40 Năm 70 Truyện Ngắn
NGUYỄN VĂN SÂM
- Âm dương
- Ánh Mắt Mùa Xuân
- Ao Bà omCạn Nước (Đưa chưa)
- Ban choi Nha choi
- Biển Trời Lai Láng
- Bóng Vẫn Phủ Đời
- Bóng Mát Cuộc Tình
- Ca Dao Tập Tàng
- Cái Vuốt Tóc Vô Ngôn
- Cái chết Can thiet
- Câu Hò Vân Tiên
- Cat Tac Chua xong can viet them
- Có Khi biển Lặn (chưa Có Đang Đưa)
- Con chim Han Hoc
- Con Đĩa Hai V òi
- Còn Gì Nữa Đâu
- Cung Tàn Điểu Tận
- Chiếc Ba Lô Để lại
- Chơ Cho Trăng Lăn
- Chuyện Ngắn Đời Dài
- Chu1ng Toi mat het chi conLong tu GTrong
- Dau Hoa vun Cay
- Đọc báo Ngày Chúa Nhật
- Đường Về Quá Khứ
- Giọng Ngâm Ngậm Ng ùi
- giọt Nước Nghiêng Minh
- Giu Gin qua Khu Cua Cai Luong
- Hoa Nhân Sinh
- Hương Cỏ
- Kẻ Thua Cuộc
- Kể Chuy ện Ngày Xưa
- Khói Thuốc Cả
- Màu Thời Gian
- Mua Xuan Lot Qua Ke Ho
- Ngôi Chùa Trong Tâm Tưởng.
- Ke Thua Cuoc
- Khoi thuoc Ca
- Khói song TRên Sông (Tín đương đánh máy)
- Nuôi con Nhân tình
- Ngay Thang bong Benh
- Nguoi bi Mat chiem Nguong
- Nguuooi giu Gin Qua Khu
- Nguoi quet Mo cu Phan
- Nhat chi Hoa
- Nhat Ky cua Phuong
- Nhung Cay Cau Trogn Mo Uoc
- Nhung Ho chan Voi Trong Long Nguoi
- Nhung Tam Giay So
- Nhu Nui DDa co Tung Lop
- Nhu Nuoc TGRong Nguon
- Niem Dau Bac Toc
- Nói với Khoang Khong (chưa có)
- O Mot Noi tinh Nguoi qua Lay
- Ôgn Đạo Chuối (chưa có)
- Ông Già Noel có thật (chưa có, đương đánh máy)
- Paris VanDung vung
- Que Huong Minh
- Roi Khoi Thien Dang
- Son Dong Mai Vo Đang Đưa
- Su Lua chon So2ng Phang
- Tan cuoc choi
- Thanh Than Ve Que
- Thay Luong Va Nhung Buoc Chan Chim
- Theo Got Huyen Tran
- Tieng Dan Hung Sang
- Tieng Khoc Muon Mang
- Tiếng Hát Người Tín Nữ Ni sư (chưa có)
- Tieng Tham que Me.
- Tinh Đất
- Tình Lụy (chưa có, sẽ đánh máy)
- Tong Gio Than On
- To Nghiep
- Tran tu cua Nguoi Toi Tu Hinh
- Troi Sap Mua
- Tuot doc Doi
- Uoc Mo Dang do
- Ve Vung Nang Am
- Vien Ngoc Ba Lê
- Vo De
- Xâu chuổi Da Voi (Việt Báo)
Âm Dương
Chị Nhàn thành khẩn chụm đầu ba cây nhang vô ngọn đèn dầu đương ngùn ngụt tỏa khói đen. Nhang bắt lửa bùng lên thành ngọn, chị chậm rãi khum bàn tay kia làm quạt nhè nhẹ dập tắt ngọn lửa. Hai bàn tay xòe ra kẹp nhang chị đứng trước bàn thờ xá xá rồi cắm vô cái ly đựng cát làm lư hương tạm. Bàn thờ dọn xong xả từ lâu. Bốn chén chè đậu trắng, chén mẻ sứt mà chè thì chỉ nằm chông chênh qua khỏi mức nửa chén, cố ý để thật xa nhau cho có phong cách bữa giỗ. Hai dĩa thịt gà xé phai từ nửa con gà mua chịu từ người bạn hàng quen thuộc mấy chục năm nay. Chị đã cố tình trộn với thiệt nhiều bắp cải, thêm nửa cái bắp chuối hột mới bẻ ngoài sau nhà, dĩa gỏi gà coi cũng bắt mắt, tươm tất và khêu gợi nhờ sự hòa hợp nhuần nhuyễn của nhiều màu sắc.
Cúng, ừ thì cúng, nhưng vẻ nghèo nàn của vật thực trong việc cúng kiến so với bao lần trước đã đoạt mất ở chị cái tâm trạng sung sướng nhè nhẹ của người thực hiện một việc thiêng liêng của phút tương giao với người khuất mặt. Khói nhang tỏa trong không gian hẹp của căn nhà, bay mùi thơm thơm khiến nao nao nhớ đến những lần Tết nào đó đã bay hút tuyệt cùng trong thời gian tươi đẹp của quá khứ, những cái Tết háo hức bồn chồn khoe áo mới, được phép làm mọi chuyện ngày thường bị cấm đoán, những ngày chị -- lúc đó là đứa trẻ -- thấy mình quan trọng hơn, được mọi người quan tâm hơn và không một mảy may trách nhiệm. Bây giờ cũng cái thời gian đó, Tết, biết bao là trách nhiệm và không còn một ai quan tâm tới mình. Đứa con gái hủ hỉ bao lâu nay năm rồi đã chết tức tửi vì phong đòn gánh khi lượm sắt vụn cho kế hoạch nhỏ bị sắt gạch đứt tay, mẹ nó vì nghèo khó bỏ qua luôn sau khi đắp sơ sài cho con bằng mấy cọng thuốc rê với hi vọng rằng cũng không đến nỗi nào. Một mình còn lại thui thủi sớm bửng ra đi, tối mịt mới về ngả lưng thở dốc. Suốt ngày cơm đường nước chợ, ngon dở tùy theo bán buôn thành công thất bại, nắng mưa cực nhọc không biết mở miệng tâm sự cùng ai.
Chị lấy tay mặt đè đè lên bên tay trái ngực. Không đụng được chỗ thịt mềm mềm ngày xưa từng làm hướng cho bao cặp mắt khát khao, giờ chỉ nghe nhói nhói đau lăn tăn phía bên dưới trái tim, tình trạng như muốn nói có triệu chứng trục trặc chi chi đó nhưng chưa bộc lộ rõ ràng. Chị nín thở chờ cơn đau đi qua. Quái, lần nầy hơi dài hơn những lần trước. Một sự thông báo có mặt không được người nhận vui lòng chào đón. Chị chắp tay trước ngực trước 'lư hương', vái ông bà và vong hồn cha về dương thế thăm con cháu luôn tiện hưởng bữa cúng đơn sơ, đạm bạc. Chị hơi khựng lại một giây. Ông bà thì không cần hài tên đã đành, cha mẹ nhớ tên nhưng lại quên lửng tên ông già chồng. Chị vừa vái van vừa suy nghĩ mông lung, nghe nói người nào chết lâu quá rồi thì được đi đầu thai, hồn không thể về dương thế hưởng của cúng nữa. Mà phải như vậy mới được, nếu không đi đầu thai thì làm sao con cháu nhớ hết tên ông bà mà giỗ chạp quải đơm. Mẹ mình chắc cũng không còn dưới đó, bà chết khi mới sanh mình ra, giờ đã hơn ba chục năm rồi. Tuy nghĩ vậy chị Nhàn vẫn đọc tên mẹ, rồi vái tên cha sau. Nhớ tới người cha chồng chị muốn vái luôn nhưng hơi bối rối. Ông già ảnh chết chưa đầy năm chắc là về được. Mà kẹt quá trí nhớ hồi nầy lú lẫn tên ổng cũng không nhớ ra. Chị vừa nhắm mắt lại vừa trợn trừng mắt dưới mi, tập trung trí não lục lại tất cả chỗ ngõ ngách của trí nhớ cái tên ông già ít nhất có một vài lần chị thấy.
Thôi chịu, chị lấy ba cây nhang khác, bật hột quẹt đốt. Hột quẹt cây quá cụt mà thuốc hơi mềm, chị chụm ba, bốn cây làm một quẹt thiệt mạnh, nghe một tiếng cháy xè rồi tắt ngún. Chị liệng mấy cây diêm mắc dịch đó xuống đất, bốc mấy diêm khác... Ngọn lửa liếm nhang lần này thiệt mau. Chị chấp nhang giữa hai tay vái 'hương hồn cha chồng tôi sống khôn thác thiêng về dương thế trong bữa cúng rước ông bà Tết năm nay.'
Cắm nhang vô ly cát lần nữa, chị mỉm cười. Vái đỡ vậy thôi, làm sao hơn được nữa, không biết vong hồn ổng về được không. Lẫn lộn quá rồi. Chị khum mình xá xá. Nghe đau nhức khó chịu chỗ xương sống ngang hông. Chỗ nầy thì nhức hoài mấy năm nay. Chứng nầy hành hạ mấy người đàn bà đẻ nhiều mà! Mình đẻ có ba đứa, đâu nhiều nhỏi gì, chắc là mấy năm gần đây lao tâm lao lực quá độ thêm vụ ăn uống thiếu thốn, cố cho đầy bao tử, bất kể thức ăn thật sự tốt hay không cho sức khỏe nên mình mẩy báo động lên tiếng đòi bồi dưỡng.
Chị vừa như mỉm cười với ý nghĩa mình mới đặt ra vừa nắm nắm tay vòng qua sau lưng đấm đấm chỗ đau. Cái đau bên ngoài lâu nay khiến tạm quên cái đau bên trong vẫn âm ỉ hiện diện. Khổ quá, cái mòi rệu rạo như răng bà già thấy được bất cứ trên vị trí nào của thân thể. Gì mà không còn chỗ nào nguyên lành coi cho được, cho vui đời nghèo. Bộ phận nào không có chuyện này cũng có chuyện kia, không đau hông thì đau xương sống, không đau chỗ tim phổi thì đau chỗ thận, bàng quang. Như chĩnh mắm nêm là đây. Ông bà mình ngày xưa nói lẩm rẩm không căn cứ trên khoa học khoa hiếc gì hết vậy mà trúng quá xá. Thân thể không còn là niềm hãnh diện của mình nữa mà đã thành một tội vạ, một gánh nặng phiền toái, ưu tư. Chị ngó lên bàn thờ, nãy giờ mà tàn nhang không rớt xuống, cong cong gần tròn một vòng nhưng than của cọng vẫn được lớp tro nhang bao bọc như khi chưa được đốt. Lớp cát trong ly vẫn còn mới tinh chưa bị phủ mặt như những lần cúng kiến trước đây. Người ta nói đó là điềm báo ông bà về. Chị thốt nhiên đưa tay kéo áo kéo quần cho thẳng thớm chỉnh tề. Ông bà khuất mắt mày nhưng đã hiện diện trong nhà này, đang hưởng vật thực cúng kiến của mình, không thể xốc xếch được. Chị lật đật đi mở tủ kiếm mấy cái ly nhỏ rót nước lạnh để lên trên bàn. 'Xin ông bà cha mẹ tha lỗi cho, đáng lẽ phải có chút rượu làm lễ nhưng lúc này khó kiếm lại mắc quá.' Chị đứng thẳng trước bàn thờ kiểu như một người hầu hạ ông bà đương dùng tiệc. Bỗng nhiên chị thấy mình xẻn lẻn ngang, ai đời van vái xin lỗi ông bà mà nói chuyện mắc quá không mua nổi. Làm như mua chút rượu cúng ông bà là một gánh nặng không bằng. Cái khó nó bó cái khôn là vậy. Đời mạt pháp, thiên hạ sống trong túng cùng. Ước gì ảnh về được thăm mình. Ước gì giấy tờ của ảnh làm mau hơn để mình được bay ra khỏi chỗ này sớm. Nếu sớm hơn mấy năm trước thì con nhỏ đâu tới nỗi bỏ thây trong trạm y tế phường tức tưởi như vậy. Ước gì mình trúng số độc đắc được một lần, lúc nầy ngày nào cũng xổ, cũng có người trúng, mình nhịn ăn mua bao nhiêu lần, mỗi lần cả chục tấm, cũng đều như không, trật lất trật lơ, tới hai con chót an ủi cũng không bao giờ thấy.
Như là có bóng người, hai người chứ không phải một, từ chỗ bàn thờ thoáng mau lại cửa rồi trở vô. Chị định thần nhìn kỹ nhưng không thấy gì. Có lẹt đẹt vài tiếng pháo nổ xa xa, tiếng nổ cũng không lớn như ngày xưa, như là không đủ thuốc hay họ quấn giấy không được chặt. Ngoài đường nắng đã lên, tiếng người nói hòa với tiếng dép kéo lê trên mặt đường. Một cảm giác mâu thuẫn hiện lên trong lòng chị, vừa muốn ông bà về chứng kiến cảnh nghèo nàn của mình để thỏa mãn sự vái van nhưng lại vừa sợ ma. Có thể hai cái bóng vừa thấy là có thiệt chớ không phải hoa mắt nhìn lầm.
Chợt chị rùng mình, như có một bàn tay lạnh buốt rờ lên đầu chị, chị hắt hơi. Cảm rồi, chị nói thầm, ngày Tết gió độc hơn ngày thường. Tết là ngày giao thoa của hai năm mới-cũ, Tết cũng là giai đoạn liên hợp của âm-dương nên trong gió có phảng phất hơi âm, ai yếu bóng vía thường bị cảm lạnh, có khi bị liệt giường luôn. Chị đi vô buồng trong lấy thêm cái áo mặc tròng lên, nói lầm thầm trong trí, ma quở kiểu nầy chắc hết Tết nhứt gì quá!
Ngó chỗ tay áo bị rách sờn mà lòng chị quặn xuống, chị ngó quanh quất trrong nhà để ước lượng những gì hơi đáng tiền mà mình có rồi ngó lên mấy cây nhang trong cái lư hương, một lần nữa chị lại ước ao ông bà phù hộ cho mình trúng số để thoát ra khỏi cảnh bần hàn đeo đẳng cả chục năm nay...
'Anh chờ tôi với, mình đi có bạn chung cho vui.'
'Sao anh coi bộ gấp vậy, mà tới bây giờ mới ra?'
'Tôi có biết gì đâu, tưởng cũng giấy tờ như mọi khi nên chần chờ, té ra ngày tư ngày Tết trên kia, ở đây mình được tự do đi lại. Khổ quá, không ai nói gì với mình nên cứ lẩn quẩn trong đó, tới chừng thấy tư bề lưa thưa còn có mấy mống mới sực biết, bỏ ra, thời may gặp được anh đây.'
'Ở chỗ nầy cái tình còn ít hơn trên kia nữa vì ai cũng biết rằng là chỗ tạm trú để chờ lịnh đi lên đó -- dưới hình dạng nầy hay hình dạng kia. Lo lắng, thắc mắc cho tương lai mình nên không ai buồn ngó ngàng gì tới ai khác.'
'Dửng dưng với vấn đề của kẻ khác là yếu tính của con người dầu nó ở đâu và dưới hình thái nào.'
'Không có cái lo nào hơn hơn cái lo liên quan tới mình.'
'Tôi có lộc ăn rồi anh biết không, nghe mùi hương thì biết có người mời nhưng cần phải nghe họ vái tên mình mình mới biết phải về nhà của ai, chỗ nào. Con gái tôi đó. Ừ mà con dâu anh chớ ai.'
'Tôi cũng đã có nghe mùi hương mời nhưng vẫn thắc mắc vì không thấy nhắc tới tên mình.'
'Chắc nó quên tên ông già chồng nó rồi. Trên đó chuyện quên tên người khuất mặt khuất mày chúng ta là thường. Anh đi với tôi cho có bạn nhe. Ba ngày này âm dương giao hòa, mình đi không cần giấy phép đi đường, miễn là tới chập tối phải về có mặt là được. Họ sợ ban tối mình lang thang trên đó làm hại người dương.'
'Phải, biết bao nhiêu anh chị lợi dụng khí âm của mình làm chuyện phá làng phá xóm rồi. Ngày thường mặc dầu nhận được nhang mời, có tên kêu vẫn đi không được à?'
'Ngày thường phải cần giấy phép, nếu con cháu không hài tên mình ra thì càng khó nữa. Rằm tháng Bảy cũng là ngày Tự Do. Nói chung ở đây cái nạn thư lại bàn giấy không khác gì với trên kia là bao.'
'Tôi không biết khi họ hỏi căn cước tôi phải làm sao. Hỏi căn cước một con ma, xin lỗi anh, là bắt con ma đó phải è ạch mang tấm mộ bia nặng dàn trời tới đưa ra trình.'
'Chế độ thư lại bàn giấy làm khổ dân ấy mong nó qua cho rồi. Mình đi thăm con Nhàn nghe.'
'Ừ rồi mình chịu khó một chút thăm thằng quỷ đó với tụi nhỏ. Tội nghiệp quá. Đáng lẽ bỏ lúng tụi nó ra sao thì ra. 'Quên hết' như bài học họ giảng cho mình hằng tháng mà sao tôi cứ xót xa trong lòng. Hồi trước khổ sở với tụi nó biết bao nhiêu bây giờ cắt bỏ tình cảm cái cụp chuyện đâu có dễ như họ nói. Biết tụi nó bị chuyện nầy chuyện kia, tôi vẫn thấy đoạn trường như thường'
'Mà cũng có tụi quên phăng mới hay! Tụi nó phơi phới, ngay cả bà con cật ruột trên kia bây giờ xuống đây họ cũng không thèm nhìn, không thèm dĩ tới.'
'Số nầy ít thôi. Ảnh hưởng của môi trường sống một thời khoảng lâu dài - cái quá khứ nặng nề - đâu phải vì mấy cái bài giảng đó mà gạt bỏ tất cả ngay.'
'Phải có một thứ thuốc bạch-hóa để quên tình cảm còn xót lại với người bên kia, cũng như thuốc lú cho mấy con ma, tôi cũng vậy nữa - xin lỗi, trước khi cho đi đầu thai.'
'Chắc họ có nhưng không cần đem ra xài lúc nầy. Ai nhiều tình cảm thiệt thòi ráng chịu. Khổ sở sanh ra từ trong lòng, ai còn mềm lòng lúc nầy chỉ khổ thân thêm mà thôi. Ngăn chận cái khổ của mình là chuyện mình phải tự lo, họ đâu cần lo. Thuốc lú cho việc đầu thai thì họ cố gắng cung cấp đầy đủ, nếu không quên thì con người sẽ đi tìm nhau, sẽ dính dây chùm dây mơ rễ mớ với nhau, lộn tùng phèo hết, sanh con rồi mới sanh cha, sanh cháu giữ nhà rồi mới sanh ông....'
'Ơ... mà thuốc lú cũng đâu phải hoàn toàn hiệu nghiệm. Vài trường hợp người uống rồi, kết quả trơ trất. Lên lại họ đâu cần học. Mấy người mà ông Lão tử đó nói 'Sanh nhi tri' đó, họ đã học ở các kiếp trước rồi.'
'Ừ hé. Hồi đó ở xã Linh Xuân Thôn huyện Thủ Đức của tôi có thằng nhỏ bốn tuổi, chưa từng thấy nhà máy xay lúa, nó lại ở xa nhà máy, ngộ một điều là máy móc trục trặc gì chủ nói với nó nó có thể chỉ chỗ nào phải sửa và cắt nghĩa rành rọt tại sao lại trục trặc.'
'Mấy người thần đồng cũng vậy thôi. Lên mà không bị lú thì học một biết mười. Cũng như học ôn, hay dò bài lại thôi. Dễ!'
'Ờ! Mà gần tới chỗ giao điểm hai vùng rồi đó. Nếu cần anh nắm tay tôi. Ở đây cả chục năm, mỗi năm đi qua đây hai, ba lần tôi biết chỗ nầy nó dài tới cả chục phút lận, mở mắt ra không thấy gì hết. Một vùng đen tuyệt đối, dài thăm thẳm, vô cùng. Ai có giấy phép thì nghe theo tiếng gió mà đi, khi hết nghe tiếng gió, mở mắt ra thấy cảnh quen thuộc ngày xưa là tới. Ai không có giấy phép thì trời khiến họ cứ xà quần, thơ thẩn trong chỗ tối đen đó vài ngày họ tới dẫn về họ phạt. Nhốt hầm tối. Cái tối ở trong vùng âm!'
'Lạ há. Hai miền cách nhau bằng chỗ tối bưng há. Kêu là chốn u minh là đúng quá rồi. Để cho ở trên kia không đi lạc xuống đây. Tay anh đâu?'
'Đây! Vậy mà 'thiên hạ' đi lạc hoài. Có người mới tới chỗ tối nầy thôi rồi dương khí mạnh kéo họ về. Người ta kêu là chết giấc, chết giả. Có biết, có thấy gì đâu. Tỉnh dậy cũng như thường, không biết gì chuyện đã xảy ra. Vùng nầy tối om mà.'
'Tôi muốn nói là có người đi qua luôn chỗ tối nầy kìa, vô chỗ của mình đương ở đó. Mà trở về được há.'
'Có hoài, đời xưa ở bên Tàu có ông Lâm Tự Kỳ, lạc xuống, họ cho về nên viết cuối Hồi Dương Nhơn Quả kể lại chuyện xử phạt dưới nầy. Tiếc là hồi đó tôi đọc mà không tin.'
'Ở bên mình có ông Thủ Huờn, ông ta nguyên làm chức Thủ Bạ đời Minh Mạng được người quen ở dưới nầy dẫn xuống, ông ta thấy mọi chuyện, sợ ớn xương sống nên về làm phước cất một cái nhà trên bè ở ngã ba sông để cho những người lỡ con nước có chỗ nghỉ tạm lại trên sông và có thức ăn đỡ lòng. Ông ta bố thí hết gia tài của mình ở chỗ Nhà Bè đó.'
'Lạ há, đã phân chia vùng rồi, lại còn có chỗ tối làm trái độn nữa mà vẫn còn có người đi lạc ha.'
'Ừ! Chuyện trời đất đâu phải luôn luôn phải xảy ra như vậy đâu. Lâu lâu cũng có cái trật chìa. Có chuyện người đẻ 100 trứng, cá thia thia sống ở bẹ dừa hay trên ngọn cây, chuyện mưa cá mưa tôm thì chuyện lạc vùng đâu phải không thể không có. Mấy cái chuyện lạc Thiên Thai, Từ Thức gặp tiên nữ là chuyện lạc lên vùng trên. Vùng trên còn lạc lên được thì vùng dưới lẽ nào lại không?'
'Anh muốn nói mấy cái truyện chép lại trong Liêu Trai Chí Dị chứ gì?'
'À, tôi nghĩ cái ông họ Bồ thấy được chuyện bí mật của trời đất, ông ghi chuyện mấy con ma nữ đi lạc lên đời, thỉnh thoảng cũng ghi lại chuyện người đi lạc xuống đây. Hay là được dẫn xuống đây cũng vậy mà thôi.'
'Tới nơi rồi, anh thấy mùi tanh tanh như máu trong gió không. Đó là mùi ích kỷ của lòng người đó. Trong mùi tanh tanh anh nghe thấy mùi thui thúi, đó là mùi tự cao tự đại của họ... Mở mắt ra đi.'
'Kỳ thật. Hồi cha sanh mẹ đẻ tới năm ngoái nghĩa là cũng 60 năm ở trên đời, tôi đâu nghe cái mùi đó. Bây giờ mới đi có trót năm về lại nghe mùi nầy.’
'Ở trong đó thét rồi quen đi. Cũng như người ngồi trong cầu tiêu dơ ban đầu còn nghe mùi, ngồi một lúc thì nghe bình thường. Người ở vùng chợ Gò Vấp không nghe mùi hôi thúi nhưng ai đi xe lửa khi xe tới gần đều nghe cái mùi thum thủm nầy. Cũng vậy, con nít nhỏ xổ lòng mẹ khóc hoài không nín vì ban đầu nó không chịu được cái mùi tanh tanh thúi thúi của đời.'
'Ừ ! Sao có mùi thơm dìu dịu mà nghe từng cơn từng cơn ở đây vậy.'
'Đó là mùi uất hận của người ngây thơ vô tội bị đè nén oan ức, mùi của sự chịu đựng những bất công, nghịch thiên nghịch địa.'
'Vậy thì quen nghe mùi mình sẽ biết ngay chuyện gì đã xảy ra chung quanh phải không anh?'
'Ừ! Vậy mới là ma, biết vanh vách như ma xó, thiên hạ nói hoài. Chỉ cần nhướng mắt lên là anh có thể thấy vàng thiên hạ chôn giấu ở đâu, tấm giấy số nào trúng độc đắc, ai sẽ đắc cử Tổng Thống ở nước nào đó. Thôi! Vô nhà con mình. Anh thấy mấy cây nhang trên lư hương cúng tàn mà không rụng không. Giấy phép đi đường của mình đó.'
Ông già Nghĩa vuốt đầu chị Nhàn. Chị tới ngồi trên cái ghế cây đóng bằng mấy miếng ván tạp, mắt buồn thiệt buồn ngó ra cửa sổ. Chị rùng mình, đứng lên tới bàn thờ đưa tay sửa lại đám chưn nhang vì vài cái tàn rớt xuống chén chè kế bên. Tay chị vô tình đưa xuyên qua bụng ông già mình. Ông già Nghĩa ngó bạn cười. Ông già Nhân kéo bạn đứng tránh ra một bên. 'Không nên!'
Ông già Nhân ngó con rồi ngó bạn. 'Riết rồi quen đi, đâu cần tránh né gì cho mệt. Ban đầu còn để ý thét rồi kệ, thiên hạ càn lướt trên đầu cổ mình cũng không nhằm nhò gì, mình cũng đi qua tường qua vách cho mau. Ở đâu quen đó.'
