn.
Gọi hồn phải đặt quẻ bằng một cơi trầu và mấy đồng tiền. Món tiền này chính là tiền thù lao cho cô hồn.
Cô hồn thắp hương đặt lên cơi trầu, đoạn bưng cơi trầu trong có đặt tiền quẻ, nâng ngang trán khấn khứa ông Chiêu bà Dí để hai vị linh thần này xuống âm phủ tìm âm hồn người chết về.
Một lát sau, âm hồn về nhập vào cô hồn kể lể, khóc lóc, tả oán tình li biệt. Lúc ấy mọi người xúm vào hỏi han hồn. Hồn sẽ tuỳ theo câu hỏi mà trả lời (...).
Có nhiều người muốn thử thách cô hồn, thay vì gọi hồn người chết, người ta đã gọi hồn người sống, những người vắng mặt và có khi cả những người có mặt (...). (15)
Khoảng năm 1621, Cristoforo Borri được chứng kiến một cuộc gọi hồn tại Quy Nhơn.
Nguyên do là một hôm quan trấn thủ Quy Nhơn cưỡi voi đi săn, bị cảm nắng. Buổi chiều ông bắt đầu lên cơn sốt. Hôm sau ông bị mê sảng. Bệnh tình kéo dài được một tuần thì ông chết.
Gia đình ông mời ông sãi (onsaij) làm lễ gọi hồn. Ông sãi niệm chú, làm phép, gọi hồn quan trấn thủ về nhập vào người thân. Mọi người mong chờ được hồn nhập nhưng rốt cuộc hồn "chọn" cô em gái vốn được quan trấn thủ yêu mến nhất để nhập.
Khi hồn nhập thì có nhiều dấu hiệu làm mọi người ngạc nhiên như:
"Cô em đã già yếu, đi đứng phải chống gậy, bỗng nhún nhảy nhanh nhẹn như một cô gái trẻ, chiếc gậy cô tung lên trên không cứ lơ lửng trong suốt thời gian cô được hồn nhập. Cô nói năng bằng một giọng hăng say, tức tối, kèm theo nhiều cử chỉ khiếm nhã, cô nói nhiều điều bậy bạ về chỗ ở và "đời sống" của hồn ông anh. Những lời nói lung tung được chấm dứt khi hồn ông anh thoát khỏi xác cô.
Cô ngã bịch xuống đất trong tình trạng dở sống dở chết. Cô bị kiệt sức, không đi lại được trong suốt tám ngày". (16)
Đoạn văn kể cuộc gọi hồn của Borri trước đây đã được Durand trích dẫn và mới đây được Nguyễn Thị Hiệp dịch sang tiếng Việt.
Nguyễn Thị Hiệp dịch onsaij là thầy cúng. Lúc em gái quan trấn thủ được hồn nhập thì "Dưới sự kinh ngạc của những người có mặt, cô này bỗng nhiên nhảy nhót với nhiều tư thế khác nhau giống như một cô gái trẻ, vứt gậy, nhảy lên không trung trong suốt thời gian bị hồn nhập... ". (17)
Ông sãi là từ cổ, sau này được gọi là thầy phù thuỷ, pháp sư.
Truyện Phạm Công Cúc Hoa có đoạn :
Phạm Công nước mắt dòng dòng
Khấn trời thấm thía nguyện cùng cho cha
Một mình làm sãi trừ ma
Vừa thầy địa lí, chủ gia một mình
Phạm Công làm ma cho cha, tự đứng ra đảm nhận công việc của ông sãi, thầy địa lí.
Tục gọi hồn ngày nay vẫn còn. Cô hồn bây giờ được gọi là nhà ngoại cảm. Công việc chính của nhà ngoại cảm là tìm mộ liệt sĩ. Họ "gọi hồn" liệt sĩ, được hồn mách bảo, hướng dẫn đi đến địa điểm ngôi mộ.
Các nhà ngoại cảm Việt Nam đã tìm được cả ngàn ngôi mộ liệt sĩ. (18)

Gọi hồn
Mỗi người chỉ có một hay có nhiều hồn, vía?
- Đẻ con được ba, bốn ngày, sản phụ dùng bảy chiếc lá mít (nếu là con trai) hay chín lá (con gái), lấy nước luộc chín, dùng nước này lau và xoa bóp vú, rồi lấy lược chải vú theo chiều từ trên xuống dưới. Làm như vậy sẽ có nhiều sữa.