Chị Nhàn vẫn đứng trước bàn thờ nhưng nhìn về phía cái bàn có để tấm hình của chồng, người chồng hiền lành mỉm cười. Ông già Nhân đang đứng ngắm nghía hình con mình, chị Nhàn đi xuyên qua mình ông. Chị cảm thấy một luồng lạnh chạy dọc theo chiều đứng của thân thể. Chị rùng mình lần nữa. Chị cầm tấm hình lên, đưa gần mặt mình, như là hôn, rồi để xuống.
Hai giọt nước mắt chị trào ra, lăn gần tới sống mũi, chị đưa tay quẹt. Ông già Nghĩa nắm tay con như muốn dẫn đi ra cửa để chỉ chỏ gì đó nhưng khi tay ông nắm tới tay con thì lại bóp vào khoảng không. Ông thấy con mình ngó về phía bàn thờ thì chạy về đó đứng xuyên qua phía bên nầy bàn chấm tay vô ly nước trước mặt viết mấy chữ. Chị Nhàn vẫn không thấy gì. Nghe tiếng pháo nổ, chị ngó ra ngoài, ông già Nghĩa bước tới kê miệng vào tai chị nói gì như dặn dò nhưng chị vẫn như không cần chú ý, bước ra phía trước cửa ngó mông ra đường. Một lần nữa ông nắm tay con và kêu bạn mình cùng nắm để dẫn chị ra khỏi nhà thì chị hắt hơi một cái rồi quày quả trở vô. Ông già Nhân lật đật móc ra một tấm giấy và một cây viết đưa cho già Nghĩa. Ông nầy viết vội vàng mấy chữ, đưa tới trước mặt con. Chị Nhàn không ngó mà cúi xuống sửa sửa lại nếp áo, nếp quần mình.
Ông già Nghĩa nhìn con thất vọng, quay lại thì không thấy bạn mình đâu nữa. Chừng một phút sau già Nhân mới hiện lên. 'Tôi đi qua tới bển thấy thằng chó đó đương ăn uống bĩ bàng với một con khác, giận quá gõ đầu nó mấy cái,' ông thì thầm. 'Tôi cũng có đưa tay vô quậy quậy trong hai ly rượu tụi nó... Làm thì làm vậy cho đỡ tức mình chứ mình là khoảng không mà, có làm được quái gì ai.'
Hai bóng ma buồn bã ngó chung quanh một lần cuối rồi nắm tay nhau lặn xuống đất.
Trên bàn thờ tàn nhang bây giờ đồng loạt rớt xuống lã tã phủ đầy mặt cát trong 'ly hương', lấm tấm điểm mấy chén chè cùng hai dĩa thịt gà xé phai cạnh đó.
Buông một tiếng thở dài, chị Nhàn cầm lên từng chén chè đưa ra ngoài thổi thổi nói nho nhỏ. 'Cúng thì cúng, vái thì vái chứ làm sao ông bà có thể giúp mình trúng số được. Âm dương cách trở làm sao tương thông. Giáng phước giáng họa cho nhau chỉ có mình và người đời chung quanh mình mà thôi, không ai vô đó được. Thôi mai không ăn Tết nữa, lăn thân ra ngoài chạy mánh kiếm được đồng nào hay đồng nấy, vậy mà chắc.
Bên ngoài chiều đã xuống, tiếng pháo nổ càng lúc càng nhiều hơn, nhưng vẫn là những tiếng lẹt đẹt, xì hơi, buồn chán, không xua đuổi được nỗi niềm u đạm của người nghe...
(Houston, Texas, 3-1990)
Ánh Mắt Mùa Xuân
Thế là tôi được đứng trên nước Mỹ đã gần mười tiếng đồng hồ. Cả ngày trên thế giới thần tiên mơ ước của bao nhiêu người nhưng sao nghe chập chùng lo lắng. Lạ lùng cảnh vật và ngỡ ngàng ngôn ngữ, nhưng điều quan trọng là nỗi thắc mắc về tương lai bất định, về lối ứng xử dự định tối nay khi gặp lại Tân sau chục năm lạnh nhạt và âm ỉ nghi ngờ. Tôi vốn giống tánh mẹ, có gì trong dạ là nói ra ngay, những giận hờn dù nhỏ nhoi tôi chưa từng bỏ qua không nói, chất chứa và ẩn dấu tình cảm, chỉ buông ra khi gặp dịp thật thuận tiện, làm người con gái Hà Nội khôn ngoan của nửa thế kỷ trước-- tủm tỉm cười cười nói nói như không chuyện gì -- không phải là thái độ hằng có của tôi khi đã ở Miền Nam từ ngày còn trong bụng mẹ. Chắc chắn Tân sẽ không thích người mới đến đem theo những vấn đề lương tâm từ lâu anh trốn chạy cũng như anh đã nhắm mắt đà điểu lại coi như không có vấn đề quan trọng của gia đình hai đứa từ bao nhiêu năm nay. Chắc chắn thái độ khôn ngoan nhứt là biết vị thế của mình ở đâu trong lòng người chồng chỉ còn trên danh nghĩa và những ràng buột mơ hồ từ sợi dây cương thường Khổng Mạnh nát nhòe khói sương. Xé tấm giấy hôn thú, ban đầu tưởng là kế hoạch tranh khôn nhưng thời gian đã biến thành một thực tế nhói tim xé ruột. Biết vậy mà sao tôi vẫn muốn nói lời phiền giận, muốn trách hờn một phụ phàng. Cho hả tức, cho tai Tân tràn đầy những phẩn nộ chuyên chở đau khổ hằng cữu của tôi. Và chuyện gì sẽ xảy ra? Có thể Tân sẽ không ký lại cái hôn thú, xé toạt những kỹ niệm thần tiên ngày xưa cũ để cho tôi bị đuổi về Việt Nam như lời hai chị tôi tiên đoán? Trả về! Rồi tôi sẽ sống như thế nào? Trường học, nơi tôi vừa từ nhiệm, người ta đã tiệc trà tiển đưa với những ánh mắt ganh tỵ lẫn dè bĩu, tôi lòng dạ nào trở về dù rằng về đó sẽ dễ dàng sống được, sống còn trong cảnh hầu như mọi người đều hành nghề dối trá và bóc lột lũ học trò. Trở về để thấy lại những kỹ niệm muốn quên của hai lần bị chèn xe cho ngã rồi những tên đầu đường xó chợ đập bể những chai nước trà pha loãng rượu dỡm để bắt tôi bồi thường với giá trên trời dưới lời hăm dọa của những con dao Thái Lan nhọn lễu và hàng chục cánh tay bạo tàn vây bủa chung quanh. Không! Tôi không thể trở về khi đã muốn xóa trong ký ức một quá khứ nhọc nhằn vô nghĩa và đồng lõa. Tôi tặc lưỡi cố gắng đè nén xúc động khi suy nghĩ đến những khó khăn trước mặt. Tới đâu hay đó. Vài ba đứa nhỏ da màu ít oi trong đám đông da trắng chạy nhảy vui cười từ khu nầy sang khu khác làm tôi vui vui hơn đôi chút. Phải chi lòng mình bình thản như chúng nó! Thần tiên biết mấy và đạt đạo biết mấy!
Tiếng loa báo tin gì đó tôi không hiểu. Thiên hạ trong vùng tôi ngồi đợi đã lục đục đứng lên xếp hàng vào cửa. Tôi sợ bị bỏ rơi như nhiều lần đã bị bỏ lại trong đời nên cố gắng len lỏi tới trước. Nhiều ánh mắt nhìn tôi lạ lùng chen lẫn bất bình và tội nghiệp. Cô tiếp đãi viên hàng không soát vé, to lớn mạnh mẽ và có cặp đùi thật đẹp nói gì đó với tôi một tràng dài. Trông cách ra hiệu của cô ta trong khi nói, tôi mang máng hiểu rằng mình được bảo đứng ra ngoài hàng và đợi cách giải quyết sau. Tôi bước ra ngoài hàng. Đứng mà lo sợ và tủi thân. Sao lại đợi? Chuyện gì đây? Tiếng người thì ngọng ngịu, nói ra thì thiên hạ cứ hỏi đi hỏi lại. Cái hàng đã vơi tới năm sáu người cuối cùng. Lác đác chỉ còn vài ba người ung dung trên ghế đợi, như chừng không phải đi chuyến nầy nên cứ tà tà nói chuyện. Tôi muốn bật khóc. Nếu giấy tờ trục trặc thì không biết tính sao. Ai giải quyết cho mình đây. Tôi mừng rỡ đưa mắt cầu cứu một ông khách có vẽ Á Đông mới tất ta tất tưởi chạy tới. Thấy ánh mắt tôi, ông ngó cô tiếp đãi viên như để đoán chừng
thời gian còn lại cho ông rồi tiến về phía tôi. Tôi nói cầu âu bằng tiếng Việt. ‘Nhờ chú coi lại coi sao họ bắt cháu đợi không cho lên tàu.’ Vừa nói tôi vừa chìa hộ chiếu và vé phi hành ra.
Ông khách nhìn lướt qua nhưng không có vẽ gì như muốn đưa tay ra lấy mà buột miệng nói một câu vô duyên như núi lỡ: ‘Cô mang thông hành Việt Cộng!’ Rồi như thấy mình lỡ lời vì ánh mắt đau khổ của tôi, ông đưa tay cầm lấy tất cả giấy tờ, ngoắc tôi đến quày vé, trình và nói gì đó. Người nhân viên bấm máy vi tính. Sau một hồi tìm kiếm trên máy, in ra cho tôi một vé lên tàu.
Mặc dù đang mang xách cũng hơi khá nặng, ông vẫn đề nghị xách hộ tôi cái xách tay kồng kềnh làm khổ sở tôi từ lúc lên phi trường Tân Sơn Nhất đến giờ. ‘Cám ơn chú, cháu lo liệu được.’ Tôi từ chối. Từ không biết bao lâu rồi, những giúp đở của bất kỳ ai tôi đều đón nhận với tất cả lòng ngờ vực. Người thân ruột thịt còn chưa tin được huống hồ gì người gặp gỡ giữa đàng! Tôi mang xách lên vai, tay kia kéo cực khổ cái túi mang những thứ lỉnh kỉnh cho con, né không cho ông để tay vao, nhưng chỉ đi được vài ba bước thì ông ta đã đưa tay ra đở lấy, thân thiện và quyết liệt. Phi cơ nhỏ hơn chiếc đi từ Đài Bắc sang đây nhiều, đường giữa hai hàng ghế hẹp. Tôi lo tìm số ghế mình, nhìn lại thì không thấy ông ta đâu nữa.
Tôi ngồi xuống ghế thắc mắc. Bên cạnh trống trơn. Ước gì không có ai ngồi chỗ nầỵ Thoải mái cho tôi. Phải chi lúc nảy đừng cho ông ta giằng lấy cái xách. Của không bao nhiêu nhưng cái tình cho con mang tràn đầy trong đó. Mười năm rồi tôi không thấy mặt con. Chỉ là những tấm áo tôi đo cắt đoán định vóc dáng con với cả tấm lòng trời biển của người mẹ. Chỉ là những thứ mứt tôi xên phơi với lòng thương cao ngút ngàn như núi. Không biết ông ta có lục ra coi rồi lấy bớt hay không, hay ông ta ngồi luôn ở đó đợi phi cơ ngừng rồi lẻn ra trước, lấy theo luôn đồ đạc của tôi. Phi cơ cất cánh, tôi chìm trong những suy nghĩ vẩn vơ về sự xấu xa của người đời mà lâu rồi tôi quá ư thất vọng. Tôi thiếp đi trong sự mệt mỏi của chuyến bay đêm với tiếng động cơ ù ù ru ngủ và bóng tối bao phủ chỉ còn chút ánh sáng le lói từ một vài hàng ghế xa xa.
Tiếng ghế cạnh tôi động nhẹ. Ông ta sửa soạn ngồi xuống, gật đầu chào, nói nho nhỏ khi tôi mở mắt nhìn.
‘Thỉnh thoảng đường bay nội địa còn lại nhiều chỗ trống như thế nầy.’ Ông vừa nói vừa thắc dây an toàn, ‘Hành khách có thể ngồi đâu tùy ý. Xin lỗi, nếu tôi không lầm thì cô đến định cư ở Mỹ chớ không phải đi công tác cho chánh phủ.’
‘Cháu sang đây đoàn tụ với nhà cháu!’
‘Chúc mừng cô! Đợi bao lâu mà được đoàn tụ?’
‘Hơn mười năm rồi.’
‘Chúc mừng cô lần nữa. Thời gian tuy dài nhưng cô đã qua tới đây. Bây giờ là lúc an vui và lo liệu cho tương lai. Ông ta dùng lại chữ của tôi khi nảy.’
‘Vui gì mà vui. Đang buồn chết người.’ Tôi cũng không biết tại sao mình nói nhiều, tại sao lại nói như là khơi chuyện. Có thể vì sự cô đơn, có thể ông ta là người Việt Nam đầu tiên tôi chuyện trò từ khi rời nước. ‘Từ Đài Loan qua Cali còn có người Việt Nam, từ lúc đợi ở phi trường khi nảy không còn thấy bóng một người Việt nào. Muốn hỏi một vài điều mà không biết hỏi ai.’
‘Cô có chuyện buồn?’
‘Có khi nào người sang đây bị bắt buột trở về vì những thỏa thuận trước khi ra đi mà không tất hay không?’
‘Tùy nhiều chuyện… Anh ấy đang có người khác?’
Một giọt rồi cả tràng dài nước mắt rủ nhau chạy ra khỏi khóe mắt cay xè của tôi.
‘Cháu không biết phải nói gì, phải làm sao khi qua bên đó khi bắt buột phải sống chung nhà với người ta, người thứ ba.’
Người đàn ông sửa lại thế ngồi, có vẻ chăm chú hơn câu chuyện của tôi.’ Trước hết cho xin lỗi về câu nói đầu tiên của tôi khi gặp cô. Danh từ mà tôi đã dùng có vẻ không được đàng hoàng. Mỗi người trong chúng ta đều dị ứng trước một số vấn đề, một số dữ kiện.’ Ông ngừng một vài giây, ngó tôi rồi bật đèn chỗ ghế ông ngồi, như muốn quan sát những giọt nước mắt tình cảm đàn bà của tôi.’ Mà thôi, trở về câu chuyện. ‘Mỗi người trong ba người đều có lợi thế và bất lợi thế. Cô phải sử dụng lợi thế của người đến trước, đã có con với anh ấy mà hành động bằng sự nghiêm trang cần thiết. Tiểu tinh sẽ co vòi ngay.’ Tôi thích chữ tiểu tinh của ông dùng. Nó vừa ý tôi hơn chữ hoa trong câu thơ ‘Rằng nghe vườn mới thêm hoa.’
‘Tránh mè nheo, chửi rủa, than thở dài dòng. Phải tươi tắn, nhỏ nhẹ. Càng nói ít càng tốt. Đàn ông vốn dễ chán ngán và mệt mỏi trước sự trách móc dai dẳng và quy chụp thường xuyên của đàn bà.’
Quy chụp? Ông nầy là hạng người nào mà sử dụng từ nầy! Tôi chú ý hơn người đối thoại. Đây là loại người để mình học hỏi, trao đổi. Ông ta không già như tôi tưởng. Có thể ông ta mới rời Việt Nam không bao lâu. Nhưng mà không cần chú ý tới ba cái thứ vặt vãnh đó. Tôi đang có quá nhiều điều bận trí.
‘Em sợ mình hiền quá anh ấy sẽ theo người ta luôn, đàn ông mà, mới cũ. Nhưng dữ quá thì sợ anh ấy bực mình không ký lại giấy hôn thú.’ Tôi thay đổi cách xưng hô hơi sớm nhưng mà thật ra tôi chỉ muốn thân mật để coi ông ta có cho mình được lời khuyên gì đó xứng đáng hay không.
‘Đàn ông không ích kỷ đến mức làm hại vợ kiểu đó. Đàn ông có thể dối vợ để rong chơi cuối trời quên lãng, nhưng đàn ông ác độc thì không nhiều, lịch sử cho thấy điều đó.’ Để tránh vẻ quá chăm chú nghe ông ta nói, tôi mở giỏ lấy quyển truyện ngắn của tác giả hiện sinh Lý Lan, tác giả mới nổi tiếng trong nước, cầm trên tay. Ông ta nhìn tựa quyển sách, không nói gì, chỉ tiếp theo đề tài của mình.
‘Cô cũng còn đẹp.’ Tôi không hiểu ông có dụng ý gì trong câu nói đó. Đàn ông không mấy người nói về sắc đẹp của người đàn bà đối diện mà không có ẩn ý. Đó là cái tật, cũng giống như tật truyền kiếp của họ là chỉ nói chuyện với đàn bà bằng nửa não vì nửa kia bận tưởng tưởng về hình ảnh trần truồng của người đối diện.
‘Lợi thế là ở đó. Phải biết mình muốn gì. Phải đầu tiên là muốn ở lại lập nghiệp trên nước Mỹ không? Sau đó là có chút tiền đỡ khổ lúc ban đầu bỡ ngỡ. Cuối cùng là được sống hạnh phúc gia đình với chồng con. Nếu mất thì theo thứ tự chồng, tiền, chót nhứt mới là sự tự do.’
Tôi muốn há hóc mồm ngạc nhiên. Ông ta nói trúng những gì tôi suy nghĩ và quyết định trước khi lên phi cơ sang đây. Tôi làm thinh, tay lật lật quyển sách.
‘Vậy thì phải từ từ, sao cho đạt được ba mục tiêu đó. Không cần phải cùng một lúc. Không cần làm cho hai người kia sợ mình. Cũng không cần cho họ thấy sự bất bình của mình. Từ từ và nhỏ nhẹ.’ Ông ta lập lại kế sách nầy nữa. Từ từ và nhỏ nhẹ khi anh ta xéo lên giao ước của người đi trong khi tôi khổ sở ôm giữ từng chữ, từng câu giao ước của người ở lại?
‘Cám ơn lời khuyên của anh, anh thấy nhu mì, nhỏ nhẹ đắc dụng trong trường hợp nầy?’ Tôi hỏi cho có. ‘Em đã định làm ngược lại đó chứ.’
Tôi thay đổi cách xưng hô, ông ta xứng đáng được xưng hô như vậy. Sành tâm lý dễ sợ, nói ít nhưng đúng lúc. Tôi không hổ thẹn gì khi dùng chữ anh-em thân mật đó. Ông ta như không chú ý.
‘Xứ nầy là xứ cơ hội và an toàn cho tất cả mọi người. Cô không nên thất vọng về bất cứ chuyện gì. Rồi mọi chuyện sẽ được giải quyết tốt đẹp thôi. So sánh sự khó khăn khổ sở của cô bây giờ với sự khó khăn và cô đơn của anh ấy lúc mới tới đây với đứa con nhỏ thì cô sẽ thấy từ từ và nhỏ nhẹ là kế sách công bình mà lại hữu hiệu..’
Tôi thở dài. ‘Vậy mà em định tới đó nói phải quấy cho hả hơi rồi chia tay. Nếu không có giấy tờ thì trốn lại sang đây sống với chị bạn. Chị ấy hứa với em nhiều lần.’
‘Cô đã sai lầm vì có giải pháp trước khi nhìn rõ công chuyện. Cô cũng không biết mình nên tiến nhanh hay tiến chậm trong kế hoạch. Cô bị ảnh hưởng vì cái phao người bạn. Cô quên xét những khía cạnh đáng tha thứ của anh ấy.’ Tôi bàng hoàng. Mười năm nay tôi chỉ nghe lời xúi giục, bênh bổ đứng về phía tôi. Chưa từng nghe ai đứng về phía anh ấy, những chữ khía cạnh đáng tha thứ là những chữ chưa bao giờ có mặt trong tự điển cuộc tình nhiều nước mắt của tôi. Vâng! Tôi phải tìm cách tha thứ. Cho dẫu lòng mình tan nát!
Vẳng bên tay tôi nghe mơ hồ không biết là tiếng ông ta hay tiếng từ trong lòng tôi phát ra. ‘Tha thứ ở đây không có nghĩa là dối lòng, che mắt không biết đến những chuyện đã xảy ra. Tha thứ đây là thông cảm với những yếu đuối vật thể của con người trước hoàn cảnh đẩy đưa. Tha thứ là mở đường thực hiện tình mẫu tử gián đoạn từ lâu.’
Tôi thầm cám ơn người đối thoại đã đưa cho tôi một giải pháp khiến mình có được sự thanh thản cần thiết. Trạm tới không là ngưõng cửa vào địa ngục mà tôi phải cầm gươm đánh nhau với quỷ dữ như mình đã hình dung, trạm tới là bước đầu tôi tập luyện thành người có cái minh triết, nhìn sự kiện trên khía cạnh sâu sắc nhứt để đem lại hạnh phúc cho tất cả người trong cuộc. Cái tôi sẽ không bị xóa tan như mình tưởng mà sẽ phát triển ra cao rộng, bao la hơn khi tôi đem tình thương lại cho con, cho anh ấy, và đem cái nhìn lân mẫn trao đến kẻ thứ ba. Tôi nhắm mắt chìm trong giấc ngủ thoải mái.
Chia tay tôi ở trạm đợi khu A để tôi sang chuyến đi về Florida, anh nói là mình đi về trạm đợi ở khu B nhưng không nói sang chuyến đi về đâu. Trước khi quay lưng anh nhìn vào mắt tôi cười cười, điệu bộ lừng khừng. Tôi biết anh thấy trong đó ánh mắt tươi sáng Mùa Xuân của tôi do anh trao tặng trong chuyến bay vừa rồi.
Cho tới bây giờ tôi vẫn chưa biết tên và cũng không biết anh sống ở đâu, làm gì trên cái xứ Mỹ to lớn nầy.
Biển Trời Lai Láng
Cảm thức về Sàigòn ở trong tôi dù sống nơi đâu. NVS
Gần nửa đời người lăn lóc đó đây trên nhiều khu khác biệt của đất Sài-gòn vậy mà tôi chỉ thấy được hai mặt, hoặc tráng lệ nguy nga đè bẹp con người dưới gông cùm kim tiền vật chất, hoặc bùn lầy nước đọng chết đuối con người bằng những thứ tầm thường nhỏ mọn như miếng ăn chỗ ở. Không có bộ mặt nào khác hơn. Sài-gòn đối với tôi, như vậy trên bản chất giống bất cứ một thành phố nào trên thế giới, không thể tìm thấy tánh cách thuần túy Việt Nam. Tôi một thời lơ là với Sài-gòn cũng vì lẽ đó. Thế nhưng có ai chơi cắc cớ hỏi tính chất Việt của một thành phố là cái gì, nằm trong địa hạt nào của muôn ngàn dáng vẻ biểu hiện từ văn minh đến văn hóa, chắc thế nào tôi cũng ậm ừ cho qua bởi không thể nào vẽ lên, tả được những nét tận tường. Ổ chuột và những căn nhà chông chênh trên mặt sông bùn lầy đen đúa thì hiện diện ở bất cứ thành phố nào của xã hội nghèo nàn, nhất là vùng Ðông Nam Á. Xã hội tân tiến Tây phương ít xóm nghèo, ít hang cùng ngõ hẻm hơn, ít nhưng không phải là không. Nhà lầu cao với những kiến trúc tân kỳ càng ngạo nghễ, đẹp mắt càng không thể tượng trưng cho Việt chất. Chộp nắm được phần nào dễ thương, là lạ trong kiến trúc, trong lối ăn nếp ở, trong cách xử thế tiếp vật, trong một nghề nghiệp đặc biệt, tôi, lòng lúc đó đương lạnh tanh, nôn nao sung sướng như hồi nhỏ được về quê thấy lại cái lò gạch cũ, nghe được mùi thơm từ khu vườn mía Tây của người láng giềng, ngó mãn nhãn những miếng ruộng lớn đại nối tiếp nhau chạy tới mút chân trời, hay thấy con sông hiền hòa thỉnh thoảng có vài chiếc ghe lồng trôi chầm chậm...
Ðiều dễ thương đối với tôi cũng bình thường thôi. Thường là những căn nhà ở vùng Bà Chiểu, Thủ Ðức, ba gian hai chái, vách bổ kho, mái ngói âm dương, cột danh mộc tròn lên nước bóng lưỡng dựng chững chạc trên từng tảng đá xanh vuông vức, trong nhà đối liễn vẫn còn treo trên những vị trí trang trọng. Hay một cái bàn 'ông thiên' giữa trời thường thấy ở vùng Giồng Ông Tố với hình ảnh người chủ gia đình, lúc vừa chụp tối, bận áo bà ba hai tay chấp nắm nhang xá xá bốn phương trời. Hoặc một cái gáo dừa gắn cán dài úp trên lu nước dựng ngoài mái hiên bắt gặp thường xuyên từ khoảng Cầu Hàn đổ ra đến nửa đường đi Nhà Bè hay từ phía Phú Lâm đổ lên Gò Ðen. Có những hình ảnh nhỏ hơn và tầm thường hơn như tiếng võng đưa kẽo-kẹt vào lúc giữa trưa trời đứng gió. Võng phải treo phía trên một cái giường tre khập khễnh mới đúng điệu, hòa hợp vời cảnh trí xa xa là một bụi tre mà ngọn và tất cả lá đều đương đứng im lìm trầm ngâm ngó trời như thường thấy ở xóm Cầu Tre trước đây thì càng tốt.
Nhưng tôi chưa đủ thời giờ để nhìn cho thỏa mắt, chưa đủ lớn để chíp vô ký ức cất làm kỷ niệm riêng cho đời mình thì các cảnh trí trên phần nhiều đã bị sóng thời gian tàn nhẫn phủ lấp chìm hay bóp cho biến dạng theo sự đổi thay tất nhiên của xã hội. Chúng mất hút đi mau chóng, tới khi tôi kịp rãnh rỗi ngó lại thì còn chẳng thấy được bao nhiêu.
À, hình như là Sài-gòn phát triển theo tốc độ phi mã của thời đại tân tiến nên tiêu diệt mất những vết tích nhà quê nghèo nàn nhưng dễ thương của một sinh hoạt tiền đô thị mà trước đây tôi tưởng lầm là nét chấm phá nào đó của Việt tính. Nhưng không sao, tôi biết được bịnh mình. Mình thèm, mình thiếu trong máu huyết một mảnh trời quê và đương đòi Sài-gòn cung cấp cho một chút quê mùa đó. Ðô thị vây hãm tầm mắt bằng nhà cao, hãng xưởng và xe bụi, Sài-gòn giới hạn tâm hồn người bằng chuyện thành phố lẩm cẩm tình -tiền -thù không có gì đặc trưng, tôi cảm thấy thiếu một khung trời khoáng đãng, thèm một chút hoàn cảnh thuận tiện để buông thả tâm hồn, tôi thiếu tình người ở trạng thái sơ tâm...
Trong tâm thái hoài cổ nao nao của nỗi thèm khát đó tôi được nghe chuyện hai vợ chồng chú Hai Một nhưng quan, khóc đám.
Như bao nhiêu lần trước, Chú Hai Một khi vô tới hàng ba, dợm cẳng bước lên ngạch cửa, thì quay về phía sau rầy dức vợ sao chậm lục còn hơn bà già đi âm phủ rồi xăn xáy bước ào vô nhà như con trốt, bỏ mặc kệ thím Hai còn đủng đỉnh đánh-đồng-xa đâu đó mút tí tè ngoài đầu ngõ.
Nhiều người ngưng chuyện trò len lén ngước lên quan sát người khách mới, cách quan sát có chút tò mò đó, nhưng e dè, xa cách. Nhiều người, cử chỉ bỗng nhiên chậm rãi hơn như đương bận dồn hết giác quan để bí mật theo dõi chuyện gì đó xảy ra chung quanh. Có người còn liếc liếc rồi lại giả bộ cúi xuống hớp ly nước dở dang nãy giờ để lơ là trước mặt. Không một câu hỏi nào được nói lên thành lời, chỉ có những câu hỏi thầm ngầm chứa trong thái độ và cử chỉ. Chú Hai Một tuy vậy cũng đã biết mình phải nói gì nên lên tiếng trước, chú nói trống không nhưng thật ra là nói với toàn thể những người đương có mặt.
'Ðược rồi, để đó tôi lo liệu cho. Bà con mình không chớ ai vô đây', chú hỏi tiếp theo sau khi dòm sơ qua một vòng từ những người ngồi ở cái bàn gần cửa tới một số người trai trẻ ngồi bỏ chưn thòng xuống đất trên bộ ngựa rồi tới những người hơi lạ lạ ngồi tuốt trong gần chỗ cái màn cửa ngăn với nhà trong. 'Mà hồi nào vậy? Hôm kia hôm kìa gì đây tôi còn thấy ảnh đi băng-xiên băng-nai, té lên té xuống trước nhà tôi, quần ống cao ống thấp, lè nhè, con nít chạy theo coi rùm trời. Gì mà mau vậy?'
Ba bốn tiếng giọng thanh niên, mau mắn tranh nhau nói với khách. 'Chị Sáu thấy xác ảnh nằm vắt vẻo nửa trên nửa dưới ở cái mương cá đằng nhà thằng cha Ba Khìa hồi tưng bửng sáng....'
'Chắc đâu hồi khuya....'
'Trúng gió, té nước...'
Tiếng xì xào bàn góp thêm chi tiết như một thứ bịnh truyền nhiễm chuyền từ nhóm nầy sang nhóm kia, phá tan bầu không khí lạnh nhạt e dè từ khi chú Hai Một bước vô. Một tay tổ nào đó, ý chừng là bạn nhậu thân tình với nạn nhân, chêm vô một câu diễu vô duyên ớn. 'Chắc đâu cũng đốn hết mấy lít rồi nên nóng nảy trong mình, về khuya gặp nước, tắm mát rồi khoái chí tử nằm ì ra đó không chịu lên.'
Những cặp mắt bây giờ đổ dồn về phía tay anh chị ăn nói bạt mạng đó. Trách móc, khinh thị, bất bình. Biết mình nói hớ, anh ta cười cầu tài, sửa. 'Ậy…. mà sinh ký tử quy. Chết trẻ khoẻ ma, chết già lụm khụm. Anh Sáu thọ như vậy là được rồi, năm mốt bước qua năm ba bước lợi đâu có bao nhiêu người qua khỏi cái cầu nầy. Ậy… mà đời bây giờ còn sống là còn khổ. Chính tôi đây nè, nhiều khi khổ quá mạng, cầu trời chết cho rảnh nợ mà không được.'
'Con vợ thằng Sáu nóng ruột chồng đi cả đêm không về nên trời vừa hừng hừng sáng là lo xách đèn đi kiếm, ai dè sự thể như vầy...' một tiếng đàn bà nhỏ nhẹ, nói với mọi người mà như nói với mình. 'Í hị!' Tiếng thở dài thương hại thay cho cái chấm câu.
Chú Hai Một quay qua cúi đầu chào người đàn bà, bà vừa nói tiếp vừa gật đầu chào lại, giọng nho nhỏ pha một chút mủi lòng.
'Tội nghiệp, cái thằng say sưa vậy mà cũng biết lo tưởng tới vợ con, trên bờ mương còn hai xâu thịt heo quay với một mớ bánh bò trắng nằm lăn lóc. Tao tiếc quá lượm đem về bỏ trong gạt-măng-giê... Cái số con vợ nó không được ăn heo quay, chồng đem về chưa tới ngõ đã lăn đùng ra theo ông theo bà.'
'Tuần rồi ảnh với tôi còn leo lên nóc nhà lợp lại cái mái lá dột phía trước hết một buổi trời,' người đàn ông hồi nãy cũng cái mửng cũ vừa nói vừa khoe. 'Thiệt anh Sáu khỏe còn hơn tiên, hồi nào tới giờ ở nhà quê mà sống theo kiểu dân cậu, đâu cần động tới móng tay.....' Anh ta đổi giọng vui vui. 'Chắc biết mình sắp đi nên bữa đó mới chịu khó trả nghĩa vợ lần chót.'
Nhiều tiếng cười tán thưởng ở phía đám thanh niên hòa chung với vài cái hứ bất bình từ đám đàn bà.
Chú Hai Một bây giờ mới quay về phía người đàn ông nọ. Chú biết là ai nhưng cũng không thèm để ý tới chuyện chào hỏi, cũng không thèm cười góp mà chỉ hất hàm một cách trống không về phía buồng.
'Ờ, ở trong đó đó,' Bà già vừa nói hồi nãy hiểu ý trả lời hớt mọi người. 'Tội nghiệp, sớm tới giờ hai mẹ con nó xà quần trong đó. Bây giờ chắc là đương lo thay quần áo cho ‘thẳng’. Bùn đất không... Hồi mới đem về.... ướt mèm ướt mẹp nên tụi nó xót ruột. Nhà không có đàn ông con trai để lo mấy chuyện đó nên tụi nó phải làm. Ðâu thằng Hai mầy vô coi coi, liệu giúp đỡ gì được mẹ con nó thì giúp.'
Thím Hai Một tới bây giờ mới vô tới hàng ba. Khác với chồng, thím thủng thẳng bước nhích nhích từng bước một, đầu cúi xuống, hai đầu khăn rằn hết đầu nầy đưa lên chùi nước mắt tới đầu kia đưa lên chùi nước miếng nước mũi. Người trong nhà chưa ai thấy mặt mày thím nhưng tiếng khóc xụt xùi hòa với tiếng hít khịt mũi đã nghe rõ ràng, nức nở đứt ruột đứt gan, lâm li như tiếng khóc dễ mủi lòng của bà con ruột thịt khi mất người thân thương.
Không mấy ai ngạc nhiên trước cảnh nầy. Chuyện thím khéo dư nước mắt khóc người 'thân sơ' dân làng Bình An đâu ai lạ lùng gì. Nghề nghiệp. Nghề nghiệp ít người theo như vợ chồng thím. Hai ông bà đã từ bao lâu nay trở thành một cặp bài trùng không thể thiếu trong mấy đám ma chẳng những quanh quẩn trong mấy cái cù lao giữa kinh Ruột Ngựa và kinh Tàu Hủ mà nhiều khi còn có người rước lên tới Chợ Ðệm, Bình Ðiền, Gò Ðen nữa. Một vài người khách ngạc nhiên quan sát, sao trên đời lại có người lạ lùng như vậy cà, mau nước mắt đã đành lại còn không biết mắc cở khi làm chuyện trên đời chỉ có một mình mình. Thím Hai Một khóc ngọt ngào, bất tận. Nước mắt như mưa tuông trào đầy mặt. Não can tràng hơn tiếng than của đào thương trong gánh hát. Khóc đã đời thím cất giọng kể lể. 'Sáu ơi là Sáu, chú bỏ vợ yếu con thơ chú vội vàng đi đâu. Bao nhiêu người thương chú trên đời sao không ở lại. Âm phủ dương gian hai đàng cách trở, từ nay vợ con chú biết trông cậy vô ai? Sáu ơi là Sáu ơi. Ngày trước chú giúp người cô quả, chú thân thiện xóm làng, đầu trên chợ dưới, người dưng họ hàng, ai có chuyện gì chú không nề hà giúp đỡ. Sao người như chú mà trời bắt đi cho nỡ, còn những kẻ lỗi đạo vô nghì lại sống chật trời chật đất, tốn gạo tốn cơm... Sáu ơi là Sáu ơi.'
Chú Hai Một quay mặt ra cửa, ngó mau về phía vợ, nhăn mày tỏ ý không bằng lòng -- quá lố rồi đó, quá trong nước mắt thì còn chấp nhận được, quá trong lời than thì chạm tới biết bao nhiêu người, ăn của chủ nhà bao nhiêu mà đưa lưng mang tiếng oán. Tuy nghĩ bụng như vậy nhưng chú không nói gì, chỉ vén màn bước thẳng vô phòng trong.
Bóng tối âm u của ngọn đèn dầu phọng tim se bằng một miếng vải trắng bỏ trong cái dĩa dầu để dưới gầm giường và cây đèn cầy nhỏ đặt phía dưới chưn người chết chập chờn leo lét, không giúp cho đôi mắt quen với ánh sáng của chú Hai thấy gì hơn là một cụm tối dầy đặc, khổng lồ. Chú đứng định thần một hồi hèn lâu mới quen mắt lần. Con nhỏ Huê đương quay lưng về phía chú, mặt quay vô vách, đương giơ cao lên xăm xoi một cách dềnh dàng bộ đồ bà ba hàng màu hột gà của ba nó đâu như là mới vừa được lấy từ trong tủ ra, còn đầy những lằn xếp. Chị Sáu đương rờ rờ nắn nắn hai cánh tay co rút của người chết mà mấy ngón tay cong lại như đương thủ thế để cào cấu ai. Gương mặt chị thểu não pha lẫn nét chán chường. Chị biết bổn phận mình phải làm gì nhưng không biết bắt đầu từ đâu và bằng cách nào. Trong lòng chị đương có một sự tương tranh dữ dội giữa hai mặt sợ-thương. Thấy ánh sáng và đã đoán được ai bước vô, chị ngước mắt lên chờ đợi một mệnh lịnh, mệnh lịnh dưới hình thức đề nghị thiệt bình thường nhưng giúp chị ra khỏi cảnh bối rối hiện tại không biết mình phải làm gì mới đúng cách và trọn đạo.
'Chị Sáu với con Huê 'quá bộ' ra ngoài nhà tiếp khách đi,' chú Hai Một nói như ra lịnh, nói lựa chữ văn hoa một cách ăn trét. 'Bà con lối xóm nghe tin hồi nào không biết mà đã kéo tới chia buồn coi bộ hơi bộn rồi đó. Ðầy nhà! Mà tôi thấy có ai ở ngoài đó lo trầu cau nước nôi gì cho khách đâu,' Chú ngừng một chút ngó vô con Huê bây giờ mới day mặt lại phía ánh sáng. 'Với lại ba cái chuyện nầy nên để tôi. Nghề nghiệp ai người nấy làm. Chuyện nầy đâu phải ai cũng mó tay mó chưn vô được.' Một lần nữa chú ngó về phía con Huê. 'Ðàn bà con gái gần hơi người mới đi không nên đâu. Ðộc lắm. Về sau bị bịnh hậu khó lòng.' Mặt con Huê, nãy giờ nước mắt đã lăn rơi, buồn lâm ly, đổi sắc liền, mừng thấy rõ, nó bỏ bộ quần áo xuống rồi đi vòng về phía đầu giường của ba nó, sẵn sàng bước ra. Chị Sáu trái lại chỉ hơi khựng lại một chút khi nghe nhắc tới mấy tiếng không nên nhưng rồi cũng tiếp tục cố gắng tuột tay áo của chồng ra. Cái áo đã được mở nút cẩn thận, phơi màu da ngực xám ngắt của xác chết dưới ánh đèn. Cánh tay cứng đơ, cà huynh cà hoang, tay áo dính một lớp bùn mỏng thêm phần trở ngại. Chị bậm môi hè hụi giựt mạnh nhưng cũng không ích lợi gì, chỉ làm rớt lộp độp lớp bùn khô xuống giường như bánh tráng nướng bể. Bộ mặt người chết nhăn nhăn với cặp môi đã bắt đầu rút, lòi răng ra cười ngạo cảnh tượng. Cánh tay thây ma cứng cong, trì lại phản đối không cho thay bộ quần áo cuối cùng trong đời mình. Chú đánh thêm một đòn tâm lý trong khi thong thả cho tay vô túi trong lục kiến gói thuốc Job đỏ lận theo từ đằng nhà.
'Chết bất đắc kỳ tử linh lắm. Ngày giờ trùng thì chuyện gì cũng có thể xảy ra. Tránh trước thì hơn. Trùng tang liên táng xui mấy đời chớ không ít đâu. Chị với con Huê làm ơn dang ra cho tôi.'
Chú ngừng nói, đứng yên, điếu thuốc đã an vị trên môi, tay mặt cầm sẵn diêm quẹt nhưng chưa quẹt lửa, cố ý đợi hai người phụ nữ bước ra. Thân nhân nào cũng sẽ khó chịu khi thấy xác của người thân bị kéo nắn mạnh tay, mười người như một, ai cũng năn nỉ nầy nọ, xin xỏ vầy khác. Khó lòng. Chú thấy công việc mình làm phải mang tính cách thiêng liêng, bí mật, càng ít người biết mình làm gì với cái xác chết càng tốt. Chú đưa tay rờ rờ cái mặt lạnh tanh của thây ma, rồi bằng một cử chỉ thiệt nghề nghiệp chú đưa hai ngón tay cái-trỏ ra kéo kéo hai môi người chết lại cho khít khao hơn như ngầm nói tôi đã sẵn sàng rồi, mời bà con nhường chỗ cho tôi. Tay chú đụng vô chỗ lạnh hơn mình tưởng, chú chửi thầm trong bụng cái thằng nhậu nhẹt chết bờ chết buội, ngâm nước cả đêm để cho cái mặt lạnh còn hơn đá cẩm thạch ướp nước đá. Chú đưa mắt ngó con Huê rồi đão qua má nó. Thường thường mời thân nhân của người quá cố ra khỏi buồng chú chỉ cần xài tới mấy tiếng không nên đã là quá đủ, họa hoằn lắm mới phải xài tới mấy điều dọa dẫm về chuyện bệnh hậu, trùng tang liên táng mà chú học lóm, khi đi đám đó đây, từ mấy bô lão biết chút ít bói toán thuốc men.
Người đàn bà bỏ cánh tay chồng xuống với một tiếng thở thiệt dài như là bà nín hơi từ lâu lắm bây giờ mới được phép thở. Cách bỏ xuống cũng nhẹ nhàng, ẩn chứa trong đó cả một trời thương yêu. Nhè nhẹ, chầm chậm bước lần về phía cữa. Khoảng cách chỉ vài bước mà như xa thăm thẳm, vừa bước đi vừa ngó ngoái lại như không muốn mất những phút giây chót với chồng. Ra khỏi đây rồi, lúc trở vô người chồng đầu ấp tay gối -- người mới hôm qua còn gây gổ với chị -- một sự gây gổ nhẹ nhàng càm ràm, quen thuộc trong bao nhiêu năm trời, khiến chị cảm thấy mình hiện diện và là một thứ gì khác với những đồ vật vô tri trong nhà -- bấy giờ sẽ thật sự trở thành một cái xác chết đúng nghĩa, hoàn toàn là một cái thây ma lạnh lẽo chờ tới giờ để được bỏ vô hòm đem chôn. Hư vô, mất tuyệt từ đấy. Xa cách đời đời, thật sự, tuyệt đối từ đây. Một xa cách mặc dầu không hình dung được, mới chỉ lắp ló trước mặt đã cắt đứt ruột gan, khiến chị chưa gì đã thấy mình bơ vơ, nhỏ nhoi lạc lõng hơn. Chị bật khóc thành tiếng, nấc nghẹn, mặc dầu đã cố dằn xuống ngay từ hồi thấy xác chồng nằm úp mặt nửa trên nửa dưới ở bờ mương -- sợ nước mắt nhểu xuống mặt ổng ổng khó đi đầu thai. Chị bỗng nhiên thấy tức mình tại sao bữa hổm ổng đòi uống thêm xị nữa chị tiếc tiền và sợ ổng bịnh không cho con đi mua lại còn biểu nó dấu cái chai đi. Phải dè sớm như vậy ổng muốn uống mấy ghe tàu cũng bán nhà mua cho ổng không tiếc tiền. Chị cũng tức mình là tại sao mấy năm trước nghe phong thanh ổng mèo mỡ chị đã làm quá mạng, cằn nhằn cưỡi nhưỡi, cắn xé. Phải dè... Phải dè... Chị kêu tên chồng, cách thân mến rất ít khi sử dụng từ ngày có đứa con đầu tiên. Con Huê áy náy nắm cánh tay mẹ, chỗ con chuột, mà nó có cảm giác là đầy xương, dẫn ra cửa. Mắt ngập nước, nó cũng ngó ngoái lại lần chót ba nó, vẫn còn nằm trong một vị thế lạ lùng, một cẳng co vô bụng, một cẳng thẳng ra luôn cả bàn chưn, như người đương kiếm cách leo lên khỏi mương nước, hai bàn tay quắp cứng ngắc hai nắm bùn bây giờ đã khô, mấy chỗ tứ chi ló ra khỏi quần áo bao trùm một màu xanh xám đen đen lạnh lẽo khiến nó bắt rùng mình. Chị vợ ngó lại lần nữa thi thể người chồng, gật đầu chào chú Hai Một, rồi như len lén giở màn bước ra. Những giọt nước mắt được kềm giữ quá lâu thong thả bò trên gương mặt chị, nhểu xuống ngực áo khi chị bắt gặp những ánh mắt thân tình chia xẻ niềm đau xót của bà con lối xóm bây giờ tới đã tới ngồi đứng chật nhà.
Chú Hai Một nao nao theo dõi hai mẹ con lúp xúp đi trong tiếng thút thít, ánh mắt chú đậu lại trên cái lưng đầy sức sống và bộ hậu láng o của đứa con gái -- được ôm bằng cái áo bà ba bó sát và cái quần vải đen dầy ủi thẳng thớm. Chú nheo mắt với mình và cười cười...
Ngoài kia chú nghe rõ tiếng chào của chị Sáu với bà vợ mình. Tiếng khóc của bà ta nín bặt ngang xương. Chú nghe loáng thoáng câu trả lời của vợ: '... Ừ... Kể từ trưa mai cho tới giờ hạ huyệt tôi sẽ ở đây... Ừ.. tiền bạc gì. Ðừng có lo chạy cho mất công. Bà con mình không, ai cũng nghèo chứ đâu có dư dả gì.. Nói nào ngay, tôi cũng đâu giàu có gì hơn với mớ đó'. Tiếng khóc lại nổi lên, bi thương thập bội hơn giọng tỉ tê nhè nhè của vợ người quá cố. Dòm qua chỗ hở do tấm màn bị vướng, chú Hai Một thấy vợ mình đầu bù tóc rối dụi dụi mắt khóc kể như chết cha chết mẹ. Bà ta nhảy từ nhân vật nầy qua nhân vật kia. Ban đầu là bà mẹ vợ. '.... Sáu ơi là Sáu ơi, nhà nầy một mình mầy lo từ trong ra ngoài. Vợ con mầy giờ đây làm sao đủ sức chống chỏi với đời. Ði đâu thấy món ngon vật lạ mầy cũng mua về cho tao, bây giờ mỗi khi thấy quán thấy hàng làm sao tao không khóc được, Sáu ơi là Sáu ơi.' Rồi tới vợ, tới con gái, mỗi người thím đều sáng tác giùm một bài văn tế bình dân nôm na như vậy, kể công đức người chết, vài phần thiệt, vài phần phóng đại những hành trạng mà nếu nghe được chắc người chết cũng phải hổ ngươi. Chỉ có một điều là giọng kể lể của thím lâm ly quá, nước mắt của thím sụt sùi quá khiến người nghe không còn đủ bình tỉnh tâm trí để phân biệt đâu thiệt đâu ngoa. Một cảm giác xấu hổ mà chú thường có khi vợ khóc đám người quen như kiểu thằng cha Sáu Say nầy len lỏi vô tim chú. Chú ngờ- ngợ như vợ mình làm điều gì sái quấy, quá đáng, hơn sự phải có của điều bình thường, hơn sự bắt buộc của nghề nghiệp. Vừa lúc đó con Huê quay lại, đưa tay kéo cái chéo tấm vải màn xuống cho kín cửa buồng. Chú dòm lom lom bàn tay tròn trịa của con nhỏ cho tới khi ánh sáng trong phòng trở thành lù mù. Chú đốt điếu thuốc, dựa vách ngó xác chết, thong thả hít từng ngụm khói say sưa. Mỗi khi trong người có chuyện buồn vui lẫn lộn, những hơi đầu tiên của điếu thuốc vẫn là một thứ thần dược giúp chú tỉnh táo trở về thực tại với một tinh thần sáng suốt vô biên. Chú vạch màn dòm ra ngoài nhà trên như là tìm kiếm ai, ánh mắt chú đậu lại phía có con Huê đương đứng. Nghĩ sao không biết chú bước hẳn ra ngoài tới một bàn, cầm lấy chai rượu đế rót đầy một ly lớn, mỉm cười chào mấy người ngồi ở bàn đó rồi quày quả bước vô. Chú cẩn thận bỏ màn xuống, kéo mí lại như ngại ánh sáng bên ngoài có thể chui vô phòng. Tới bên xác chết, chú thiệt sự bắt tay vô công việc: phun phun, bóp bóp sửa nắn lại cho vào vị thế bình thường bộ tứ chi trước đây đã cứng đơ cứng còng. Chú cắt rách tay áo và ống quần của xác chết bằng cái kéo nhỏ, vật liệu độc nhứt chú mang theo mình như một thứ dụng cụ nghề nghiệp. Chẳng bao lâu cái công việc mà người vợ nạn nhân loay quay hàng giờ không thực hiện được đã được chú hoàn thành mỹ mãn. Anh Sáu Say bây giờ đã thiệt sự ngủ say trong một tư thế thoải mái, thanh thản. Chú Hai Một bước lùi một bước, ngắm nghía công trình mình, chú mỉm cười hài lòng và tự thưởng bằng chút cặn rượu còn sót lại trong ly...
Tôi náo nức thiệt tình! Tôi sẽ gặp được cặp vợ chồng truyền nhân chánh của một nghề đang sắp biến mất trong một xã hội trên đà chuyển mình Âu hóa như cái thành phố Sài-gòn nầy. Ðường có xa, có lạ cũng chỉ là dịp để mở rộng nhãn quan thôi... Chúng tôi đi qua cầu chữ U ở bến Thuyền Buồm (Quai des Jonques), một cái cầu tuy lót cây nhưng cao chưa từng thấy. Chiếc mô-bi-lết già chạy tới đâu đà cây lót cầu rung rinh nhúc nhích la hét ầm ầm tới đó, những chiếc bù lon sắt khổng lồ đưa lên như hàm răng con quái vật cầu sẵn sàng cắn vô vỏ bánh xe. Cây ván trơn chao đảo tay lái, tôi phải kềm thật vững.
Ðã hết đâu. Lại còn qua một cái cầu chữ U khác y hịt như vậy ở ngay trước chợ Bình Ðông. Sao vùng nầy lạ lùng vậy, cầu cao không tráng xi-măng hay trãi nhựa, chỉ lót bằng cây mà lại lót xuôi theo đường xe cộ chạy?
Người dẫn đường như đoán được ý tôi, giải thích ba hoa. 'Vùng nầy không có thế để làm dốc nên cầu phải xây hình chữ U, cũng không thể xây bằng vật liệu nặng vì bờ kinh hẹp, đất hai bên lại mềm, không có chỗ đúc móng chưn cầu. Phải xây cao cho ghe chài qua lại bỏ lúa vô chành hay lấy lúa từ trong chành ra chở đi Lục tỉnh, lên Nam Vang... Ngày trước ghe chài ra vô khúc kinh nầy liền liền, bây giờ có thêm kho chứa ở Bến Tàu nên ít đi đó chớ.
Tuy không biết rõ ràng danh từ chành là gì nhưng tôi cũng mường tượng đoán được đó là một thứ kho chứa trữ nên mần thinh không hỏi như mọi khi. Cảnh tượng quê nhiều hơn tỉnh của vùng nầy trở thành một thứ loại ven biên đô thị mới ngó qua đã bắt mắt nên tôi cũng làm biếng nghe thêm. Cái thằng cha nầy có khả năng nói chuyện nầy qua chuyện kia lòng vòng ba bốn ngày không hết, đừng nên khươi cho nó nói không nhằm lúc.