Linh mục Léopold Cadière sau khi phân tích tỉ mỉ, giải thích dài dòng các khái niệm về hồn, phách, vóc, vía, vệ, hơi, khí, đã đi đến kết luận rằng Ba hồn bảy phách là dịch câu tam hồn thất phách, người ta có ba hồn, bảy phách (hay bảy vía).
Ba hồn là sinh hồn, giác hồn, và linh hồn (hay thần hồn). Nói như vậy nhưng Cadière lại thừa nhận rằng đây chỉ là giải thích của triết học, còn dân gian thì hoàn toàn không biết gì và rất hiếm người am hiểu giải thích được nguồn gốc của ba hồn.
Còn bảy phách? Cadière dẫn lời Eitel giải thích rằng Ba là số linh hồn có dương tính, bảy là số linh hồn có âm tính. Tam hồn thất phách là Ba hồn có lí trí (raisonnable) và bảy hồn của các sinh vật (animal). Theo linh mục Rey thì Tam hồn thất phách là Ba nguyên lí thượng tầng và bảy nguyên lí hạ tầng của hồn.
Cadière không trả lời được câu hỏi tại sao có người có bảy vía, có người có chín vía. Ông chỉ dựa vào một điều chắc chắn là tín ngưỡng dân gian Việt Nam nói rằng đàn ông có bảy vía, đàn bà có chín vía. Cadière đưa ra nhiều bằng chứng như:
- Tại Quảng Bình, khi gia đình có người chết, người ta nhờ một người ngoài gia đình leo lên mái nhà hô tên và hú hồn người chết. Hú ba hồn bảy vía (nếu là đàn ông), chín vía (nếu là đàn bà) (gọi tên người chết), ở mô về nhập xác.
- Hú hồn người chết đuối thì người nhà đi dọc bờ sông chỗ xảy ra tai nạn, hú như trên.
- Lễ tang, lúc quan tài hạ huyệt, nhà sư đi vòng quanh huyệt bảy lần (đàn ông) hay chín lần (đàn bà).
- Baron cho biết: Người Bắc kì có tục chôn người chết thường kèm theo bảy bộ quần áo đẹp nhất cho đàn ông, chín bộ cho đàn bà.
Linh mục Souvignet cho rằng phách, vía cũng có nghĩa tương tự như khiếu. Khiếu nghĩa là lỗ hổng. Người ta có chín lỗ hổng (cửu khiếu).
Các tự điển của ta, của Pháp chỉ nói cửu khiếu gồm mắt, tai, miệng v.v.. Không rõ ràng. Không biết cửu gồm những gì.
Souvignet lại nói thất khiếu là bảy lỗ hổng trên đầu: 2 mắt, 2 tai, 2 lỗ mũi, 1 miệng. Đàn bà có thêm 2 lỗ phía dưới... để đại tiện và sinh đẻ. Gồm tất cả lại thành 9 lỗ (cửu khiếu). Cadière bác bỏ lối giải thích của Souvignet vì... đàn ông cũng có 2 lỗ phía dưới, sao không kể?
Rốt cuộc, Cadière cũng như Rey và De Groot đều tuyên bố không giải thích thoả đáng được "bảy vía, chín vía" của người An Nam. (19)
Cadière chấp nhận rằng có ba hồn bảy vía hay chín vía vì... dân gian nói như vậy!
Nếu vậy thì tại sao lại không bàn về mấy con số của ngôn ngữ dân gian?

Tục truyền rằng Hưng Đạo vương đại thắng quân Nguyên, bắt sống được tên phản bội tổ quốc Phạm Nhan.

















- Bảy phường chín xóm là đây
Buồm giăng ba cánh sóng rày lao xao

- Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Thất bát khe cũng lội, tam thập lục đèo cũng qua
- Phiêu phiêu tử phủ đan đài
Ba nghìn chín vạn cõi ngoài tràng sinh (Chầu văn)
Dân gian có rất nhiều thành ngữ có số:

Dân gian đang chờ các nhà khoa học đi tìm cho ra con "ba đầu sáu tay", chờ các triết gia giải thích tông tích thằng "năm cha ba mẹ".
Đối với dân gian thì hiểu được ý nghĩa thành ngữ là đủ rồi. Mấy con số chỉ là "thêm mắm thêm muối", không bắt buộc phải đúng.
***
Sau khi nghe các học giả, triết gia phân tích ý nghĩa hồn, vía (phách), loay hoay tìm cách giải thích mấy con số ba (hồn), bảy (vía) hay chín (vía), có thể tạm rút ra kết luận:
Ai cũng có một hồn, một vía. Lúc sống gọi là vía (ngày vía là ngày sinh), khi chết gọi là hồn. "Ba hồn, bảy vía" hay "ba hồn, chín vía" là cách nói ví von của dân gian. Mấy con số không phải là số đếm chính xác của toán học.
Nguyễn Dư
(Lyon, 8 /2020)
(1)- Vũ Phương Đề, Công dư tiệp ký, Văn Học, 2001, tr. 135.
(2)- Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử cương, Bốn Phương, 1961, tr. 194.
(3)- Toan Ánh, Phong tục Việt Nam, Khai Trí, 1969, tr. 502.
(4)- Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Tổng hợp Đồng Tháp, 1990, tr. 29.
(5)- Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu, Đất lề quê thói, Đại Nam, tr. 405.
(6)- Gustave Dumoutier, Le rituel funéraire des Annamites, Schneider, 1902, tr. 14.
(7)- Sơn Nam, Thuần phong mỹ tục Việt Nam, Tổng Hợp Đồng Tháp, 1994, tr. 61.
(8)- Toan Ánh, Phong tục Việt Nam, sđd, tr. 461.
(9)- Nhất Thanh, sđd, tr. 30.
(10)- Mai Viên Đoàn Triển, An Nam phong tục sách, Hà Nội, 2008, tr. 102.
(11)- Gustave Dumoutier, Essai sur les Tonkinois, Schneider, 1908, tr. 29.
(12)- Đào Duy Anh, sđd, tr. 192.
(13)- Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam, quyển thượng, Xuân Thu, tr. 221.
(14)- Pierre Huard, Maurice Durand, Connaissance du Việt Nam, EFEO, 1954,tr. 144.
(15)- Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam, sđd, tr. 221-223.
(16)- Cristoforo Borri, Relation de la nouvelle mission au royaume de la Cochinchine, Bonifacy dịch sang tiếng Pháp, BAVH số tháng 7-12 năm 1931, tr. 356-357.
(17)- Maurice Durand, Điện thần và nghi thức hầu đồng Việt Nam, Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, 2019, tr. 34.
(18)- Lê Mai Dung, Bí ẩn của các nhà ngoại cảm Việt Nam, Văn Hoá Thông Tin, 2007.
(19)- Léopold Cadière, Croyances et pratiques religieuses des Viêtnamiens, tập 3, EFEO, tr. 180-195.
(20)- Vũ Phương Đề, sđd, tr. 279.