'Gần tới chưa?' Tôi hỏi cũng là cách dẫn anh ta vô chuyện chánh. 'Sao chưa thấy cái đình anh nói?'
'Ði đò qua bên bờ kia. Ðó là làng Bình An, đình Bình An cách bến đò chừng một cây số ngàn,' hắn trả lời rành rọt. 'qua đò rồi lội một đổi nữa thì tới nhà họ. Không xa đâu.'
Lại còn thêm chuyện đò! Ánh mặt trời chói chang trên đỉnh đầu. Coi bộ hơi trưa. Sài-gòn lẩm rẩm mà rộng thinh thang, đi nửa ngày từ trung tâm chưa ra tới ven biên.
Con đò ngang đưa khách qua bên đình do một cô gái trắng trẻo độ mười sáu mười bảy tuổi thong thả đẩy đưa mái chèo. Những nhịp đẩy-kéo căng lên căng xuống bộ ngực tròn mạnh thiếu nữ. Nàng thành thạo, không tỏ vẻ gì tốn sức tốn công. Tôi chợt nhớ tới chuyện thơ nàng Tiên Bửu xinh đẹp, thông minh chèo đò. Chỉ tiếc mình không có bộ râu dài phất phơ và tài đối đáp như ông Trượng.
Cảnh vật hai bên bờ kinh hiền hòa. Nhà cửa khang trang của một vùng quê trù phú. Mạ non xanh mởn. Sóng lụa rung rinh trên đầu lúa. Gió mát thơm mùi hạt lúa còn đương ngậm sữa. Vài căn nhà lá ẩn hiện sau những tàn cây mít, vú sữa xum xuê. Nét thanh bình có thể cảm thấy vương vương lãng đãng cùng khắp không khí. Trong khung cảnh như vậy mà gặp được một cái đám ma để quan sát luôn tài nghệ của vợ chồng Hai Một 'ra đám', 'khóc đám' thì còn gì thích thú bằng. Một công hai ba việc. Khỏi phải đi về chờ đợi lôi thôi.
Tôi mừng rỡ khi nghe tiếng kèn đám ma văng vẳng từ xa xa khuất đâu trong xóm. Trúng mối rồi. Mấy thuở trời chìu lòng người, cầu được ước thấy.
Vậy mà tôi không được chứng kiến gì hết những điều cần chứng kiến, mặc dầu kèn đám ma đương ò-e ngay tại nhà ông Hai Một. Tôi không gặp một ông 'nhưng quan' tài nghệ đặc biệt, điều khiển mọi chuyện liên quan đến động quan, di quan bằng nhạc của hai khúc tre. Tôi không gặp một người đàn bà bán nước mắt, khóc mướn trong mấy đám ma, ré lên từng hồi cắt dạ rồi xuống giọng tỉ tê bi thảm đau thương, kéo dài ngày nầy qua ngày khác từ lúc tẩn liệm cho tới khi hạ huyệt. Những hình ảnh lạ lùng tôi có trong trí vẽ ra do người dẫn đường khi giới thiệu về cặp kỳ nhân nầy không thấy đâu nữa. Còn lại chăng là một cặp vợ chồng già héo úa từ sâu thẳm trong lòng héo ra, một thứ cây chết rũ, một loại người bị chấn thương do Tây tà tra tấn bằng bàn tay sắt bọc vải, bầm nát ngũ phủ lục tạng tuy bên ngoài vẫn còn chút nào đó dáng vẻ bình thường.
Người đàn ông ngồi đó, mặt co rúm nhăn nheo của một thứ trái chín héo vì quá nắng, mắt ơ hờ ngó ra con đường đất đỏ bụi mù trước mặt, bất động tới cả từng thớ thịt mặt. Tôi biết chắc chắn cái hàng rào bông bụp đầy bông nở đỏ thắm ngoài kia, cái hàng rào đặc biệt được đóng cột bằng mấy cây so đũa trái lòng thòng và sợi dây kẽm giăng kế đó, nơi con gái ông phơi quần áo hằng ngày, không lọt vào trong giác trường của ông. Kể cả những người học trò đạo tỳ mặc quần áo đen viền trắng lăn xăn lít xít vì chuyện của thầy cũng vậy thôi, không có. Thời gian và hoạt cảnh trên cõi đời nầy hình như đối với ông không còn nữa. Dàn đờn trổi ò-e ngưng trổi không biết bao nhiêu chập, tôi để ý nhưng không thấy vợ chồng ông Hai Một nhúc nhích cục kịt gì, ngay cả khi một người đệ tử tới trước mặt ông cung kính xin phép cho mình được thay ông điều khiển cuộc 'di quan', ông cũng không trả lời hay hạ cái màn vô hồn trước ánh mắt mình xuống, mặc cho đám đệ tử và ông Hòa Thượng già điều khiển việc khiêng cái hàng ra khỏi khung cửa chật hẹp của căn nhà. Hai chung rượu để trên nắp hàng sóng sánh rồi tràn ra vài giọt do sự điều khiển không thành thạo của người đệ tử trẻ ông cũng không thấy, không biết. Hồn ông đương ở trong một cảnh giới ta-bà nào đó xa xăm, chỉ cái thân xác ngủ uẫn hiện diện mà thôi.
Ðám ma ra tới đầu ngõ, ông Hai Một mới choàng tỉnh khỏi cơn mộng du, đứng dậy bước chậm rãi theo vài ba người đi chót sau khi đã ngó bà vợ và lắc đầu trong tiếng thở dài. Người đàn bà ngồi trên cái ghế dựa, mắt vô hồn ngó tôi khi tôi tới kế bên nói mấy lời chia buồn cho phải phép. Không có một giọt nước mắt nào trên khóe mắt của người đàn bà suối lệ dễ tuông này. Không có cả một hít, khịt mũi nhỏ nhoi. Không có cả chuyện đỏ hoe hai mắt hay tiếng kể lể phân bua. Vậy đó. Một sự im lặng tuyệt đối của môi trường chân không. Vô lý tới khó tin.
Tôi ngó lại lần nữa tấm hình người quá cố. Cô gái có nụ cười thật buồn nhưng vẻ trẻ trung làm nao nao lòng người. Ðôi mắt sâu thăm thẳm của cô khiến ai nấy dòm qua một lần cũng phải ngó lại một lần nữa. Cái đẹp man dại và lôi cuốn. Cái đẹp của một cánh đồng đầy hoa thắm bên triền núi rộng cao. Có thể hình ảnh cô gái trẻ mới chết có sức mạnh tạo xúc động cho người sống --và một chút bằng lòng vì sự bất hạnh giáng xuống người khác chớ không phải mình -- khiến phải ngó thêm. Tôi thấy trí mình coi bộ cải lương khi bỗng nhớ tới câu thơ có mấy chữ 'hồng nhan bạc mệnh.'
'Vợ chồng họ làm nghề thất đức nên bây giờ như vậy đó,' người dẫn đường kéo tôi về thực tế khi anh bấm tay tôi nói nhỏ. 'Cha tẩn liệm, di quan người khác lôi thôi, nên Trời khiến tới phiên con mình thì sững sờ muốn tự tay săn sóc cũng không làm được. Tụi học trò đạo tỳ nó làm đâu có đúng lễ. Hồn ma trước đây họ về trả thù đó. Biết bao nhiêu lần ổng bẻ tay bẻ chưn thiên hạ mạnh tay hay làm ẩu xị cho qua. Biết bao nhiêu lần ổng thay áo thay quần hay tẩn liệm dụt chạc, nhứt là người nghèo... Ðể rồi coi, hồn cô ta còn lẩn quất nhiều ngày trên trần thế chưa xuống dưới đó liền được đâu. Thiếu lễ đi đâu có xuôi chèo mát mái. Nhiều khi nó về nó phá nữa là khác.'
Không đồng ý với nhận xét nầy, nhưng tôi không cãi. Con người ta sinh ra vốn là mục tiêu cho những tấn kích cách nầy cách nọ của tất cả ai khác trên đời, huống gì chú Hai Một làm một nghề thiên hạ chỉ thấy sợ hải và xa cách.
Không muốn khơi mào một cuộc đấu khẩu vô ích, tôi chỉ qua thím Hai Một, chưa kịp nói gì thì người dẫn đường đã lên tiếng, lần này pha một chút giọng thầy đời.
'Thói thường thương vay khóc mướn tới khi cần khóc cho mình thì hết nước mắt.'
Phải, điều gì xài quá thì mau hết, cái lý đó cũng đâu có gì là khó hiểu. Nói một cách trừu tượng, cái tình thương bà ta xài cho thiên hạ trong bao nhiêu năm trường 'khóc đám' khiến cho bà ta cạn tuyệt tình thương đối với con gái mình. Suối lệ cạn nguồn người ta thường nói vậy hoài.
Vâng, lý luận này có vẻ hữu lý nếu -- và nếu, và nếu -- tình thương là một dạng của vật chất cụ thể. Con người ta thường tỏ ra mình thông thái, mình phải, mình hay như cái anh chàng nói nhiều nầy. Mấy ai biết được và thông cảm được với vợ chồng ông nhưng quan Hai Một. Tình thương con biển trời lai láng của họ khiến tất cả những biểu lộ bình thường khác đã trở thành vô nghĩa, không phù hợp. Với người sơ tôi đã khóc, và đã khóc mùi mẫn, với con gái cưng của tôi, tôi cũng khóc như vậy hay thôi sao? Tại sao tôi phải giống thiên hạ biểu lộ tình thương bằng nước mắt kia chứ? Có sự khác biệt giữa con gái tôi và người thiên hạ chứ? Nếu khóc đám làm xôm đám chớ không biểu lộ tình yêu thương chân thật thì cái gì mới diễn tả được lòng thương con của tôi đây. Con ơi, con nỡ bỏ cha mẹ già một mình ra đi sao con...
Tôi dòm lại dáng thất thểu của chú Hai Một sau đuôi đoàn người. Bước thấp bước cao, hụt hẫng như một hình nộm được điều khiển vụng về. Tôi ngó lại thím Hai Một, cũng dáng ngồi đó không biết bao lâu rồi, hai tay buông xuôi trên vế, bất động của một pho tượng đất sét, thểu não của một thứ người tuyết đương tan rã từ từ. Thím sẽ ngã xuống. Chắc chắn như vậy.
Tôi bỏ ra về, không dám ngó lại một tấm hình khác ở trên bàn thờ. Cuộc đời người con gái đó bình thường, cái chết cũng có thể rất bình thường nhưng một nhân duyên đặc biệt đã hé mở cho tôi một cánh cửa để nhận thấy rõ ràng về tấm lòng nhỏ nhen, ganh ghét của người đời nói chung và nỗi đau đớn khôn cùng của cặp vợ chồng già mất con trẻ nói riêng.
Trên đường về không khí bỗng nhiên nặng nề u ám ngang. Tôi ngậm câm cho tới lúc chia tay.
Tại sao?
Tôi xúc động vì lòng thương con trời biển bao la đến nỗi mất hồn của cặp vợ chồng nhưng quan - khóc đám Hai Một. Mà cũng có lẽ là do tình cảm trân trọng đối với một cánh rừng đang chứa chấp một loài trân cầm dị điểu kỳ hoa hiếm hoi đang trên đà tuyệt chủng.
Sau nầy lắm lúc ngồi ôm súng ở một vùng đồi núi cao nguyên, đêm về bốn bề tĩnh mịch, giữa cảnh trùng trùng của bóng tối bao la, trí nhớ bình bồng trôi về quá khứ, tôi ngạc nhiên thấy kỷ niệm của mình về Sàigòn không chỉ nằm trong chỗ những sinh hoạt ồn ào tục tằn ở các khu ổ bùn lầy nước đọng từng sống một thời gian dài lúc trẻ, và những nơi có kiến trúc nguy nga tráng lệ có dịp đặt chơn tới sau nầy khi đã thành nhơn, mà còn nằm ở cảnh trí đơn giản của một buổi sáng ven đô nơi ít người biết tới là làng Bình An bên kinh Ruột Ngựa, chỗ căn nhà có hàng rào bông bụp, xen kẻ bằng hàng cây so đũa lòng thòng trái...
Không ai chịu mất thì giờ đào sâu vào chốn tận cùng tâm hồn mình để tìm hiểu những yếu tố cụ thể nào khiến mình yêu đậm đà quê hương xứ sở, thân mến tuyệt cùng với nơi mình lớn lên trong buổi đầu đời.
Mà cần gì tìm hiểu nguyên nhân?
Sàigòn cũng vậy, đối với tôi thân thiết, đáng nhớ, xa trong thực thức nhưng tiềm thức không bao giờ xa. Bao nhiêu đó đã là quá đủ. Một vài chi tiết cụ thể về nơi nầy nơi nọ, người nầy người kia, nói cho cùng, cũng chỉ như một nhúm sao nhỏ nhoi trong vũ trụ bao la của triệu triệu dãy Ngân Hà.
(Port Arthur, Texas, 3- 1992, những ngày dạy học trầm buồn ở quê người. )
Bóng mát cuộc tình
Buổi trưa trời trong vắt, cao thẵm, rọi những cụm sáng chập chờn qua kẽ lá, giao động theo từng hơi thở của không gian. Mấy gốc cao su ốm o, ghẻ lở, tìm chút nắng ấm cuối xuân, cố vươn mình lên khỏi đám cỏ dại, cóc kèn, mắc cở thấp lè tè yên phận. Xa xa những cái mả phẳng đắp vội vàng của người bản xứ nằm chênh vênh ma quái với miếng vải trắng quấn trên đầu tấm mộ bia bằng gỗ lung linh trong gió. Vài chiếc võng nylon đủ màu đong đưa theo nhịp chân đưa của người nằm trên đang ở trạng thái mơ hồ thức ngủ. Mấy cô bé mới lớn tụm năm tụm ba trên tấm carton nhỏ hí gần bìa rừng vui vẻ bàn tán về những câu chuyện vừa mới xảy ra trong trại. Nhộn nhịp và thanh bình. H. đưa mắt theo dõi mấy tàu dừa lả ngọn khuất sau dãy nhà trong xóm. Tháng này qua tháng khác, ăn không ngồi rồi, bị giam lỏng trong khung cảnh buồn nản, với những chuyện chửi bới về tiền nong ồn ào từng bữa một. Vô lý. Như cuộc đổi đời đột ngột. Như mình bây giờ chỉ còn một thân dật dờ trên hải đảo xứ người. Căn bệnh độc quyền yêu nước của những tên già mộng du chỉ chừa một lối thoát nhỏ cho người khác: Hoặc thin thít sợ hãi co rút lại trong chuyện cơm áo, hoặc bỏ nước trốn đi với hy vọng mong manh làm được cái gì đó ích lợi hơn. Rồi hy vọng mỏi mòn theo ngày tháng đợi chờ. Rồi nhiệt huyết lắng dần như chảo mỡ sôi để cách đêm. Thư từ bạn bè bốn phương đồng ca một bản than vãn về sự bất lực trước hoàn cảnh mới. Xứ này cuốn hút thời gian, quái quắc như con bạch tuộc trăm vòi quấn mày lại, tới chừng được nhả ra mày chỉ còn là một ông già hom hem bước lần xuống huyệt mộ qua ngã nursing-home. Lời cảnh cáo của người sắp vô tròng, hay tiếng kêu cứu tuyệt vọng của người trong bẫy sập? Giọng than thở của câu ca dao “cái vòng danh lợi cong cong” hay điệu chán chường của câu sáo ngữ “con nợ, vợ oan gia” ?
H. nhìn lại lòng mình. Gần một năm qua, hằng đêm tự hứa không đi vào bước sai lầm của người trước, sẽ đem kiến thức và quyết tâm chuyển lại cuộc cờ. Phải chăng đó là một hình thái của sự tự dối vì lòng nôn nóng muốn thoát khỏi cảnh đời ăn rỗi? H. xoay mình trăn trở. Cô đơn trong vô dụng là cô đơn bậc hai. Tại tụi nó hết. Đôi mắt xót xa oán trách pha lẫn chút hân hoan của người xưa hiện lên. Lẩn quẩn đâu đây. Đôi mắt ngày đêm xoáy vô tim, bào mòn, thắt chặt, hằn lên những vết thương nhức nhối, ứa máu. Đôi mắt biểu lộ tình cảm mâu thuẫn khó phân tách. Giống như nụ cười thơ thới lúc gặp nhau đầu buổi hẹn hò. Giống như cái nhìn oán trách của con chó nhỏ đang tung tăng bỗng bị vòng dây oan nghiệt tròng vô cổ lôi đi. H. mỉm cười liên tưởng đến một chuyện Tết lúc nhỏ. Thằng H. mặc áo mới chạy ra đường vừa hân hoan vừa tự hào về cái áo trắng có những lằn xọc nhỏ xanh xanh. Và rồi lúc chơi đốt pháo một đứa bạn nghịch ngợm vung tay ném que diêm vào. Nó đã khóc mùi mẫn cho cái áo mới. Trong vòng tay người chị cả, nó đã sung sướng được dỗ dành sẽ có một cái áo khác đẹp hơn. Trạng thái lúc đó vừa thích thú vừa thống trách.
Sự mất mát giờ đây lớn hơn. Nỗi đau đớn trọng đại hơn. Nhỏ H. cũng đã trưởng thành để biết nguyên nhân gần và nguyên nhân căn bản, cũng đã đủ trí phán đoán để biết hy vọng giải quyết vấn đề trở thành một chuyện thiên nan vạn nan. Lòng H. chai lại trong căm hờn. Lớp băng giá trong một lúc nào đó đặc biệt của địa cực đã phủ lên ngọn núi lửa từng bừng sôi bỏng. Dửng dưng trước những sinh hoạt nhố nhăng có tính cách bù gỡ của trại, vắng mặt trong cuộc sống ồn ào vô lý của thời gian đợi chờ.
Em, tại sao anh không hòa mình được với đám đông? Không quên được đôi mắt em mấy phút trước khi anh mím môi, thắt lòng đẩy cái hình hài quá nhiều thân thiết kia vào lòng biển?
Bao năm quấn quýt, bao năm nghĩa tình. Những giọt nước mắt khóc cho nhau khi người kia lao lý hay sương gió tủi nhục cho miếng ăn bị thắt chặt, tức tưởi ...
Tiếng kẽo kẹt nhè nhẹ lãng đãng trong gió phía sau. H. quay lại. Ở đây từ lâu đã có một cái võng khác. Cũng có người muốn tránh đám đông. Bộ quần áo điểm những chấm nhỏ ly ty tim tím mới may ở trại. Một tờ báo Việt Ngữ xuất bản ở Hoa Kỳ trên ngực. Một quyển sách Anh Văn vỡ lòng trên mặt. Bước chân trên cỏ đâu đây đánh thức đôi mắt nai u sầu, nơi khoé còn long lanh ngấn nước. Đôi mắt đẹp buồn hao hao giống người xưa.
“Cô không sợ ma?”
“Tôi chỉ sợ ma sống. Người chết đáng thương hơn đáng sợ”.
Câu nói lạnh lùng nhưng mở lối về những nẻo đường mòn đầy máu của quá khứ.
“Nơi đây dễ sống lại những kỷ niệm về cuộc hải trình. Sống với người chết trước khi sống lại với người sống thú vị như vô tình bắt gặp một ánh trăng xuyên qua kẽ lá.”
“Chắc người yêu của ông đẹp lắm?”
“Cũng có đôi mắt nai như cô vậy.”
Một nụ cười tươi cố tạo, che giấu nét bối rối. H. thoáng thấy trong đó một loé sáng thích thú.
“Tôi chúa ghét bị gán giống người này người nọ. Tôi chỉ muốn tôi là tôi”.
“Đó không phải là sự gán ghép. Đó là một sự thực.”
Th., sao em không còn, để anh khỏi nói dối? Từ một sự hao hao đến cái giống như đã là một bước xa. Lại thêm tâm tình và kỷ niệm. Anh không muốn bắt đầu lại cuộc tình mới. Có những lời chỉ thốt ra được một lần trong đời. Lập lại lần nữa, trở thành xảo trá, trơ trẽn. Người ta chỉ có thể rung động chân thành một lần. Những lần khác sự thần thánh đã không còn phù hợp với ngôn ngữ. Chỉ còn là một cái vỏ mang tính chất gạt gẫm, vị kỷ? … Mà tại sao anh lại làm điều đó? Vì yêu em nên quý trọng cái đã mất, nên cố thay thế bằng cái hao hao hay vì yêu mình nên cố gắng bắt đầu sống lại cuộc đời riêng?
Anh đâu có sự lâng lâng bên cạnh người tình như lúc chân ướt chân ráo ngày xưa vào cổng trường Đại Học. Rồi chỉ là một cuộc hành trình ngược về thời gian. Một sự không sòng phẵng với người sau qua tình cảm đã khắc ấn trong tim với người trước. Như vậy có phải là anh vẫn yêu em?.
Gió hắt hơi nóng vào mặt. Những cây cỏ dại lao xao. Mấy lớp không khí dao động lượn lờ hình phản chiến trong ảo ảnh. Những ngôi mộ xa vẫn nằm đó, yên phận, xè xè dưới gốc cao su điểm tô thêm sự tẻ nhạt cho khung cảnh. Buổi trưa bình thường và có thực như cuộc đời. Cô gái vẫn trong dáng đợi chờ một câu giải thích, hững hờ lật từ trang sách. Mắt thoáng nghi ngờ ...
“Nếu hân hạnh gặp cô trước, tôi đã nói người kia giống cô ... .”
“Nếu vậy tôi đã phiêu lãng nơi khung trời nào rồi. Đâu còn được ở đây hầu chuyện ông.”
Một nụ cười tinh quái và tha thứ tiếp theo câu nói.
Th., em thấy đó. Không ai muốn chết hết. Dầu đến sau trong cuộc tình, dầu khổ sở trong cuộc đời, chính sự có mặt đã là một chiến thắng. Vậy tại sao đời lại không cho em có mặt?
Đôi mắt hao hao giờ đây bắt đầu biến thành đôi mắt Th. trong lòng mình rồi. Mới mấy ngày xa vắng đã nhớ nhung. Không dè hình ảnh Th. lại mạnh như vậy. Nôn nao, bồi hồi chờ đợi một người con gái mới trao đổi vài câu phải chăng là triệu chứng của tình yêu? Mình yêu đôi mắt? Thể hiện lại một cách khác tình yêu với Th.? Khó phân tích. Nhưng ít ra đôi mắt nửa như mãn nguyện nửa như trách trời không còn xoáy tim anh nữa ... Thỉnh thoảng anh bắt gặp em mỉm cười độ lượng như vui với hoàn cảnh mới của anh. Gần một năm ở trại, có lúc nào quên được em đâu? Có yêu ai, giờ đây cũng chỉ là thể hiện cách khác tình yêu đối với em. Một sự đi tìm quá khứ, quá khứ nồng nàn bị đồng loại phũ phàng gạt bỏ ...
Bước chân giao động những ngọn cỏ thấp, một con châu chấu nhảy vụt nhanh ẩn trốn. Trên trời vài cụm mây xanh hững hờ, chậm rãi:
“Sao tới bữa nay cô mới tới? Mấy hôm nay trời lê thê ghê … .”
“Ông biết đó, kỷ niệm nào bị khơi động cũng đau lòng. Nhưng ... .”
Người đàn bà nhìn xuống cái võng dây nylon được quấn gọn cầm trên tay như gián tiếp thú nhận lòng.
“Ai ra đi cũng mang theo quá khứ. Trên biển còn thêm những phút không thể quên. Ai nấy đều bị kỷ niệm ràng buộc quằn nặng tâm hồn, đè xuống bẹp dí không cựa quậy được. Chỉ có hai thái độ cực đoan hoặc sống chết với dĩ vãng, hoặc quên để trực diện cuộc đời. Không có cái lửng lơ, nửa chừng … .”
“Bất cứ bắt đầu nào cũng khơi dậy vết thương ngày cũ. ”
“Thế cô không biết rằng “mình” đang tạo những kỷ niệm mới thêm vào kho tàng cũ, lớp đầu tiên trong nhiều tầng của quá khứ?”
Người con gái hất mái tóc ra phía sau, ranh mãnh:
“Ông quá chủ quan, ông làm tôi hoài nghi chính tình cảm của mình.”
Th., em thấy đó. Giống như lúc mình mới gặp nhau. Em bướng bỉnh, trả miếng anh từng câu nói. Như muốn dùng lá chắn ngôn ngữ để bảo vệ, để chứng tỏ cứng cỏi, trưởng thành. Nhưng em thấy đó. Rồi em ngoan như bất cứ người tình nhỏ nào. Sự cứng cỏi, trưởng thành không nằm ở ngôn ngữ cũng không có ở những lời đối thoại, mà nằm ở hành động. Và em chỉ trưởng thành sau những năm dài chúng mình vẫy vùng trong ngục tù bao la của đất nước. Đã len lỏi trong sự sơ hở của địch để kiếm sống và thực hiện những công tác mà bất cứ một ai có ý thức đều không thể chối từ. Đã cười mũi tụi nó khi chúng chìa ra những cái bánh vẽ anh hùng, tiên tiến, đối tượng ... Đã kịch liệt đấu khẩu với những thằng trâu xanh, bò vàng mỗi khi có dịp. Nhưng chúng mình cũng thấy rằng đấu tranh tiêu cực không hữu hiệu. Em đã đề nghị mình ra đi để hoạt động trong một mô thức rộng lớn hơn. Em biết đó, em đã trưởng thành trong niềm đau đớn vô biên và độc nhất trong lịch sử dân tộc, nhưng em đã đi vào lòng biển để lại đôi mắt em trong lòng anh và một vết thương nhức nhối về sự xuống dốc thê thảm của tình nhân loại. Những con người hiền hòa một sớm một chiều trở về thú tính trước bạc vàng và xác thịt. Những con người khát quyền đến nỗi mang lá chắn mắt ngựa nhưng vẫn tưởng mình ôm được chân lý nên cố gắng thay đổi dòng lịch sử bằng những phạm trù. Anh không tin dị đoan để tự dối bằng câu mười phần chết bảy còn ba, nhưng anh tin tưởng bây giờ em đang hoá thân thành người trước mặt. Bóng mát vườn cao su này trước kia là chỗ anh tìm cô đơn để được tự do tưởng nhớ về em. Giờ đây là chỗ anh nhìn lại đôi mắt sáng ẩn chút u buồn của em. Em đồng ý? Em không ghen?.
Trời về chiều, bóng mát lấn chiếm nhiều hơn. Không khí đem theo một chút muối mặn rin rít của biển cả. Dưới vài gốc cao su mấy cặp trẻ sỗ sàng trửng giỡn. H. nhìn như nhìn vào cõi trống không. Một người con trai đang cố gắng vớt vát một cái hôn vội vàng trước khi buông người tình.
Mắt người con gái lấm lét trong tinh quái khi nhận ra H. ở sạp kế bên mình. Anh đánh trống lảng:
“Chắc họ ngỡ mình đang ở giai đoạn mào đầu của tình yêu ... .”
“Ông ngỡ thì có, vũ trụ của họ đâu còn hiện hữu mà chắc với không?”
“Cô có còn ai thân thuộc ở trại này?”
“Chỉ còn kỷ niệm và một sự đau đớn khôn cùng.”
“Tối nay hứa hẹn một bữa mát trời ... Xin phép được mời cô ăn chén chè sen. Không khí trong tiệm cũng dễ thương nhẹ nhàng, không ồn ào như mấy quán cà phê trẻ.
“Tại sao không là một ly nước ngọt bình thường?”
H. nhìn sâu vào mắt người đối thoại để đo lường sự thông minh và ranh mãnh.
“Danh từ nào rồi cũng bị phóng thể đi. Từ tiếng chè bình thường mà cô không ưa đó đến danh từ cao hơn như Độc Lập, Tự Do ... Lỗi không ở ngôn ngữ, lỗi ở người bóp méo nó, mặc cho nó một ý nghĩa khác.”
“Rung động qua hình ảnh nào đó đã mất cũng là hình thức bịp bợm ... .”
???
“Không, tôi muốn đề cập đến trường hợp chung. Như tôi chẳng hạn ... Chúng tôi lấy nhau rồi, chuyến đi chính nhà tôi lo liệu. Rồi anh ấy ngã lăn dưới những nhát chém phũ phàng. Anh ấy ngỡ mình có thể làm được chuyện bảo vệ người yêu. Nhưng thời gian thiếu thốn đói khát trên ghe đã làm anh kiệt lực. Tôi sống như cái bóng ở đây đã hơn một năm, không tha thiết đến chuyện định cư sớm muộn. Anh ấy như ông, ít nói, nhiều suy tưởng, thích sống cho lý tưởng ...
H. tròn mắt ngạc nhiên. Lần đầu tiên được nghe một câu dài, tình cảm, kể lể ...
“Tôi nghĩ chúng ta còn cuộc sống trước mặt, phải hiện diện để nói lên niềm thống khổ của mình, những dã man tàn bạo mà mình là chứng nhân. Đó cũng là nhiệm vụ với người đã khuất.
Nụ cười đậu trên môi. Hàm răng dưới nhỏ đều xinh xinh có một cái thụt vào, phối hợp với ánh mắt tạo một vẻ đặc biệt như để che lấp bối rối, như muốn xóa tan một cách tàn nhẫn đến quyết liệt câu nói hàm chứa sự thuyết phục mới vừa được nghe.
“Nhưng ông cũng chưa giải quyết được vấn đề thực giả trong kho tàng kỷ niệm.”
Em thấy đó Th. Kiểu nói này xưa em thường dùng, trốn tránh một chữ hay trả lại anh một chữ. Càng lúc anh càng có cảm tưởng trước mặt anh là em ngày nào. Ai có can đảm nói yêu sau một vài lần chuyện trò lông bông? Vừa láo khoét với người được nói, vừa phụ phàng người đã mất. Ai có thể nói không với một người mình biết sớm muộn gì mình cũng sẽ yêu? Cái khó ở chỗ đó, nói không cũng không được, nói có cũng không xong. Lòng anh bây giờ cũng vậy. Yêu em nhưng như không yêu em vì anh đang thấy thích thú, thoải mái bên nụ cười câu nói của người đối thoại, đang mở cửa lòng để đón người đó. Đang vui vì sự hiện diện của cô ta. Nhưng như là anh vẫn còn yêu em vì người khác chỉ đến được với anh bằng những hình ảnh thiết thân của em anh có từ lâu trong trí. Yêu em mà không, không yêu mà yêu. Phải chăng anh mặc cảm, anh chưa sống thực với lòng? Nửa anh muốn làm người tình Đông Phương chung thủy. Nửa anh học đòi làm kẻ Tây Phưong khát tình. Thực sự anh đang bối rối. Tình yêu mới giả mà thực. Thực mà giả.
“Có thể lúc đầu mỗi cặp tình nhân đều không thể xác định tính chất của cuộc tình, nó có thể chỉ là sự phù hợp tính tình, sự ham muốn hay chỉ là sản phẩm của hoàn cảnh. Nhưng chắc chắn, nếu có, đoạn giữa sẽ luôn luôn thật.”
“Thế còn đoạn chót?”
“Không ai muốn có đoạn cuối hết. Cô thấy đó, đoạn cuối có ra gì đâu, một sầu thảm, một hận tủi. Chúng mình phải làm thế nào cho không có đoạn cuối.”
Lại nụ cười như vừa rồi.
“Ông gian thật. Chưa chi đã bàn chuyện đoạn cuối. Những phần còn lại đâu?”
Th., em thấy không, người đến sau em không khác em tí nào. Cũng ỡm ờ lúc có lúc không. Như lúc chúng mình mới quen, em tuy đã đồng ý nhưng nhiều khi vẫn phủ nhận. Đó là đặc tính làm cao cố hữu của đàn bà con gái? Đó là thể hiện sự thẹn thùng khi đứng trước tình yêu chân thật?
H. chồm tới hôn phớt lên trán thiếu phụ, vầng trán có những nét hằn của năm tháng khổ đau. Một cái ngoảnh đầu né tránh lấy lệ. Một câu phản đối hình thức:
“Ông này!”
“Đó là phần đầu cô vừa nói thiếu ... .”
Th., anh đang học đòi “làm kẻ chụp lấy cơ hội". Sợ trật một sát-na sẽ không còn dịp may. Anh đã mất đi sự lúng túng ngại ngùng đáng yêu với ... em lúc nào. Hồi đó mình ngượng nghịu. Đối tượng là tất cả, ngoài ra có gì đáng kể đâu. Nay anh mới biết hoàn cảnh bên ngoài đáng sợ hơn nhiều. Tụi quỷ đất liền. Tụi thú biển. Cuộc tình kết thúc ngoài ý chúng ta. Cắt bỏ đi đoạn thật quan trọng, nối kết tạm bợ cuốn phim gần như trở thành loạc choạc, gượng gạo.
H. đưa tay cho thiếu phụ nắm.
“Trời mát rồi, mình đi uống ly nước ngọt.”
Ánh mắt Th. nhìn H. như biết ơn.
“Cuộc tình nào cũng có bóng mát, nhất là sau khi đã cách biệt trong thời gian. Bắt được quá khứ không phải là chuyện dễ dàng. H. nghĩ rằng người vắng mặt đã nói câu đó qua cửa miệng người hiện diện, anh bóp chặt bàn tay nhỏ thó đang nằm gọn trong tay mình. Xa xa, chiếc camionette xịch đổ, bỏ xuống những người đi chợ Unggat trở về, tay xách nách mang cười cười nói nói.
Gió chiều lộng mát thổi tung tăng những chiếc lá cao su vàng ánh nơi bìa rừng.
(Indonesia, 06 1979, Trích tập truyện Câu Hò Vân Tiên - Gió Việt, Texas, 1985)
Bóng Vẫn Phủ Đời
Tặng Đặng Phùng Quân,Viên Linh,Nguyễn Xuân Hoàng
1. Chàng bước vào hội trường lòng háo hức, xao xuyến. Bảy năm lao dịch, một năm chui nhủi, mấy tháng dài người đợi chờ cộng với khoảng thời gian đăng đẳng quần quật vì miếng ăn đã kết thạch lòng. Sắc diện chứng tích thời khốn khổ biểu lộ với đời ngay thoáng nhìn đầu tiên. Dĩ vãng xây mộ tương lai bằng tảng đá ngàn cân kéo tim xuống, ngăn chận nụ cười. Quá khứ tủi nhục gặp trạng huống kỳ quặc hiện tại thành hai yếu tố có ái lực nhau, phối hợp thành chất ưu tư kết tủa, dằn vặt lòng. Vết chém nào không để lại dấu vết? Đường cứa vào thân cây hôm sau còn để lại dấu tích sần sùi rướm nhựa, huống chi lưỡi búa thù chém phập xuống theo tháng năm, bằm nát tâm tư khô cằn, khuấy thọc để moi đến tận cùng sự đớn đau, nạo vét tới lớp chót địa tầng khổ ải? Kết quả ‘thần thánh’ của thời gian lao dịch sống đời thái cổ trên rừng núi, tác dụng của ‘đỉnh cao’ lên những ai không cùng phe phái! Vợ chàng lúc còn ở với nhau vẫn thường cằn nhằn: ‘Anh quên quá khứ đi coi có được không? Qua đây rồi!’ Nàng ngừng lại không nói thêm, sau đó thường là thời khoảng im lặng nặng chì kéo dài suốt buổi cơm nhạt nhẽo hay một tràng chưởi chó mắng mèo vu vơ bắt quàng trút lên đầu hai đứa con tội tình. Nhưng hòn đá quá khứ vẫn oằn trĩu trong tâm tư như cái bướu dính liền với da thịt từ những năm gần mất nước, lớn dần theo thời gian, giờ đã trở thành một phần thân thể, cắt đi, chàng không còn là mình nữa. Lắm lúc cũng có những cuộc trắc nghiệm. Thiên hạ nhảy đầm? Ừ cũng nhảy chứ sợ gì? Nhưng đến nơi sao thấy muốn bỏ về. Không gian xa lạ, cảnh tượng như cười ngạo mạn. Xa cách. Trêu chọc. Thiên hạ đang có phong trào thưởng thức nhạc? Ừ, cũng vặn lên, nhưng giọng ca ưa chuộng ngày xưa nghe sao lạ hoắc, nhạt nhẽo, vô duyên như lời yêu đương tỉ tê bên tai kẻ tu hành, lạc điệu như lời thuyết giảng đạo đức cho người lấy sự hành hạ kẻ khác làm lẽ sống. Và hôm nay, lần đầu tiên ở đất nước tạm trú chàng mới thấy lòng mình một chút gì đó rộn ràng thơ thới.
Chàng nói với mình trong nỗi cảm xúc cố nén. ‘Sự uất hận cần thiết. Lò hấp nóng hữu ích. Nhiều người đã ngũ vùi theo thời gian. Cuộc hội họp đồng hương nào cũng tốt. Ít ra sau buổi lễ cũng được vài người nung chí. Hạt nhân tốt tuy chậm đâm chồi nảy lộc nhưng cũng chưa hoàn toàn ung thối vì hoàn cảnh bất lợi.’
Một người quen mặt lúc tạm trú bên đảo hể hả chận chàng lại ở tiền đình hội trường. Sau vài câu nhập đề mưa nắng, hắn lèo nhèo nhì nhằng:
‘Tôi mới ‘đao’ ba ngàn mua chiếc 3.8 Thunderbird, đầy đủ hết, khóa tự động, kiếng tự động, số tự động. Chạy ngon lắm. Xe nổi tiếng lúc này đó….. Chỗ tôi làm tốt quá. Thật may hết sức. Một giờ sáu đồng năm mươi lăm. Làm thợ tiện. Thằng xếp dễ thương lắm. Mới có mấy tháng đã được tăng lương. Tôi làm chỗ quan trọng, nếu không có tôi thì hãng dẹp tiệm. Tháng tới tôi đòi lên lương nữa. Thế nào nó cũng chịu. Anh ở đâu? Có nhà chưa? Tôi mua được cái nhà…’
Điệp khúc kéo dài hầu như vô tận, đập lùng bùng bên tai chàng toàn những điều khoe khoang không được hỏi, mà nói cũng không cần ai nghe. Vật chất đã tha hóa, biến thể hẳn. Như chàng, đã mang khuôn mặt sáp ủ dột dưới đòn thù ở quê xa. Ngày ở đảo hắn là một trong những người lớn tiếng đề nghị lập hội đoàn này nọ, tranh đấu chuyện này chuyện kia, giờ nét thỏa mãn tóe lên từ cử chỉ nhún vai bắt chước tới nụ cười hể hả huyênh hoang. Chàng ơ thờ ngó ra cửa. Một cặp vợ chồng trung niên bước vô, complet ba mảnh, áo dạ hội đắt tiền, nữ trang trắng tay, đỏ cổ… Hắn ý chừng chưa thấy đủ, lẽo đẽo theo sau khi chàng lạnh lùng đi tìm chỗ ngồi, lải nhải về job jiếc, lương lậu, xe xiếc, nhà cửa, gái giếc. Chàng nhìn vào mắt hắn, lòng bỗng cảm thấy thương hại, muốn nói như người xưa: ‘Yêu khí vật chất hiện rõ trên gương mặt anh đó, không chữa trị để vào xương tủy thì hỏng’ bèn nói một câu làm quà:
‘Anh em làm cũng được đấy chứ? Tổ chức tốn kém, có công, có tình!’
Hắn thơ ngây nhìn quanh quẩn, dán mắt lên một tà áo đáng tuổi cháu con:
‘Chỉ có những dịp này dịp kia như thế này mới thấy lại được cây nhà lá vườn. Nhớ Huỳnh Tịnh Của, Yên Đổ ghê! Ờ mà khu Công Lý nữa. Chỗ đường hẻm quán Duke đó, anh nhớ không? Coi kìa cái áo tím đó. Muốn ở tù ghê!...’
Nghe tim mình quặn thắc. Ngày uất hận để nghe lại niềm muối tiếc này và những câu phát biểu thấp lè tè trơ trẻn như vậy?
Câu chuyện được đổi sang chính trị với câu hỏi mở cho hắn sinh lộ về những người dấn thân thật sự mới bị bức tử. Hắn thao thao:
‘Cũng nghe nhiều người nói, báo đăng tùm lum. Trước đây có cả triệu quân còn thua chạy sút quần. Giờ có mấy que, không đủ nướng một bữa. Chờ xem sao cái đã. Phe nào lên mình cũng làm dân, đâu cần phải gấp.’
Chàng cười mũi, lặng lẽ rút điếu thuốc đặt lên môi, không châm lửa… Phải có gì ở trên miệng đặng ngăn chận câu chưởi thề. Có gì để nói đâu? Quá đủ. Câu trả lời lấp liếm chỉ cố chống đỡ điều thâm tâm hắn cảm thấy bất ổn. Như vợ chàng che lấp sự mặc cảm với lời giải thích về sự không hợp tánh, biện minh hành động mình như một sự trả thù chuyện trước đây ở quê nhà chàng đã hào hoa phóng đãng, vợ nọ mèo kia. Chàng nhớ mình đã thản nhiên nghe, thản nhiên chấp nhận sự kiện với một sự khinh khi và thương hại. Cảm giác đó lại đến sau câu trả lời của hắn.
Chàng nói một câu mơ hồ:
‘Người ta luôn luôn có lý do bên cạnh điều mình làm.’
Hắn tỏ vẻ ta đây:
‘Đúng, Làm sao biết chắc họ không bị giật dây và những người ngồi trên không bỏ túi.’
Chàng thấy mình nên dùng thì giờ hợp lý hơn. Những lời khoe khoang dạy đời hay biện hộ tuy vào tai này ra tay kia nhưng cũng phần nào lấn chiếm tri giác tiếp nhận của chàng đối với bài diễn văn cảm động đang được đọc hùng hồn trên sân khấu. Chàng đưa mắt quan sát chung quanh, nhiều cặp mắt cảm động, nhiều người lắng nghe với tất cả tâm hồn nhưng cũng có quá nhiều người kề vào tai bạn bè ngồi kể lể chuyện này nọ, làm ăn, bù khú. Vài tiếng cười khúc khích cố nén đâu đó.
Rồi diễn văn cũng dứt, thời gian nghiêm chỉnh cũng qua, phần văn nghệ với sự góp mặt của vài ca sĩ địa phương được giới thiệu thật trịnh trọng bằng những từ ngữ kêu vang như thùng rỗng. Hy vọng bài bản không trật chìa như mấy cuốn băng nhạc rẻ tiền anh-yêu-em, nếu không-có-em-thì-anh-chết, đang đầu độc mọi người mấy năm nay. Ngay khi người nữ ca sĩ bước ra với bộ quần áo dị hợm của cô, chàng thấy mình hy vọng hão. Cũng vẫn đường lối đó. Điệu múa phần sau thân thể theo điệu nhạc loạn cuồng. Đồi núi nhún nhẩy. Sóng vỗ ba đào. Môi miệng mời gọi. Tóc tai đốt nóng da thịt. Áo quần kích thích phần thân thể đã ngũ yên từ lâu. Tất cả đang bốc lửa không gian như mấy cuốn sách của bà Mỹ già bỏ quên trong xe khi mang tới xưởng chàng buồn tay hững hờ lật khi cố nuốt miếng sandwich lạnh tanh trong giờ ăn trưa tuần trước. The Sensous Woman của bà ‘J ‘ lõi đời! Making Love của nàng Patricia thành thục. Thế giới vật chất đang ngự trị đất nước này. Màn lưới vô hình đang mở rộng ra, lần lượt tóm trọn những người ngây thơ. Trống nhạc vẫn xập xình, gò nỗng tiếp tục giao động, tiếng trầm trồ huýt sáo vang dậy. Đây đó những nụ cười hóm hỉnh, những nheo mắt đồng tình. Rồi khắp nơi. Từ mấy hàng ghế của những nhân vật được gọi là thân hào nhân sĩ phía trước tới những dãy chót đằng sau của mấy cậu thanh niên độc thân tóc dài áo quần punk, phun khói tàu phì phèo, cười to nói lớn.
Chàng bực bội sửa lại thế ngồi, vô tình đá mấy lon bia ai đó uống rồi dấu dưới chân ghế. Âm thanh loong coong sắc nhọn của kim loại chạm nền gạch cũng sắc nhọn tử thần như tiếng đạn lên cò của súng chỉa thẳng vào đầu chàng dọa nạt thuở nào lúc còn tù túng tay chân trên vùng núi cao hoang lạnh.
2. Mở tủ lạnh lấy miếng pizza bỏ vào microwave, bấm giờ, chàng ơ hờ đưa mắt quanh căn phòng. Mấy đôi vớ, vài cái áo bừa bãi trên ghế dựa. Dăm ba ly nước uống dở dang ngày này qua ngày khác đặt đâu đó trên cái bàn hoen ố dấu tròn tròn đáy cốc. Dĩa chén đũa muỗng mấy lần ăn cơm tối chồng chất đầy ắp cái chậu rửa chén, phơi trần mấy miếng thức ăn thừa khô quánh đã đổi sang màu đen mốc. Mấy cái gạt tàn, một hai tàn thuốc được đè bẹp dí trên một phong thơ quảng cáo chưa được mở ra, vết đen, lỗ cháy nhìn chàng như mỉm cười trêu chọc.
Không gian yên tĩnh nhưng như vang dội khắp nơi tiếng trẻ con đùa giỡn nhi nhô tiếng Mỹ cạnh cái Tivi-giữ-trẻ gần như được mở suốt ngày trước đây. Chúng thỉnh thoảng lấm lét nhìn chàng chờ đợi cái trừng mắt để thay bằng những câu tiếng Việt ngây ngô. Cạnh bếp, vợ chàng vừa nhấp nháp thức ăn vừa cằn nhằn chuyện bực mình trong sở, trong nhà, chuyện lỗi lầm của chồng được chất giấu từ lâu, lâu lắm, nơi vùng gần như quên lãng của quá khứ. Buổi tối ngày xưa mệt mỏi cắn nát tâm tư, nhưng khi tất cả biến mất cũng gây niềm nhớ. Vợ con, cuống rún, thói quen, và thời trai trẻ, với những giấc mộng vá trời. Giá mình còn ở trên quê hương! Mấy đứa nhỏ đã không bi bô tiếng người. Người vợ đã không cằn nhằn cưỡi nhưỡi rồi biến mất trong vòng xô đẩy của cuồng lưu dục vọng. Cánh tay hung bạo đã đẩy thiên hạ ra biển. Cánh tay đó đương nối dài để tiếp tục gây ra bóng đêm, và đổ vỡ cho những nạn nhân đã đã may mắn thoát khỏi quyền lực bạo hành. Người bạn quen trên đảo quay mòng trong job, jiếc xe cộ. Những người trẻ tuổi với những nhạc phẩm loạn cuồng. Mình ngồi đây để cảm nhận sự đè nặng của hòn núi Ngũ Hành Sơn trên đầu. Tôn Hành Giả ngày xưa trong thời gian đợi chờ, biết mình sẽ làm gì sau đó. Còn chàng! Nghe như bị trói chân tay, tù túng giữa bốn bức tường của xưởng, tràn ngập búa, kềm, khoá mở ốc, thất vọng và mệt mỏi khi nhìn sinh hoạt dật dờ phù phiếm chung quanh với đầy rẩy thị phi nhỏ nhen của những người cùng một gốc tổ đang cố quên quá khứ, bằng lòng với những thủ đắc bằng giá thời gian quí báu của quãng đời còn lại.
Câu nhận xét có vẻ đùa cợt nhưng đầy chán chường của một người qua đây từ mới đầu ngày quốc nạn vẫn báo động chàng thương xuyên về một sự ưu tư không hợp thời: ‘Cảnh khổ bên nhà khiến mình tức tối, sự chơi vơi lạc lỏng ở đây khiến mình tủi hổ. Nhưng mà không thể trông mong gì được ở xứ này!!! Nó là một thứ siêu cộng sản. Làm việc! Làm việc. Làm việc. Làm việc. Một job. Một job rưỡi. Hai job. Khác chăng là làm việc thì tạo được một số tiện nghi. Thế thôi. Fidel Castro, Mao Trạch Đông và cả Lénine nữa, có qua đây thì cũng cày trả nợ ngày 8 tiếng như mọi người. Không cách mạng cách miếc, không thay đổi thay điếc gì được hết. Anh nữa, hai năm, ba năm anh sẽ như tụi tôi. Bill này, bill nọ ngập đầu. Không có cả thì giờ nghỉ ngơi, nói chi đến chuyện khác. Cầu mong cho nhận xét đó sai lầm. Mỗi thời mỗi nơi có cái khó khăn riêng, quan trọng là nắm lấy bí quyết cuộc sống để lách trốn khỏi bánh xe xã hội đã nuốt chửng không biết bao người rồi. Phải biết. Phải mở mắt. Phải cố gắng! Tất cả những giải thích biện minh đều không có lý do tồn tại. Chàng bất chợt bắt gặp mình trở về sự tư duy phóng dật của Lão Trang. Khác chăng ở chỗ không bị cột vì vật chất nhưng bị trói chặt vì những lo nghĩ vẩn vơ. Người xưa thì ‘loạn hậu cảm tác’ mình ‘thập niên loạn hậu vẫn ưu tư’. Sự héo sầu tự chọn còn khổ hơn những tháng ngày chạy ăn thiếu thốn, đợi chờ, đổi chỗ, đổi nơi sau ngày về từ rừng thẳm.
Trên tường, bức địa đồ Đông Nam Á cắt từ một tờ báo địa phương dán từ những ngày mới qua đã phai màu giấy. Mỗi lần nhìn vào đó, Chàng thường ngó kỹ chữ S nhỏ xíu cong cong day ra mặt biển đông và lấy tay đo khoảng cách rất ngắn từ Trà Vinh tới quần đảo Satuna của xứ Nam Dương mà chàng cặp bến lúc trước. Chuyện đã xưa nhưng luôn luôn lẩn quất trong ký ức. Ngày xưa sóng gió, đói khát, rách rưới vợ con lại đề huề. Giờ đây tiện nghi, xe cộ, sao lòng nghe trống rỗng. Xứ này không phải thiên đường. Nó là địa ngục hiểu theo nghĩa cô đơn, quần quật trong cơn lốc chuỗi làm việc tháng này năm nọ. Nó là địa ngục hiểu theo nghĩa thiêu hủy gia đình để tạo dựng cá nhân, đốt cháy nội tâm để xây đắp những sinh hoạt thường nhật. Như chế độ ở Trung-Xô, nó tạo nên một mẫu người thôi, mẫu người điển hình, nếu khác đi, sẽ là trường hợp bệnh hoạn, bất thường, tâm trí…
Mình điên hay cả bầu trời thiên hạ đang điên? Tác giả ‘Sở từ’ ngày xưa cũng vậy chớ khác gì? Cả đời điên sao ta tỉnh? Cả đời đục sao ta trong?
Chuông điện thoại reo vang. Thường hầu như không ai gọi giờ này. Chàng linh cảm chuyện gì đó xảy ra.
‘A lô! Buồn quá anh ơi. Vợ em không qua Mỹ nữa. Nó đòi đi Úc.’
Cái lục bình sứ men rạn nứt da rắn những vẩy nhỏ li ti chưng cạnh điện thoại như vỡ tung từng mảnh dưới mắt chàng. Giọng buồn như tiếng nấc sắp phát ra từ đầu giây.
‘Nó tới Indonésia, ba tháng nay như anh đã biết. Nó chỉ báo tin mà không nói gì về chuyện em làm giấy bảo lãnh thì em nghi rồi. Em vẫn làm giấy bảo lãnh và sửa soạn nhà cửa đợi chờ ngày vợ chồng sum họp. Bây giờ!...’
Tiếng âm thanh vo vo của đường giây viễn liên nghe rõ mồn một. Lâu lắm không nghe một chút âm thanh nào của người em đầu kia. Chàng ngồi phịch xuống ghế, chậm rãi quay ống nói vòng vòng để gỡ đoạn dây rối xoắn xít trong khi đợi chờ, luôn tiện lục lọi một câu an ủi. Đầu kia tiếng kể lể tiếp tục, nhỏ hơn, giọng như cảm cúm:
‘Nó nói nó chờ đợi đi Úc trong vài tháng tới vì không muốn đi Mỹ. Sợ lạnh. Nó khuyên em nên cưới vợ khác. Coi như nó đã chết. Hai đàng đã hết duyên nợ. Em biết nó dứt khoát rồi, không lay chuyển gì được nữa. Buồn muốn bẹp dí luôn.’
Chàng nói cho có, lòng không tin vết thương đứa em có thể dịu xuống:
‘Thôi được. Đừng buồn nữa. Chuyện đã như vậy rồi làm gì khác hơn được. Tao sẽ tới thăm mày weekend tới. Nói chuyện nhiều, tao hiểu rồi.’
Một cái lắc đầu thật Mỹ cố làm vui đứa em được chấm câu: ‘Women!’
Gác máy, chàng nghe mệt mỏi lạ lùng. Một sự bừng vỡ của muôn ngàn quả bóng thủy tinh bị dằn mạnh, bắn tung tóe vô số mảnh vụn vừa rực rỡ vừa chói mắt. Chuyện thật bình thường nhưng xảy đến cho người thân vẫn thấy sao sao! Đau đớn, nhói buốt. Cuộc tình nào cũng có mầm mống gảy đổ. Hoàn cảnh như chất phân bón màu mỡ tưới vào cái hạt giống đang đợi chờ phát triễn thành quả đổ vỡ. Quê nhà, bà con họ hàng xúm xít, thân nhân quyến thuộc chung quanh như hàng rào an toàn ngăn chận những chuyện trái với truyền thống. Bị đày khỏi xứ, tách rời khỏi những che chở của tập tục, quyết định chỉ còn được xây dựng trên quyền lợi cá nhân trước tiên.
Có thể cô ta chịu ơn người kia trên đường vượt thoát chất chồng nguy hiểm và tủi hổ. Có thể do một phút nhẹ dạ trong những ngày tháng vò võ đợi chồng. Có thể là phản ứng sau những giây phút hãi hùng bỗng thấy đời không nghĩa lý, giá trị tinh thần đổ xập sau cơn bão biển. Hay phũ phàng hơn… Mà thôi. Lý do có muôn ngàn, nhưng chỉ một nguyên nhân. Một gia đình, hai gia đình tan nát đâu phải là tất cả chuyện sau ngày lụt máu ngập tràn… Chỉ như thêm vài hột cát trên sa mạc, vài giọt nước mắt nhỏ xuống đại dương. Như mình, hai đứa nhỏ nhất đã bỏ lại trong sóng nước. Như những oan hồn vất vưởng đâu đây trên đường đi không đến. Như những cuộc sống dật dờ rải rác khắp hoàn vũ ngày nay.
Tiếng cách khô khan của cái microwave nhắc đến cơn đói cồn cào từ trưa tới giờ. Cái gọi là khổ của nó ai cũng đã chịu đựng từ lâu. Cách nay cách khác. Cái đau lâm râm theo sau cái đau bứt ruột xé gan mất nước, ly hương ngỡ ngàng giữa dòng đời xa lạ.
Cầm miếng pizza lại bàn ăn, chàng bỗng thấy no ngang. Thức ăn thay thế đánh lừa khẩu vị, như mình tự an ủi khi đặt nỗi bất hạnh cá nhân bên cạnh nỗi bất hạnh lớn của dân tộc.
3. Chàng lịch sự kéo ghế mời. Khuôn mặt người đàn bà rạng rỡ mỉm cười cám ơn và kín đáo liếc sang bàn bên cạnh. Cử chỉ của nàng, cách điểm trang và sự làm dáng, đôi cánh bướm luôn luôn chớp chớp - chàng gọi đó là cặp mắt bedroom eyes - khiến chàng cảm thấy xa cách và hấp dẫn dục tình hơn là kêu gọi một tình yêu.
Biết mình đang bị quan sát, nàng lên tiếng giải vây:
‘Quán này trình bày đẹp chớ anh? Không khí vừa ấm cúng vừa sang trọng. Thức ăn lại đem ra mau. Khách khỏi phải chờ đợi. Em ghét đợi chờ ở tiệm. Sốt ruột và mất thì giờ.’
‘Ngắm anh nè!’ Chàng cố tạo không khí thân mật và xóa tan thiên kiến.
‘Mắt anh đầy hình ảnh quá khứ, đầy chuyện phục quốc đấu tranh. Đâu có em trong đó.’
Những đám mây ngoài kia như bỗng hạ xuống thấp.
Thiếu nữ chiêu đãi đem thực đơn đến. Đôi mắt to, đen lánh tròn, như hòn bi thoáng đưa cái nhìn ngạc nhiên về đôi thực khách. Nàng cúi xuống dềnh dàng chọn thức ăn. Chàng đáp thật mau:
‘Cô cho hai ly cam vắt. Chúng tôi sẽ order sau.’
Thiếu nữ quay đi thả cái nhìn thương hại về người đàn ông sau khi đảo mắt thật mau về người đàn bà.
‘Em quen cô ta?’
‘Em có ra đây nhiều lần với bạn. Em thích ăn nhà hàng. Em muốn thưởng thức tất cả các món ngon trong vùng. Không ra ngoài ăn uống khi nói chuyện nhà hàng nào ngon, món nào đặc biệt, mình ngơ ngơ ngáo ngáo quê lắm.’
Chàng nghĩ tới thời gian rảnh thật hiếm hoi và sự ngạc nhiên của người manager Jimmy Bowie, anh chàng Mỹ đen có cái tên của người hùng tử thủ thành Alamo, về thói quen của chàng với những ngày cuối tuần co rút trong phòng đọc những quyển sách không liên quan gì tới nghề nghiệp. Chàng nhớ lúc đó mình đã khẳng định không chấp nhận chuyện thay thế độc thân bằng một sự chịu đựng người đàn bà trước mặt.
Anh có thích đi shopping không? Windsor Park Mall ở đây đẹp lắm. Nhiều thứ hàng mới hết xẩy. Mình chỉ đi coi thôi, không cần mua. Em có cái thú đi dạo mall ngó người và ngắm hàng.
‘Anh chúa ghét phí thì giờ rước đèn chỗ đó. Chàng đáp với nụ cười đau khổ. Chỉ khi nào cần mua gì cực chẳng đã phải đi thôi.’
Chàng đã khám phá những điều nàng nghĩ qua nét mặt. Một thoáng nhíu mày rất mau trước khi nụ cười gượng kịp nở:
‘Dạo này con anh có thường về thăm bố?’
‘Thỉnh thoảng, hai ba tháng một lần. Tốn kém tiền máy bay và mua áo quần chưa kể tiền yểm trợ thường xuyên hàng tháng.’
Chàng cố tình đưa ra chi tiết không cần thiết.
‘Bả làm lương khá lắm mà!’
‘Bổn phận, em biết đó.’
Không gian chìm trong yên lặng băng giá địa cực. Tiếng ồn ào mơ hồ chung quanh của thực khách và bồi bàn trở thành lãng đãng như vọng lại từ vùng xa thẳm mờ nhạt xương khói. Chỉ còn tiếng muỗng của nàng quậy mạnh vào thành ly, như tiếng nghiến răng giận dữ, như lời cằn nhằn quen thuộc mấy năm trước đây.
Chàng chuyển câu chuyện ra khỏi ngõ cụt tiền bạc.
Giờ rảnh, ngoài Ti Vi và nhạc ra, em có coi sách báo Việt Nam không?
Lâu lắm nàng mới trả lời:
‘Bận quá anh ạ, đi làm về mệt nhoài. Mấy ông nhà báo Việt Nam viết toàn chuyện xa xưa, chuyện vượt biên, hải tặc, Việt cộng, Phục Quốc. Chán thấy mồ. Đọc chuyện là để vui, chứ đâu phải để buồn.’
Nụ cười cố tạo gắn lên môi chàng như một sự bất đồng ý kiến không cần phát biểu.
Em nói đúng đó, nhưng còn quá sớm để quên những chuyện đó. Nhiều khi ta phải sống trong sự nhàm chán đó em, sự nhàm chán cần thiết để thấy mình còn có tổ quốc để hướng về, để nhớ nhung.
Đưa nàng ra xe, chàng tự hỏi sự thực tế của nàng sẽ dẫn mình đến đâu và bỗng thấy thanh thản trước vẻ thờ ơ của nàng: chậm rãi thắt dây an toàn, tra chìa khoá vào contact, ngó thẳng về phía trước, đôi mắt thật xa xôi, lạnh nhạt. Chàng đóng cửa xe. Nụ cười nửa miệng gượng gạo nở theo phép lịch sự, mắt vẫn theo dõi cái đồng hồ nhấp nháy trên tòa nhà ngân hàng trước mặt. Cuộc chia tay nhạt nhẽo với không khí buổi nói chuyện không vừa ý cả hai đàng còn xót lại quanh quất đâu đây và có thể là mãng mây che khuất đời hai đứa khiến không thể nào còn nhìn rõ mặt nhau. Khu parking đầy rẫy xe cộ nằm im như những nấm mồ vắng lặng, đìu hiu. Đằng cuối bãi một chiếc xe mở đèn báo hiệu chớp tắt như lân tinh đom đóm. Bầu trời thật rộng, bao la nhưng chỉ đơn độc một ánh sao đêm. Chàng nhìn sao, ước được thanh thản đêm nay. Xe nàng lui chầm chậm, chàng gõ nhẹ lên đầu xe như muốn nói chuyện. Lần này thì nụ cười, chàng biết chắc nụ cười lịch sự chịu đựng học được trong những ngày tháng ở Mỹ.
Chàng cố hết sức trong lời âu yếm sau cùng:
‘Em lái xe cẩn thận. Về tới nhà anh sẽ gọi em ngay.’
Đôi môi mấp máy nhưng nàng chỉ gật đầu, đưa tay chào tạm biệt.
Chàng biết sự náo nức của cả hai đã chìm xuống, tan loãng không cách nào cứu chữa. Lời hứa đã trở thành dư thừa. Sự im lặng hàm hồ có lợi hơn trong trường hợp này.
Chiếc xe mộng du quanh quẩn trong thành phố đang lên đèn. Chấp chới theo một nhịp điệu đều đều buồn nản, mấy bảng hiệu quảng cáo xanh đỏ dọc ngang đường phố thưa thớt xe cộ. Nơi một trạm xe bus, vài người Mễ, da đen đang kiên nhẫn đứng chờ, quần áo lếch thếch, phô bày sự nghèo khó của lớp thị dân sống bên lề xã hội, đã hội nhập ngôn ngữ nhưng vẫn còn lạ mặt trên đất nước phức tạp này. Vài người đàn bà mập lùn, áo đen thùng thình, trùm đầu bằng khăn mỏ quạ, màu sắc rực rỡ tương phản với gương mặt nhăn nhúm, đen đúa, vết tích dòng máu dân bản địa với cuộc sống cực nhọc ngày xưa. Vài thanh niên Mễ có khuôn mặt hao hao Á đông, nhỏ thó, bước qua đường bất chấp xe cộ, miệng nghêu ngao ca hát một điệu nhạc bình dân đang thịnh hành được phát thanh hàng ngày trên băng tầng tiếng Mễ. Đêm xuống tối mù, xa xa từ khu gia cư, lấp lánh ánh đèn như những vì sao trong đêm tối trời. Tiếng động ầm ầm vang dội chói tai khi những chiếc truck khổng lồ dài ngoằng chạy trên cầu xa lộ băng qua thành phố gợi chàng nhớ lại trận mưa đại bác vọng lại đêm nào lúc nằm bó chân ở trại giam biên giới trong kỳ vượt biên thất bại lần trước…
4. Cầm máy điện thoại, chàng hình dung lại khuôn mặt nàng lúc chia tay. Những con số điện thoại được bấm trong sự dửng dưng thoải mái. Tiếng nhạc ngắn ngủi te-te-tích-tích-te phát ra như ám ngữ kêu gọi giã từ cuộc chơi. Trước đây mỗi khi gọi nàng, chàng thường cảm thấy ngại ngùng xem lẫn bồn chồn, phải quyết định vài phút mới quyết định bấm số, rồi hồi hộp nghe từng tiếng chuông reo đầu bên kia. Nàng thường bắt điện thoại lên ở tiếng chuông thứ tư, thứ năm. Khoảng thời gian đó chàng vừa thấy dài lê thê và vừa thấy ngắn và vẫn muốn không có nàng ở nhà để được bỏ xuống. Phân tích tâm trạng kỳ hoặc của lòng mình, chàng tự hỏi phải chăng mình đã quá tuổi yêu đương hay nàng có những quan điểm làm chết nụ hoa tình cảm vốn được ươm bằng sự cô đơn của mình và được tưới bằng những câu xì xáo xấu miệng về sự đổ vỡ của gia đình mình. Nụ hoa bị sâu ăn ngay cuống khi vừa mới kết thành cái búp đầu tiên. Giờ trạng thái đó khác hẵn, bình thường, không tên như khoảng thời gian dài trong đời một người chỉ biết ăn ngũ làm lụng, lơ mơ trước mọi sự, không để đầu óc vấn vương một điều suy nghĩ nhỏ nhoi nào.
Chàng xưng tên. Đứa con gái nàng lễ phép:
‘Thưa, mẹ cháu về rồi lại ra chợ ngay. Xin bác gọi lại sau.’
Mọi chuyện hình như ổn thỏa. Chàng nói với mình sau khi châm điếu thuốc. Chuyện xảy ra như dự đoán, nhưng giá nàng đừng bảo con nói dối. Trẻ con! Cứ để mọi chuyện trôi qua. Không cần thiết phải nói dối và dạy trẻ con nói dối. Buông điện thoại xuống, chàng dựa trên sofa, gát chân trên cái bàn nhỏ đầy sách báo trước mặt. Chàng lật một tờ tạo chí Mỹ xem hình. Hình cũng không vào trong trí. Chàng đưa tay vặn nút máy truyền hình. Mấy lời quảng cáo nghô nghê và khinh thường giới tiêu thụ khiến bực mình. Băng tần nào cũng như băng tần nấy, cổ võ tiêu thụ, khuyến khích lựa chọn thực phẩm chó mèo. Chàng tắt máy, bóc điện thoại lên gọi người bạn thân ở xa.
‘Ít thấy mày xuất hiện quá. Đầu hàng hả?’
‘Tao viết trong lúc lái xe tới sở. Viết trên đường về nhà, viết trong giờ break, tao muốn nói tìm ý và dựng truyện, có cốt truyện rồi thì loay hoay vài dòng trong giờ ăn trưa, nguệch ngoạc vài chữ trong lúc chờ vợ vào siêu thị. Nhưng mà còn phải sữa chữa nữa chứ! Có ai viết một lần mà xong đâu? Mày biết đó. Ở nhà, mỗi khi cầm viết lên y như là có chuyện. Có lẽ tao phải dứt khoát lựa chọn một trong hai. Hiện giờ thì tao đang trên đường đầu hàng. Người lính trấn đồn đang bắn những viên đạn cuối cùng.’
‘Tại sao?’
‘Tao không muốn bị coi như người bất bình thường. Như mày, thui thủi với những ưu tư vô ích và mấy quyển sách nát trật thời.’
Tiếng cười vang của người bạn sau khi nói cốt cho người nghe hiểu điều phát biểu vừa rồi là nói đùa, nhưng chàng cảm thấy đó là lời thú chấp nhận sự cay đắng của hoàn cảnh.
Chàng cảm giác chóng mặt như ngày trước lênh đênh trên biển cả với cái ghe hỏng máy, mấy ngày xà quần trên vùng trời nước màu xanh dồn dập, chồng chềnh. Con bạch tuột đỏ đã đưa vòi quấn nhận chìm nhiều người và hình như đang thả tới trước mặt chàng cả chục vòi khác khổng lồ, thật khổng lồ đầy những hấp khẩu tròn trịa như những miệng núi lửa trên mặt trăng nhưng có sức tạo bóng đen trước mặt che phủ đời.
Trên tường, đối diện bức địa đồ Đông Nam Á, tấm khẩu hiệu chàng lượm được trong hãng về, gương mặt cười trong hình vẽ dường như méo xệch do một lằn vẽ bậy con chàng quẹt lên lúc nào đó trước đây. Hàng đỏ chữ xám lâu nay chàng cố gắng coi như một thang thuốc chữa bệnh sắc diện hóa cẩm thạch của mình: ‘Cheer up! A gloomy attitude never helps’ không được lau chùi, đóng một lớp bụi dày, mờ nhạt. Trắng phếch.
(San Antonio, Texas 1985)
Ca Dao Tập Tàng
Nhăn mặt nhịn đau nhích cái chưn sưng bị treo gá ngỡi giữa hai cây giăng mùng, chú Tư Trích chép miệng: “Thiệt tức, ban đầu có chút híu bây giờ tầy huầy như vầy thì cực còn hơn Thủ Huồng bị đọa, muốn trở mình chút đỉnh cho đở mõi mà có được đâu. Nằm lâu, chuyện vệ sinh tắm rửa lần nào cũng trần thân muốn khóc… Giống như dao cùn, dao mẻ chờ giờ bị liệng đi.” Chú bặm môi cố gượng trở mình, nhưng mới nhúc nhích chút đỉnh đã cảm thấy đau thấu mây xanh bèn nằm yên, trí nghĩ bâng quơ về quá khứ.
Có thói quen nếu bảnh mắt dậy mà thấy trời rọi chút yến sáng là Tư Trích tốc mùng đi đếm số bông bí trong vườn. Bữa nào hể đếm được chừng độ bốn năm chục bông là chú mừng quýnh, hí ha hí hửng đi một vòng vườn rồi mới trở vô nhà tiếp tục làm chuyện gì đó đợi tới chừng 8, 9 giờ xách rỗ ra vườn cắt bông bí đem vô khoe với vợ. Vừa cắt, Tư Trích vừa ngâm nga nho nhỏ, thường là bắt đầu bằng câu đã có từ lâu: Mẹ mong gã thiếp về vườn. Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh. Ngâm đã rồi chú phụ đề như là có người kế bên. Không có sẵn dưa hường, nấu với dưa chuột tôm khô hay cá diêu hồng cũng hết xẩy vậy bây! Có bữa hứng chí chú ư ử mấy câu tự mình ứng khẩu: “Bông bí vàng tươi như đời em thắm. Ăn bông bí nhiều không tắm cũng thơm. Rồi chú liếc mau vô nhà nghĩ thầm: Em không tắm mà da em cũng thơm mùi xà bông Cô Ba là cái chắc! Rực vàng bông bí sau vườn. Thương em không dám leo tường cũng leo. Ờ, mà em chịu đèn thì tội gì không leo qua! Ngu sao! Hay Bông bí vàng lườm trong chùm xanh lá. Anh ngắm em hoài sợ má em la. Con gái người ta mà ngắm hoài chết duyên còn gì cha nội! Mấy ý bậy bạ nầy chú bị vợ háy nguýt hoài mà không chịu bỏ, vẫn lẫm nhẫm rồi tủm tỉm cười một mình. Chú giải thích với bà vợ ù ù cạt cạt của mình: “Mình biết không? Phải ăn bông bí nhiều thì người mình mới có hương thơm. Ăn nhiều là yêu bông bí vô vàn, sự yêu thích đó khiến cho mùi hương của bông bí có cơ tỏa ra lại khiến người mình được thơm tho.” Thím Tư chỉ buông tiếng ‘Vậy hả?’ rồi tiếp tục làm công việc của mình, ngại hỏi dần lân láng cháng ổng nổi máu Ca Dao lên thuyết giảng thì chặt hổng đứt, bứt hổng rời, hết buôn hết bán buổi sáng.
Vậy mà buổi sáng đó khi chồm vói vô một sợi dây bí rợ bò hơi xa, chú Tư trợt cẳng vấp vô đâu đó một cái quá mạng. Gần sứt móng ngón chưn cái luôn. Trét vô chút xíu dầu gió xanh, xé lấy miếng giẻ rách cột lại, tưởng vài bữa là yên chuyện. Ai dè!
Ngó qua hàng hiên nhà trước mặt, chất đầy mít, đu đủ trong khi khách hàng lựa lựa người chủ điềm nhiên ngồi chích thuốc thúc chín vô cuống bất cứ trái mít nào còn xanh, chú nói:
“Thằng Dần bên kia biết kiếm tiền ha, tiếc là mấy tháng nay tôi nằm bẹp như người bụng bí đao làm biếng.” Rồi chú ngâm nga: “Bụng dài như trái bí đao. Nằm không ăn mãi ruộng sào cũng bay.”
Chú vừa ngâm vừa đưa tay quạt quạt lia lịa vì thím Tư vừa mới đốt nhang trên một hàng bốn cái trang thờ trong nhà, trang nào thím cũng đốt ba cây thành ra khói mịt mù, chú chảy nước mắt, ngứa mũi, lại khó thở rồi ho sặt sụa. Chú đổ quạu:
“Mình muốn giết tui thì nói đại đi chớ nhang mà đốt như ung khói, nhà lại không mở cửa sổ, kín như hủ nút thì chết người trong nhà chứ chết ai!”
Biết lỗi mình, thím Tư lật đật đi mở banh hết mọi cánh cửa phía trước, phía sau, gắn quạt máy ở gần chỗ chú Tư nằm…
“Không biết sao mà lúc nầy nhang có khói nhiều quá.” Chị vợ nói như để chữa tội mình.”
“Thì lúc nầy họ làm nhang bằng mạt cưa trộn acít nầy acít nọ cho có lời lại tẩm hương liệu bậy bạ nên khói là khói acít, hưởi nó hư phổi hư tim mà hơi vô mắt thì trước sau gì cũng mờ mờ, cườm nước, cườm khô mau mọc lên thôi.”
Chú dòm lên dãy trang thờ, ra lịnh cho vợ:
“Mình hạ mấy dĩa cam xuống đi, nằm đây ba tháng rồi mà mấy trái cam đó không thúi thì mình biết đó! Cam tẩm ắp lẵm hóa chất mới vậy, dục đi, để trong nhà hơi nó bay ra không tốt đâu mà.”
Thím Tư lại bắt thang lên đem mấy dĩa cam xuống. Thím tiếc của xăm soi từ trái từ trái, ý chừng muốn giữ lại, Tư Trích nhướng mắt thấy bèn lên lớp vợ:
“Tui biểu mình dục là dục, bộ tui không biết tiếc của sao chớ, nhưng mà cam nầy từ Trung Quốc qua, nó tẩm thuốc giữ cho khỏi hư thúi nên độc lắm, ăn vô chẳng biết có bổ béo gì không nhưng chắc chắn là có thêm một chút hóa chất tích tụ vô người mình, về sau không phát bịnh nầy cũng sanh bịnh nọ.”
Thím Tư quày quả đem mấy trái cam ra vườn bỏ gom dưới gốc cây vú sửa để làm phân. Tư Trích dòm theo, biết ý vợ, muốn thuyết thêm nữa, nhưng ngại bị cho là mình nói nhiều nên chép miệng làm thinh nằm nhắm mắt.
Bỗng Tư Trích giựt mình đánh thót gần như muốn ngồi bật dậy khi nghe tiếng ngã rầm tiếp theo là tiếng loãng xoãng của chai lọ bể, tiếng rên nho nhỏ của thím Tư. Thì ra do kê cái thang bất ý sao đó thím bị thang ngã, bể hết mấy cái bình bông quí của chú.
Chú nói như hét:
“Bà làm bể hai cái bình bông quí của tui rồi phải không? Biết mà! Không coi trước coi sau!”
Không nghe tiếng vợ trả lời chỉ nghe tiếng rên nho nhỏ “Đau quá! Đau quá!” chú hơi dịu lòng lại rồi chú nói sau cái chép miệng:
“Vái trời cho bể cái lư hương với mấy cây đèn dầu, không bể hai cái bình bông cổ vật của tôi. Hai cái đó quí lắm, có tiền triệu cũng mua không được đâu!”
Vợ chú làm thinh. Vài phút sau chú thay đổi giọng, nói với vợ bằng lời âu yếm:
“Mình có sao không, tội quá, tôi không ngồi dậy được để đở mình. Mình ngồi xuống đây, tôi kể chuyện nầy cho nghe. Chuyện của tôi hồi nhỏ…”
“Cha tôi đau nặng. Ông bị bịnh suyển mấy năm rồi, khó thở, thường ngũ chồm hổm đầu cúi xuống, cong mình như con tôm, nói rằng như vậy hai lá phổi của ông trải ra, dễ thở hơn. Tôi, thằng bé mười tuổi, ham ngủ nhưng thường phải ngồi kế bên cha, ngủ gật gà gật gù mà tay thì cầm cái quạt mo quạt liên tục cho ông có đủ không khí để thở. Thỉnh thoảng cha kêu uống nước, tôi phải để quạt xuống, mò dưới chưn bàn cái vỏ chai nước mắm nhĩ Phú Quốc dùng để đựng nước chín, rót cẩn thận vô tách đưa cho ông. Tánh ông khó, rót nhiều cũng bị la, mà rót ít ông uống không đủ cũng bị rầy. Chai đẹp thiệt tình, màu xanh nhè nhẹ, trong suốt, hai hàng chữ trắng Nước Mắm Nhĩ Phú Quốc, Thượng Hạng in khắc chạm mờ mờ thay vì được dán nhản như tất cả loại chai nước mắm rẻ tiền khác. Mắt người cha theo dõi từng cử chỉ của thằng con. Cái chai trở nên thiệt nặng trong tay tôi. Tôi rót run tay vì biết rằng cha mình quí cái chai đó lắm, rớt bể chai chắc no đòn.
Hôm đó, tôi nhớ buổi chiều Thứ Bảy, tan trường, hớn hở cầm tấm Bảng Danh Dự về đưa cha ký tên, tôi được xếp trong năm trò học giỏi nhứt lớp tháng nầy. Cha nhìn tôi bằng ánh mắt thương yêu và hãnh diện, nói: ‘Con phải học giỏi hơn con Liên mới được nha.’ Tôi không hiểu tại sao ông nói hơn con Liên mà không nói hơn những đứa khác trong xóm như con Liễu, thằng Đực, con Bê, con Bưởi, thằng Thìn, thằng Tỵ…. Liên là con bà chủ nợ, nó học một lớp với tôi nhưng chúng tôi không chơi với nhau vì Liên là con gái nhà khá giả, đã biết làm điệu, đã biết phân biệt giàu nghèo. Ba nó làm thầy phạm nhe, chuyên môn thích thuốc theo toa bác sĩ, má nó là cô giáo mở trường dạy mẫu giáo trong xóm, bà lại sống phụ thêm bằng nghề cho vay. Cứ hai ba ngày con Liên qua nhà tôi một lần để đòi tiền góp, mỗi lần gặp mặt tôi nó đều giả lơ như không biết tôi, không thấy tôi, chỉ nói chuyện với ba, má tôi mà thôi. Hồi chiều nay nó cầm một tờ giấy biên dài sọc mấy chục hàng số nói rằng má nó cộng lại thấy nhà tôi thiếu tiền góp với tiền hụi ngày hơn tháng nay, nhiều quá rồi, phải kiếm cách trả không thôi má nó sẽ qua nói chuyện phải quấy. Cha tôi nghe tới chữ chuyện phải quấy thì làm mệt, kéo đàm chặn cổ, năn nỉ nó đi về, hứa rằng sẽ kiếm tiền trả dứt dạt khi ông bớt bịnh, rồi ông đưa cho tôi cộng lại bản tiền nợ. Tôi khám phá ra sai số mấy trăm đồng, con số thiệt là lớn thời đó. Run run tôi ngồi cộng tới cộng lui thiệt nhiều lần để chắc chắn rằng mình cộng đúng. Cha tôi vui mừng vì sự khám phá đó của tôi, ông nói vậy là con học giỏi hơn con Liên thiệt tình. Nó cộng sai, con đã bắt được lỗi của nó. Cha đưa tay xoa đầu tôi. Cử chỉ hình như lâu rồi không có. Được cha khen, tôi ngồi thẳng lưng trên ghế, chưn đánh đồng xa, mắt sáng rỡ, thoải mái. Chẳng dè chưn đưa quá trớn, đá bể cái chai nước mắm Phú Quốc của ông. Cha tôi nghe tiếng chai bể, ông xuýt xoa: ‘Vái Trời cho bể chai khác, không bể chai nước mắm nhĩ. Chai đó quí lắm! Khó kiếm.’ Tôi run run dọn dẹp, nói sự thật với cha trong tâm trạng chờ đợi sấm sét. Cha tôi chỉ thở dài: ‘Thôi bể rồi thì thôi, con phải rán học giỏi hơn con Liên hoài hoài mới được!’
Đó là một trong rất ít lần tôi làm bể vật gì mà không bị cha đánh đòn. Nhà nghèo mà, mình biết đó, nghèo thường hay tiếc của.
Sau nầy lớn lên mỗi lần thấy chai nước mắm nhĩ tôi đều nhớ đến gương mặt với giọng nói xuýt xoa của cha: ‘Vái Trời cho bể chai khác…’
Ôi nhà nghèo, cái ước mơ nhỏ nhoi sao mà quá lớn!”
Tư Trích ngừng kể, ông thấy giọt nước long lanh trên khóe mắt của vợ.
“Té ra hồi nảy tôi không bị chưởi như tách nứa giống mọi lần vì mình liên tưởng tới câu nói của ba trước đây. Câu nói vái Trời của mình với câu vái Trời của ba mấy chục năm trước sao mà giống!”
Tư Trích cười xẻng lẻng bằng câu ca dao ứng khẩu: “Giống nhau vì bởi chữ nghèo. Cha con đều vái, eo sèo chi em?” Hồi nảy tôi dằn cơn giận xuống, nén cái lòng tiếc của vì thấy mặt nhăn nhó đau đớn của mình, như là hồi xưa ba tôi dằn lại là vì tôi đem tấm Bảng Danh Dự về, và tôi đã cộng sửa lại bớt được số tiền thiếu nợ.”
Thím Tư vói tay rờ rờ cái chưn đau của chồng, cười cười.
Tư Trích kéo vai vợ ấn ngồi lại thêm với mình khi thấy vợ dợm cẳng đứng dậy:
“Trời còn sớm, mình ngồi nán lại chút nữa để tôi kể chuyện khác cũng có liên quan đến cái nghèo ngày xưa, nhưng chuyện nầy vui hơn nhiều.”
“....Đứa em gái tôi cả tuần nay bị bịnh nằm thiêm thiếp. Tôi rờ tay em thấy nóng, rờ trán em còn nóng tợn hơn. Cả nhà ai cũng lo. Bà ngoại lui cui nấu cháo thịt bằm cho em nói là ăn cho đổ mồ hôi mau hết bịnh. Em không ăn, chỉ húp nửa muổng cháo lỏng rồi để đó, thiêm thiếp trở lại, tô cháo chơ vơ, bốc khói trên bàn. Ẩn hiện dưới lớp cháo là những miếng thịt bằm trộn tiêu hành, gừng và nước mắm… mời gọi tôi. Thèm quá đổi, nước miếng ứa ra. Bao nhiêu năm rồi đâu được ăn cháo thịt bằm đâu. Ngó tô cháo mà tôi tưởng tượng ra được mùi thơm của tiêu, mùi cay của gừng, mùi béo béo của thịt được bằm với nhiều thịt nạc, chỉ có chút ít mở đưa trơn. Tôi bị tô cháo cuốn hút nên quanh quẩn bên giường em hoài. Nhiều lần em mở mắt ra thấy tôi vẫn lẩn xẩn kế bên, em hỏi giọng yếu ớt: ‘Bộ anh thương vì thấy em bịnh hả?’ Tôi không trả lời, trí óc và cặp mắt bận ngó chăm chăm vô tô cháo, thèm thuồng. Em nói: ‘Anh ăn cháo giùm em đi, em không đói.. .’ Tôi chỉ đợi có bao nhiêu đó thôi, kéo tô cháo tới gần, vừa ăn vừa nói: ‘Anh muốn được bịnh để được ăn cháo thịt bằm, bao nhiêu năm nay nhà mình đâu có ăn cháo thịt đâu.’ Em cựa mình nằm nghiêng để nhìn rõ tôi hơn rồi chậm rãi nói:
‘Em sắp chết rồi, anh có thương em khi em chết không. Thầy Năm Chích ba con Liên nói chiều nay chích một mũi nữa mà không hết bịnh thì ngày mai em chết. Em buồn quá vì phải xa ngoại, xa cha mẹ và hai anh.’
Tôi buông muỗng, đẩy tô cháo dở dang ra xa nói không ăn nữa. Em ăn cho có sức mau lành bịnh, đừng tin Thầy Năm Chích nói bậy bạ. Em nài nĩ tôi ăn hết tô cháo giùm, nói rằng anh thèm thì cứ ăn, em thích thấy anh ăn ngon lành như vậy. Em sắp chết rồi đâu cần ăn uống gì nữa, anh ăn đi để Ngoại vô rầy em.
Không đợi biểu tới lần thứ hai, tôi kéo tô cháo về, húp rồn rột ngon lành. Mồ hôi tuôn ra như tắm. Em mỉn cười vui héo hắt miệng méo xệch.
Có tiếng xe máy thắng rít trước nhà, giọng Thầy Năm Chích hớt hơ hớt hãi:
‘Có ai trong nhà không, nhớ là đừng cho con Lùn ăn gì nha, ban cua lưỡi trắng mới lộ tức là thương hàn nhập lý, cho ăn là lủng ruột chết liền đó. Hồi sớm mơi đi gấp quá quên dặn, không biết nhà có cho nó ăn gì chưa. Ăn rồi là kẹt lắm. Chạy thuốc không kịp đâu. Tức quá, hỏng biết sao chuyện quan trọng như vậy tôi lại quên lửng đi…’
Bà Ngoại dưới bếp tất tả đi lên, khi ngó thấy cái tô không trơ vơ bà bù loa trong nước mắt:
‘Tôi nấu tô cháo thịt bằm… Chết cha, nó ăn hết rồi. Tôi giết con Lùn rồi!’
Tôi tủm tỉm nói:
‘Con ăn đó ngoại, tại con Lùn nó hổng ăn chớ bộ.’
Bà Ngoại ngượng ngịu cú đầu tôi, chửi thương:
‘Tổ cha mầy, lại dụ ăn em. Để rồi Ngoại cầm đôi bông mù u của Ngoại nấu cho mầy nguyên một nồi cháo thịt ăn tràn họng hết thèm, bỏ tánh dụ ăn của em.’
Năm đó tôi lên mười một, chưa bao giờ trong nhà thấy được một bữa cơm ngon từ khi tôi biết nhớ!
Dụ ăn cũng có cái hay. Cứu em khỏi chết, thằng nầy có công. Đó là câu mà sau nầy khi hơi lớn hơn một chút tôi thường đọc lên để đùa với ngoại. Tội nghiệp ngoại nghe tôi đọc như vậy chỉ cười hiền, không nói được lời gì. Mà mình thấy tôi có công không, nếu không dụ ăn của em thì nó đâu sống tới bây giờ.”
Thím Tư thấy chồng vui cũng vui lây, đưa tay rờ rờ lần nữa chỗ cái bàn chưn sưng băng vải của chồng ra điều lo lắng.
“Không biết chừng nào mới hết bịnh đây. Thấy ông nằm hoài cũng tội nghiệp. Thôi để tôi ra vườn coi có miếng rau cỏ nào hái vô nấu bậy một nồi canh.”
Được dịp trúng tủ Tư Trích nói mau:
“Ờ! Bà hái nhiều nhiều nha, rau tập tàng thì ngon, cũng như con tập tàng thì khôn.”
Thím Tư đứng dậy lấy ngón tay xỉa mạnh vô mũi chồng:
“Cũng cái giọng đó không! Hồi đó mỗi lần đi ngang nghe ông nói câu đó là tôi về khóc hết nước mắt. Dấu cha dấu mẹ thì được mà dấu thiên hạ ngoài đường sao khó quá. Mà không hiểu sao hồi đó tôi lại ưng ông để ông biến thằng con tôi thành thằng con tập tàng, bữa nào cũng thêm chưn thêm tay bắt mệt!”
Tư Trích cười xẻng lẻng nhìn gò má già mà còn thẹn thùng của vợ, bỗng chú hít hít mũi đánh hơi rồi la lớn:
“Chết cha! Nghe như mùi hủ rượu thuốc rắn hổ mang của tui bị đổ bể! Mình coi lại coi. Vái Trời cho đổ rượu chút đỉnh mà không bể hủ! Cái dòng rượu thuốc hổ mang ngâm sáu tháng tốt lắm, uống đã hết nhức mình mà trên biểu đâu dưới nghe răm rắp, không cãi.”
Người vợ cười hề hề:
“Bể cha nó rồi còn ở đó vái với cầu. Rắn hổ mang cái khỉ khô họ. Ba con rắn nước, tụi nó xẻ một đường dọc chỗ cổ rồi banh ra làm bộ như rắn hổ mang để gạt thiên hạ. Hổ mang nào mà đủ cho đám đàn ông mấy ngài ngâm năm nầy qua năm khác…”
Để ăn mừng chưn mình hết đau, Tư Trích làm một bữa tiệc nhậu bĩ bàng với vài ba người hàng xóm. Rượu lừng lừng Tư Trích triền miên:
“Hồi đó tôi làm biếng học thuộc lòng lắm, ông thầy Quan, dạy Việt Văn cắc cớ thường bắt tụi tôi học từng đoạn từng đoạn văn xuôi dài mà ổng ưng ý. Tui ba gai, thà bị zéro chứ không thèm học thuộc lòng bất kỳ đoạn văn nào. Tới chừng ổng bắt học thuộc 50 câu ca dao thì tui nghĩ ra cách chơi trát ổng. Tui nặn óc đặt trước ở nhà mấy chục câu và cá với tụi bạn là ổng sẽ không dám nói tôi đặt tuồng bụng.
Quả thiệt y chang như vậy, tới chừng làm bài thi Đệ Nhị Lục Cá Nguyệt, môn Việt Văn của thầy Quan tôi về nhứt nhờ những câu ca dao trời thần của mình. Đâu ai thuộc hết ca dao đâu, cho nên gặp câu lạ ông thầy cứ làm thinh như mình đã biết, không gạch đỏ xanh gì hết là con đường khôn ngoan nhứt.
Trò chơi đó cho tới bây giờ tôi kiếm tiền nhuận bút hoài hoài bằng những bài xào đi kho lại như Tình yêu qua ca dao, Người phụ nữ trong ca dao, Tình huynh đệ trong ca dao, Tình quê hương trong ca dao, Ca dao như là cách chơi chữ, Cách ứng xử của người Việt qua ca dao, Sản phẩm địa phương qua câu hát… Cứ như vậy mà tôi làm tới. Bài nào cũng chỉ có một vài câu thiệt đã có trong sách vỡ, kỳ dư là giả, ở trong bụng tôi ra hết. Tôi đặt tên mấy câu mới sanh nầy là Ca Dao Tập Tàng. Tập Tàng là lượm chỗ nầy một chút chỗ kia một chút góp gom chung lại. Góp của tôi là góp ý và cách làm theo thể tỷ với thể hứng..”
Thực khách coi bộ lơ là không muốn nghe. Có người quậy hơn trong khi chủ nhà huyên thiên nói ông ta rót rượu mời người kế bên vô vô lia chia, ngậu xị.
“Tài vặt đặt ca dao của tôi giúp tôi sau nầy được chọn vô tổ văn hóa, tuyên vận của phường, tôi lo bóp óc nặn ra câu nầy câu nọ cho những chiến dịch của phường. Bù lại họ để yên không bắt đi Kinh Tế Mới. Được vài ba năm thì họ mời về, cám ơn mình, lúc đó nhiều khi vừa tủi thân vừa tức cười khi nhận được những bức thơ vận động đi Kinh Tế Mới do mình thảo ra hay những câu ca dao thúc giục do mình sáng tác trước đây… Tài viết Ca Dao khiến tôi đụng được bà nhà tôi, khiến tôi không lúc nào đói, nhưng cũng nói thiệt nó làm tôi nặng lòng hơn hai chục năm nay!”
Thím Tư thấy chồng nói nhiều , nháy mắt ra hiệu nhưng chú Tư Trích cứ thao thao:
“Hồi còn chiến dịch Thủy Lợi tôi đặt câu hơi nặng: Thằng Trời đứng lại một bên. Để cho Thủy Lợi đứng lên làm Trời. Nói nào ngay, ban đầu thì tôi nói Ông Trời, mấy ổng bàn ra tán vô thét rồi đổi thành Thằng Trời. Mình cũng không dám cãi. Thế là cái câu mạnh mẽ, ngang tàng, coi Trời như không kia đi khắp mọi nơi có làm thủy lợi.
Sau nầy khi hết làm việc, ngẩm nghĩ lại, tôi thấy mình dại. Hơn hai chục năm nay cứ mang mặc cảm mình ngỗ nghịch với Trời vì một chuyện chẳng ra gì. … Chứa để mặc cảm tội lỗi trong lòng, thét thành tâm bịnh, tôi mất đi cái hoạt bát ngày xưa, thêm đau bao tử và trầm cảm. Gần đây bị thêm cái ung lớn trên bàn chưn tưởng là không thể hết, tôi cho là biến tướng của mặc cảm tội với nghiệp mình đã tạo trước kia.”
Có tiếng một thực khách vồm vàm hỏi theo giọng dân nhậu:
“Rồi sao lại bỗng nhiên hết đi, Tư Trích nói không xuôi là bị phạt ba ly đó nha!”
“Con người mà, đâu ai là không bất toàn. Quá khứ đã có cái bất toàn thì làm sao sửa được? Mặc cảm chỉ làm cho mình hết còn là mình. Tôi tỉnh ngộ, tôi nghĩ đời mình lỗi,xấu chẳng nhiều nhỏi gì. Tại sao không nhìn trên đại thể để thấy rằng mình tốt, để ý chi cái xấu nhỏ chẳng đáng kể, chỉ như một vết đen trên tờ giấy trắng thôi. Trong tương lai mình lo phát triển tánh tốt thì có ích lợi hơn tối ngày ngồi đó nghiền nát hồn mình trong mặc cảm tội lỗi xa xưa.
Vậy là chừng một tuần sau tôi hết bịnh. Cái chưn lành như được xức thuốc tiên. Tôi lại vui đời. Tâm ủ ê mặc cảm Thủ Huồng bị phạt tiêu tán không để lại chút dấu vết nào.”
Bạn nhậu nghe lọt lổ tai, cùng reo hò hoan hô vô cạn ly rần nhà.
Thằng con Tư Trích đi đâu vừa về, dựng xe ngoài sân, bước vô nhà như gió lốc, không cần chào ai, nói không kịp thở:
“Chúa Nhựt nầy biểu tình không được. Họ dựng nhiều chốt quá, lềnh khênh đâu của thấy họ, lại còn bắt nguội tuốt ngoài xa như mình là ăn cướp không bằng! Thôi tuần sau tính!” Nói xong nó lũi vô nhà sau, dáng buồn bực mệt mỏi.
Tư Trích giơ cao ly rượu về phía vợ, con mắt mặt nháy nhó trao đổi gì đó trong khi ngâm nga ứng khẩu:
Rau tập tàng thì ngon,
Con tập tàng thì khôn[1],
Văn tập tàng thì hay.
Con ơi, lấy phải làm nền,
Lấy nhơn làm gốc mà đền nước non.
Thiếm Tư đứng dậy cái rẹt, nói nho nhỏ:
“Thằng con tập tàng ngày xưa ổng thêm tay thêm chưn sao mà giống ổng hịt, chuyện nhà thì nhác, chuyện chú bác thì siêng! Rồi đây sẽ khổ, tôi lại phải đi lên đi xuống nuôi tù!”
Tư Trích hiểu thái độ dùng dằng của vợ. Chú ngó theo bước đi của thím, mỉn cười bao dung. Bạn đồng tiệc vẫn triền miên trong ồn ào ly chú ly anh. Chú gắp một miếng gì đó cho có chừng, bỏ ơ hờ trong chén rồi chống đũa mơ màng. Xưa mình từng ăn lựu đạn cay, giờ con mình cũng thế thôi, có khác gì đâu nà. Chuyện trần gian nầy xoay qua xoay lại cũng từng bao nhiêu thứ như gió sớm, mưa chiều, sương khuya, nắng quái. Nhân quả luân chuyển, tất cả đều là vô thường. Đời nào cũng có cái sai đúng tương đối của thời nấy. May mà mình vừa hiễu được điều đó để rủ bỏ mặc cảm oằn nặng bấy lâu nay.
Và Tư Trích thoải mái nhập tiệc, lòng thảnh thơi như chưa từng bao giờ được như thế. Nắng chiều ngoài sân thiệt là đẹp dưới mắt chú Tư.
Victorville, CA, Sept. 18-25, 2011
Cái Vuốt Trán Vô Ngôn
Người đàn ông trao đứa nhỏ cho người đàn bà mà mặt mày hùng hổ. Không chút âu yếm nào biểu lộ tình cảm của người chồng người cha, cũng không có tới một chút ánh mắt xót thương của kẻ phải chia tay với người thân, anh bặm trợn ngó vợ con mình vừa che dấu sự vô cảm vừa như để như sẵn sàng huyết đấu với một sát thủ nguy hiểm. Một chút sáng đèn xa xa rọi lên khuôn mặt anh lờ mờ nhưng cũng rõ nét. Trẻ trung đẹp trai. Tóc dầy, chảy chuốt đúng điệu. Cặp mắt kiếng cận gọng vàng càng tăng thêm vẻ trí thức. Thỉnh thoảng một ánh đèn xe Honda nào đó chạy ngang, rọi sáng mặt anh thì một chút bùng phát bất như ý hiện ra bằng cái nhăn mặt và cặp lông mày đậm nhướng lên, kéo dài ra hơn, biến dạng gương mặt thanh tú đi đôi chút.
Người đàn bà ôm đứa nhỏ vô lòng cứng chặt như sợ người đối diện đổi ý. Chưa quá tuổi hai mươi lăm, chị còn mặn mà tươi mát nhưng cặp mắt ướt rượt, cái nhìn xuống đứa con của chị thắm thiết biểu lộ một tình cảm khó tả, đó là sự pha trộn giữa tình thương bao la của người mẹ với đứa con đầu đời và nỗi buồn biểu lộ sự chán chường của một tuyệt vọng đầy ngỡ ngàng. Người đàn ông trong trận cãi nhau dài với vợ vẫn ngồi trên yên xe, chống một chưn xuống đất, không ngó đứa nhỏ sau khi trao, cũng không để ý gì tới cử chỉ của vợ mình. Kết thúc cuộc khẩu chiến là một câu hăm he của dân giang hồ ai nghe chắc cũng lùng bùng lổ tai. Trước khi rồ máy xe phóng đi anh búng cái tàn thuốc đương hút về phía vợ, người đàn bà hoảng hốt phủi phủi rồi đứng lên ôm con bằng một tay, tay kia phủi lia lịa cho con.
Tôi ngó qua cái khe thiệt nhỏ của của cánh cửa sắt, quan sát hoạt cảnh từ đầu tới cuối. Bàng hoàng khi nghe người thanh niên kia buông ra câu hăm dọa. Ứa nước mắt căm giận khi nhìn người đàn bà hoảng hốt phủi tàn lửa bay rớt trên mình con do cái tàn thuốc nhẫn tâm của người chồng. Xong xuôi chị ngồi xuống ở chỗ cũ, không ngó lên, đưa tay vuốt tóc con, thở một hơi dài. Mấy phút sau, chừng như nỗi buồn hơi nguôi ngoai, chị ngồi dựa lưng vô góc cột của tấm bảng ghi Khu Phố Văn hóa Khóm 5 phường 10, ngó qua bên kia đường đọc hàng chữ nổi bật: Toàn dân khu phố quyết tâm thực hiện nếp sống văn hóa mới dưới đó treo đong đưa tấm băng rôn có mấy hàng chữ đỏ chói trên nền vàng: Toàn dân hân hoan chào mừng đại hội… lần thứ… . Quyết tâm tạo thành tích dâng… Ngó theo ánh mắt chị tôi bỗng bật cười khan, chắc chắn rằng trong hoàn cảnh của chị sự hân hoan và sự quyết tâm ai đó gán cho chị chớ chị không có một chút tẻo tèo teo nào. Cái con số La Mã có chữ X chữ I tôi không chắc chị đọc được. Sự ngờ vực nầy có tánh cách thực tế vì gần hai mươi năm nay học sinh bỏ học quá nhiều và đa phần thầy trò dạy cũng như học đều chểnh mảng, làm cho có. Chắc chắn là có chị trong số đó.
Đứa nhỏ cựa mình, người đàn bà sửa lại thế nằm của đứa nhỏ, vuốt mặt con nhiều lần rồi thoa thoa lên trán con, thoa tới đâu thì ánh mắt chị chăm chú tới đó như để nhìn tường tận hơn từng phân nhỏ khuôn mặt con mình. Ánh mắt chị tha thiết như là tình mẫu tử có tác dụng thần kỳ làm tiêu tan nỗi buồn người ta dầu ở trong tình trạng thiệt là tuyệt vọng.
Đứa nhỏ lại cựa mình, nhắm mắt khóc lớn, phá tan sự tĩnh mịch của đêm giao thừa không pháo, không lân. Người mẹ vạch quần con quan sát rồi mở bọc ny lon ra lấy những thứ lỉnh kỉnh ra làm vệ sinh cho bé. Một vài người ở trong xóm đi chơi khuya về ngó phớt ngang hai mẹ con với cặp mắt thiệt bình thường như cả hai không hiện diện, như cái chỗ ngồi hiện giờ của mẹ con người thiếu phụ kia vẫn là cái khoảng trống của bao lâu nay mà nhiều khi còn là chỗ dựa lưng của một gói rác ai đó lén để. Một hai phụ nữ trẻ buông cặp mắt thương hại nhìn qua cảnh tượng nhưng rồi cũng thản nhiên bước tới bấm chuông, vô nhà, khép cửa mà không quay lại, một hai cái chắc lưởi thương hại họ cũng hà tiện không xài tới.
Ngó lén gương mặt thanh tú của người mẹ và nghe tiếng khóc khó chịu của đứa nhỏ tôi muốn làm một chuyện gì đó giúp họ, chẳng hạn như tặng một hộp sữa Vinamilk lạnh trong tủ đá, hỏi họ cần đi đâu thì sẽ kêu người xe ôm quen trong xóm đưa đi tôi trả tiền hay tốt hơn nữa thì cho chị ta vài ba trăm ngàn đỡ túng ngặt trong ba ngày Tết. Nhưng cuối cùng tôi chẳng làm gì cả mà trở vô tiếp tục ngồi hầu cái TV với những chương trình tuyên truyền trơ trẽn và nói dóc nhàm chán quá quen thuộc vì nhớ tới những chuyện không hay trong quá khứ: người chồng của nạn nhân trở lại gây sự và nhiều khi đã đâm chết kẻ ơn nhơn tốt bụng của vợ mình.
2.
‘Mầy có biết tao bực mình lắm khi về mà mầy đã ngủ?’
‘Đi từ sáng tới hơn giao thừa, vợ con nào đợi nổi?
‘Đó là những giao thiệp cần thiết cho sự làm ăn.’
‘Nhưng ngồi nán thêm là do anh chủ động.’
‘Sao tao về mà mầy không cằn nhằn như mọi khi?’
‘Tôi đã tuyệt vọng về sự biết điều của anh.’
‘Tao muốn được tự do mà cũng muốn mầy để ý đến sự đi về của chồng.’
‘Đó không phải là tương quan vợ chồng.’
‘Mầy là má tao chắc!’
‘Đó là sự tương quan chủ nhơn và nô lệ!’
‘Tao làm ra tiền, tao phải xài theo ý tao.’
‘Tôi đã phản đối điều đó bốn năm nay, bây giờ anh được như ý sao lại phàn nàn?’
‘Im lặng là mầy coi tao không có mặt, không quan trọng nữa!’
‘Làm thinh vì thấy mình thất bại cải thiện một tình trạng.’
‘Mầy nói tao hư hỏng ngu si, như má mầy đã phán trước kia?’
‘Anh tự biết, nhưng đừng đưa mẹ tôi vô chuyện nầy! Tôi lạy anh!’
‘Giàu tiền ai cũng vậy phải thể hiện bản sắc.’
‘Nhưng mẹ con tôi như không có chồng, không có cha.’
‘Bịnh sao cử?’
‘Anh cần người giữ nhà thì cứ đăng báo.’
‘Mầy kiếm chuyện để kiếm chỗ có tiền hơn tao biết! Mầy là một thứ đĩ.’
‘Xin nhẹ lời! Tôi đi vì tình vợ chồng như đã hết trong anh.’
‘Ai nói? Tất cả chuyện mầy cho là xấu tao cho là thể hiện quyền làm chồng.’
‘Đó là một sự cướp đoạt trắng trợn quyền làm vợ.’
‘Tao muốn mầy mặc kệ để tao đối phó với đời, do đó phải tự do đi về.’
‘Vậy thì tôi ở chỗ nào trong gia đình? Tôi còn ở với anh làm gì!’
‘Mấy văn hoa quá tao không hiểu? Nếu mầy biến cái văn hoa đó thành những nụ cười thì tốt hơn.’
‘Những nụ cười lả lơi moi tiền! Những nụ cười thân thiện moi rượu!’
‘Còn hơn mặt chầm dầm bà chằn lửa của mầy.’
‘Vì vậy anh thường xẹt về nhà một chút rồi biến không kịp ngó tới vợ con.’
‘Muốn tao bao la tình buồn thì bỏ thói cằn nhằn mà chú ý tới chồng hơn.’
‘Cằn nhằn hay làm thinh là muốn anh đi đúng đường.’
‘ĐM! Đừng cãi lý với tao. Chết à con!’
!!!!!!
‘ĐM, mầy đi rồi sau nầy có chết bờ chết bụi kệ mầy, đừng vác đầu về nhà tao à nha!’
‘Anh chưởi mẹ tôi thì mặt mũi nào tôi còn sống với anh!’
‘ĐM! Tao nói thiệt! Tao mà biết mầy đi theo thằng nào thì cả ba đứa tụi bây bỏ mạng sa trường đó nhe. Có thể mẹ mầy nữa không biết chừng. Bỏ mạng trong đau đớn, nhớ đó!’
3.
Chừng một giờ sau tôi trở lên nhà trước, lén nhìn qua khe cửa thì người đàn bà và đứa nhỏ đã đi mất tiêu. Chỗ gốc cột trở về tình trạng bình thường, không một chút gì còn xót lại về hình ảnh của người đàn bà đau khổ và đứa nhỏ tội nghiệp kia. Ngay cả dấu vết của miếng tã vệ sinh em bé cũng không có. Trống không. Nhưng càng nhìn vô khoảng trống không đó tôi càng bị tức ngực, đau lòng như có một trái núi lớn vô hình từ đó bay đè lên ngực tôi. Đêm Cuối Năm thiên hạ sống cho nhau, vì nhau sao lại có chuyện người đàn bà bị xô vô hoàn cảnh phải ôm con đi lang thang trong bước đường vô định. Rồi chị sẽ đi về đâu!
Bàn thờ đã được đốt nhang, khói lùng tung trong căn nhà bít bùng tấp vô mắt khiến tôi nhớ tới hình ảnh người đàn bà ốm o, già nua, tay cầm cái ly cà phê đá, thường đi lang thang trên phố Bolsa mấy năm nay mà người biết chuyện ở đây xì xầm rằng hai thập niên trước cũng từng là một nhan sắc siêu hồn. Rồi người thiếu phụ trẻ măng kia sẽ ra sao với đứa con nhỏ trên tay cùng nỗi buồn nặng trĩu trong lòng. Lang thang những ngày Tết là chuyện nhỏ, lang thang suốt đời kéo lê theo đứa con còn hôi sữa trong nắng mưa là chuyện quá đau lòng. Tôi không dám tưởng tượng tiếp theo.
Tôi đốt thêm nhang trên bàn thờ, một hành động chính tôi cho là vô lý và thường phản đối, xá xá mấy cái cầu xin cho hai mẹ con người đàn bà không quen nầy được an lành, cũng là cầu xin người khuất mặt tha cho tôi cái tội chết nhát đã bỏ đi coi TV nên không thể giúp người cần cứu giúp.
Cái câu hăm he rợn người đó làm chùn lòng thương người của tôi thì ít mà khiến tôi xót xa thì nhiều về sự lệch lạc nhơn cách của hai người nầy. Những tiếng cuối câu của người đàn bà như những cái chấm than lớn xộn tôi tôi không tin rằng anh chồng có chỉ số IQ khiêm nhường kia hiểu được. Chắc chắn anh đã hiểu đó như những câu hỏi khiêu khích nên đã nổi máu giang hồ, một thứ giang hồ vặt chỉ đối với vợ con và người yếu đuối.
Tôi không cho rằng mình sẽ xui quanh năm vì mới qua Giao Thừa đã gặp chuyện thương tâm và những câu nói dơ dáy phải nghe, trái lại tôi chắc rằng mình sẽ sáng suốt hơn vì học được bài học qua những cái vuốt trán vô ngôn của người mẹ với đứa con nhỏ: bất cứ trong trạng huống bi thảm nào, còn đứa con thì người mẹ vẫn có thể chịu đựng được, và chịu đựng một cách ngoan cường….
(Sàigòn, sáng Mồng Một Tết Bính Thân, 2016)
Câu Hò Vân Tiên
.
Chiếc ghe chài bành ky lững lờ trôi theo con nước lớn. Cả tháng nay, chưa khi nào công chuyện của những người bạn ghe nhẹ nhàng như bữa nay. Sông lớn, nước chảy chậm, tư bề ít ghe xuôi ngược, chuyện chèo chống chỉ giao cho hai người cầm sào đi dọc từ trước mũi ra sau lái rồi từ lái tới trước mũi sửa hướng cho ngay dòng. Chẳng bù với mấy bữa qua Vàm Nao, phá Đại Ngãi nước xoáy như thác đổ, bạn ghe người nào người nấy vật lộn với sóng, mồ hôi mồ kê như tắm, mệt té ho mà cái ghe cứ xà ninh xà nang lắc la lắc lư như ông tướng thầy ba lúc thầy pháp lên đàn.
Khỏi chợ Bến Lức đâu độ chừng ăn dập bả trầu, tới khoảng chợ Đệm Bình Điền thì trời chập tối. Lác đác trên trời mấy vì sao hôm thập thò nhấp nháy. Trời sập tối tựa như tấm màn đen được giăng sẵn đâu đó tuốt luốt trên trời đợi tới giờ giủ xuống để che phủ trần gian. Trăng hạ huyền đã mọc từ lâu phết một bệt sáng óng ánh. Cảnh vật êm đềm trong gió hiu hiu mát lạnh gợi nhớ người thân thuộc ở quê nhà. Phải lấy hết can đảm Lành mới theo má bước lên chiếc ghe bự xộn này để xin quá giang. Chuyện quá giang của đàn bà con gái trên ghe thương hồ chủ ghe đại kỵ. Đất có Thổ Công, sông có Hà Ba, trên ghe trên tàu thiếu gì người khuất mày khuất mặt. Chuyện đàn bà ngày tháng có thể làm cho người ta xúi quẩy mất nghiệp như chơi. Nhưng may quá, nhờ tiếng thơm của tía từ trước, ông bà chủ ghe đã vui vẻ nhận lời. Bây giờ mình chờ đợi những gì xảy ra ở xứ văn minh sẽ tới. Một mình mình. Ghe càng đi xa phong cảnh càng lạ, càng thấy nao nao nhớ nhà. Nhớ đám mía trước sân xào xạc tận bờ sông mỗi ngày giặt giũ, nhớ hàng lu nái im lìm giữa hai gian nhà, nước mưa chứa lâu ngày ngậm một ngụm cũng đủ mát rượi cổ họng mấy lúc trưa trời nắng chang chang. Nhớ má ưa lúc thúc dưới bếp làm chuyện này chuyện kia không hở tay. Nhớ những buổi tối má con hủ hỉ dưới yến sáng lờ mờ của cái đèn con cóc dầu mù u nho nhỏ. Bây giờ những thứ thân thiết đó mỗi lúc một biền biệt, biết bao giờ mới được gặp. Còn anh Hai nữa, cả tháng nay đi làm xâu vét kinh Ông Đốc đâu miệt Tân Châu – Hồng Ngự mà chớ hề nghe nhắn nhe tin tức gì về. Nghe nói mỗi ngày nhà nước cho lãnh hai vắt cơm, mấy hột muối cục với lại một miếng khô mực nhỏ bằng hai ngón tay tréo, trả có xu rưởi không đủ mua một bánh thuốc rê mà phải hụp lặn dưới nước giầm mình múc sình xắn đất. Ở đó muỗi mòng, đỉa vắt. Mình đi đây kể như anh em cách biệt. Cực chẳng đã bỏ làng chứ thuở tía chưa bị bắt thì nhà đâu đến đổi. Mắt Lành rưng rưng, muốn thút thít khóc như ở nhà mà sợ bạn ghe chộ nên phải dằn, phải nén. Nhưng sao như có cái gì trong lòng đẩy ra làm Lành buồn man mác như lúc nhỏ bị rầy oan. Lành ngó vô góc, chỗ lườn ghe được phân khoang chứa chén dĩa kiểu. Hàng hàng lớp lớp, chén dĩa nhận giữa đống trấu đầy ắp. Được vài chục dĩa Càn Long chia chắc đở khổ. Thứ này dân chợ họ chuộng lắm. Chánh cống bên Tàu. Mua về chưng trong tủ kiếng để thiên hạ trầm trồ cũng mát mày mát mặt. Bao nhiêu họ lại không thảy tiền ra bưng về. Lành chép miệng quay về thực tế. Nhưng mà người giàu nứt vách đổ tường, kẻ không có đồng xu dính túi. Họ cho đặt chưn lên ghe là may rồi. Nếu không biết đâu bây giờ mình còn lụi đụi đâu đó dưới miệt dưới. Quá giang từng chặng mệt hơn nhiều. Chắc sáng mai tới bến. Rồi lại còn chuyện lạ nước lạ cái, hỏng biết có gặp người bà con hong. Chỉ biết họ ở chỗ xóm Đạo Chợ Đủi, gần trường con gái Chợ Đủi, mà không biết chắc ở đâu. Để nữa lên đó cất công kiếm coi. Kiếm hỏng ra là phận gái bơ vơ quê người xứ lạ đó. Lành tặc lưỡi như thấy má mình vô lý kỳ cục. Khi khổng khi không cái bắt người ta đi khơi khơi. Rồi biết chuyện gì sẽ xảy ra. Ở quê nhà bữa rau bữa cháo nhưng hủ hỉ có mẹ có con. Lo gì mấy chuyện lặt vặt ăn uống. Có mắm ăn mắm, có muối ăn muối. Với lại chim trời cá nước thiếu gì, lấy lộp, lấy nò đặt một ăn cả ngày hỏng hết. Rau cỏ mọc lu bù sau vườn, lềnh khênh thiếu điều muốn nhổ bỏ. Đói đâu mà sợ? Có lẽ má sợ tụi đầu trâu mặt ngựa trong xóm trong làng đang được thế được thần làm trời làm đất. Rồi Lành sụt sùi ngang, khóc ngon khóc ngọt. Nhớ tới lời dặn lúc chia tay càng thấy chuyện má con gặp lại mong manh như cánh chuốn chuồn. Chắc con biết chuyện người đàn bà có chồng con bị cọp ăn mà vẫn không dọn nhà đi nơi khác? Tại vì chỗ đó không có quan lại khắc nghiệt đó con. Hương chức hội tề địa phương ác độc nhũng lạm còn ác hơn cọp dữ. Bởi vậy ông bà mình mới nói: Tàn chính mãnh ư hổ. Con phải đi khỏi chỗ này để bảo vệ thân ... Giọng má run run trong nước mắt. Thân gái xa nhà hiểm nguy nhưng đi được cứ đi. Ai cũng muốn xa chốn này. Thời cuộc làm mấy thứ lộn tùng phèo hết. Làng nước bây giờ có thuộc về mình nữa đâu. Thuộc về tụi nó. Mà tụi nó móc ngoéo nhau rễ chùm rễ mớ. Người dân như mình đành chịu cảnh thờn bơn thôi. Lép một bề. Sống tới ngày nào hay ngày nấy. Đợi chờ. Mấy cây rơm trước sân kia nếu biết đi đã đi mất từ lâu rồi...
Bây giờ mình ra khỏi vòng tay của má, tự đối phó với đời. May nhờ rủi chịu. Phải quyết định lấy, không còn chuyện mỗi chút mỗi “má ơi.”
Tiếng hai người bạn ghe kéo Lành ra khỏi giòng suy nghĩ triền miên.
-Tới Ba Cụm rồi đó. Anh biết bối Ba Cụm mà, lơ mơ nó cuỗm hàng hết bị nạo tróc da đầu đó. Với lại hai gói áo quần của tụi mình. Có bề gì có nước bận xà lỏn ra chợ.
-Biết rồi, đừng làm tài khôn. Tụi nó thường đi trên ghe cui hay ghe vàm. Để cho thiên hạ tưởng đâu làm ăn chơn chất. Tụi bán vàm, bán rồi đi xuồng nhỏ xẹt qua xẹt lợi, coi trời ơi đất hỡi trái lại thiệt thà... Ở đời thiệt khó. Đâu ngờ.
-Ừ. Cũng tại bị không ngờ mà hồi nẵm có chiếc ghe chài chở lúa, tụi bối xông nhang mê xúc cha nó gần hết ghe. Tom góp quần áo vàng vòng của bà chủ bộn bàng ...
-Xuỵt. Xuỵt. Kìa cái ghe cui ở đàng sau đương cặp theo ghe mình cà. Dám mấy chả lắm chứ hổng chơi đâu. Coi bộ dạng sanh nghi quá, cứ xôm xôm tới hoài.
Lành lấy ống tay áo dụi nước mắt ngó về phía sau. Một chiếc ghe cui cũng đi theo dòng. Ghe bự bề ngang mà cụt đòn, coi quê kệt, loại ghe chở củi, chở tràm. Trong bóng tối, cái mui lỡ ngoài sau lái như một bệt đen in trên nền trời thưa thớt sao khuya. Trên đó thấp thoáng bóng hai người. Một điếu thuốc lâu lâu lóe sáng rực quơ lên quơ xuống, một cái đầu tóc khắc rõ nét trên nền trời mờ mờ tỏ tỏ xa xa. Trong bóng đêm, một giọng hò ngọt lịm lan truyền qua không khí tĩnh mịch đi thẳng vô từng lỗ chân lông người nghe. Ngọt hơn đường cát, mát hơn đường phèn. Lành rùng mình, chân tay nổi da gà. Tiếng hò quí phái như công tử ngày xưa dạo chợ, dịu nhĩu như con gái giã gạo chày đôi, chày ba hát hò dưới trăng.
Hò ơ ... Có gió đông hung mới biết tùng bá cứng
Có ngọn lửa hồng mới biết thức vàng cao
Thuyền quyên sánh với anh hào Đây không thả lá gieo đào như ai Hò ơi ... Trúc kia đã lợp cùng mai
Như chàng họ Lục sánh vai với chị Hai họ Kiều
Xin nàng giữ dạ đừng xiêu
Nếu một mai (hò ơ ...) thuyền anh ra biển Bắc, ruột đau như thắc, nước mắt dầm dề, xa cách hương quê, giáp vàng Lục Tỉnh, anh cũng liều (mà ... hò ... ơ) trở về thăm e ... m ...
Lành khớp ngang như lúc nhỏ đứng trước cây roi mây cật dài sọc của ông thầy già chi hồ giả dã. Muốn lên tiếng mà miệng cứ như quíu lại. Mở đầu nói chí mình, khuyến dụ là chuyện bình thường, cách buông vần câu thúc ở trên, phóng túng ở dưới, tỏ rằng đã lăn lóc nhiều trong câu hát điệu hò. Điệu này mình chỉ có nước vảnh tai nghe chứ không thể nào đối đáp được. Hai cái ghe tiếp tục trôi. Không gian im lặng nặng nề, âm thanh e...m.. e...em... vẫn còn bao quát đâu đây trong gió đêm lành lạnh, quấn quít trong làn da chéo áo mọi người.
Lâu lắm mới có tiếng hò đáp của giọng con gái trong trẻo, quyến rũ, nhưng ngắn gọn như bất cần lời ong tiếng ve:
Hò ơ ... Gá duyên thì phải lựa (mà) xem,
Hò ơ ... Coi thử (hò ơ ...) đó là thằng Bùi Kiệm hay anh Vân Tiên (hò ơ ...) em mới trao lời ...
Tiếng hò dứt mà Lành vẫn còn bàng hoàng chưa tỉnh. Giọng người ta trong vắt như nước nhìn thấy sâu dưới đáy, cao như nhạn lượn chín từng mây. Giọng của mình cũng có tiếng ở chòm xóm đó, nhưng mà so với người thì có nên thân nên hình gì đâu. Bất quá như mới biết múa quọt quẹt trước thầy võ vậy thôi. Đi xa mới biết trời cao đất rộng. Cao nhơn tất hữu cao nhơn trị.
Hò ơ ... Lên xe (mà) nhường chỗ bạn ngồi, nhường nơi (mà) bạn dựa, (hò ơ ...) nhường lời (mà) bạn phân ... Hò ơ ... Anh đây cũng muốn (mà) kết nghĩa giao ân
Hò ờ ... Anh không phải là thằng Bùi Kiệm, sao chín mười phần (mà) bạn lại ngại nghi ...
Lành đã hiểu, họ hò giao tình, buông ong thả lá, giả đò như họ không đi chung ghe, giả đò như không quen biết. Cũng vui. Họ mở thắt bằng ý thơ Vân Tiên, để coi đi xa tới đâu.
Người con gái bắt quàng thiệt đẹp. Vừa dẫn sách, vừa nói chí mình.
Hò ơ ... Thể Loan là đứa vô nghì khinh bần phụ khó, (hò ơ ...)
người đời (mà) được mấy kẻ ưa ...
Như vậy là quá rõ, còn đánh tiếng mình đã có nơi. Mọi chuyện đổi thay đều không hợp với luân thường đạo lý. Thường mở đầu cách này khó cho phe nam. Cánh cửa đã đóng, ván đã đóng thuyền. Nhưng giọng nam vẫn cất lên vừa tha thiết dụ dỗ, vừa khinh thường ngạo mạn:
Em ơi, gái kiếm chồng nơi giàu sang nương dựa, đặng sáng với chiều lên ngựa xuống xe, đừng lấy thằng ghe chài, sáng ngồi lườn tối nằm be, để thân con gái má phấn không kẻ chở che, uổng đời ...
Hai người bạn ghe cười với nhau. Tụi nó xách mé mình rõ ràng. Có chọc ghẹo ai đâu? Nói gì thì nói, sao mạt sát ghe chài. Tức quá. Phải mình biết hò! Họ ngó Lành như hỏi ý, như cầu hiền. Lành bối rối. Lên tiếng hay không? Mẹ dạy con gái phải ít ăn ít nói. Miệng bằng tay, tay bằng miệng đâu tốt lành gì. Thôi nhắm mắt bịt tai, ngày mai tới chỗ. Cuộc đời mới trước mặt đáng lo hơn. Vui gì mà hát với hò. Quan trọng gì mà tranh hơn thua lời ăn tiếng nói.
Xa trong đêm vắng, tiếng người con gái cất lên buộc tội:
Chuyện nợ duyên ông Tơ bà Nguyệt định bởi Trời
Anh ơi đừng giở thói bốc rời, ví như thằng Bùi Kiệm để tiếng đời hậu lai ...
Rồi bắt qua giọng khác:
Lọng che dương dầu sườn cũng lọng, ô bịt vàng dù trọng cũng ô. Trai như anh mù văn dốt võ, gái như em vẽ
phụng thêu rồng, phải chi anh là con trai của Lục Ông thì em gắng công chờ đợi chứ lấy chồng làm chi ...
Lành cười. Hay quá. Câu trả lời gián tiếp. Đáng đời. Ai biểu chọc gái. Bây giờ có nhiều chuyện không biết đâu mà nói. Lắm kẻ tình tào khang tấm mẳn bỏ lửng để vui với bọn hương chủ, hương kiểm, hương tuần dốt nát. Nhiều người bấm bụng trao duyên cùng người mình khinh bỉ, hy vọng gỡ rối cho gia đình. Chuyện đó thiếu gì. Mấy tiếng “Theo nghĩa quân chống lại Đại Pháp” như lưỡi gươm kề cổ ai ai cũng sợ. Mấy tiếng “tàn dư ngụy đảng, tay chưn bộ hạ cựu trào” như một thứ thuốc nổ làm bay cửa bay nhà. Bọn hương chức hội tề được dịp là làm tới có thương ai, có xúc động vì ai bao giờ. Chúng rảy cùng đường một lũ chó săn rình mò, nay phao vu đặt rượu lậu, mốt tố cáo bán sớt lúa trốn thuế. Đẩy xô đàn ông vào tù ngục để giở thói bóc rời đàn bà. Chúng ví như thằng Bùi Kiệm để tiếng đời hậu lai, lềnh khênh trong làng, trong xóm, khen Đại Pháp anh hùng không ngượng miệng, hoan hô Pháp Lang Sa vĩ đại không tiếc lời. Chúng sung sướng được làm chim cú nhưng muốn đậu cành mai, hãnh diện làm khỉ rừng xanh, nhưng trong bụng muốn vin cành quế. Quên câu dầu sườn cũng lọng dầu trọng cũng ô. Phận mình ra đi một phần cũng vì lẽ đó. Chúng lấp ló ngoài ngõ, rồi sẽ bước vô nhà. Ở xứ văn minh này thì khỏi đi, thiếu gì người tài. Lành cười mắc cỡ với mình. Nếu có gì, mình sẽ tự nguyện như Nguyệt Nga, ôm bức tượng đợi chờ dầu da nhăn, má hóp, dầu chân run, tóc bạc cũng được. Đời người mấy ai được gặp Vân Tiên, đâu phải ai ai cũng có thể thủ tiết như nàng Nguyệt Nga? Duyên may một đời người chưa dễ gặp ...
Trên sông đêm, tiếng hò vẫn tiếp tục, đang biến dạng tới một hình thức cao hơn, gần với bản vọng cổ hoài lang điệu Bạc Liêu ...
Bớ em ơi, em đừng thấy ăn bận quần dài áo rộng, gấm nhiễu, khăn điều, lược đồi mồi giắt tóc, giầy da bóng chưn mang, em kiến là người quân tử. Em đừng thấy ăn bận quần rách áo rưới, vải thô vải đủi nón nỉ lủng đội đầu, chân không trần sình dất, em chê là kẻ tiểu nhơn. Chớ em không quên chuyện Thạch Sanh đóng khố gãy đờn, bắt con chim đại bàng cứu nàng công chúa, về sau có ai hơn được chàng...
Bớ em ơi, em đừng học thói Thể Loan, ham nơi vinh hiển, bỏ đàng (đã) hứa duyên. Em ơi cũng đừng học thói Điêu Thuyền, sớm mơi ôm Lữ Bố, chiều về tựa kề người nó gọi bằng cha, em hãy ở sao như Kiều Nguyệt Nga, giữ niềm chung thủy sang qua kết nguyền, về sau gặp lại Vân Tiên...
Lành chập chờn trong giấc ngủ giữa tư bề sao rơi, bên tai văng vẳng câu hò trộn với những câu thơ Vân Tiên vẫn thường nghe hồi thuở nào xa xăm lắm. Trong giấc mơ, Lành sung sướng mỉm cười với hình ảnh Vân Tiên đầu đội kim khôi, tay cầm thương bạc, mình ngồi ngựa ô lẫn lộn với một tình cảm thẹn thùng bỡ ngỡ của bước đầu gặp người tình, khoan khoan ngồi đó chớ ra, nàng là phận gái ta là phận trai ...
Nước sông vẫn chảy lững lờ, chiếc ghe cui xa dần khoảng cách, trong đêm vắng mơ hồ đâu đó có tiếng người chùi xuống nước. Nhẹ nhàng, thiệt nhẹ nhàng ...
2.
Mấy ngày giáp Tết như một đám tang trong lòng Lành. Bộ mặt âm u của ông bà chủ làm áy náy mọi người. Tiếng hò được trả bằng giá cắt cổ mổ họng thắt hầu bao. Tiếng hò đu đẩy mọi người vào cảnh phiêu bồng dọn đường cho bọn bối. Gói quần áo bay bổng theo hình ảnh Vân Tiên. Cái ô nữ trang, tiền bạc của chủ ghe mất hút theo những lời lý hò huê tình ngọt lịm. Mình khổ đã đành, vì quá thờ ơ, vì không đoán trước được chuyện xảy ra. Dân chúng nghèo khổ vì sưu thuế, phải bóc lột nhau để sống. Làm gì có chuyện hát hò suông được. Họ bê bối để sinh tồn, thông minh vặt để khỏi bị hủy diệt. Mấy năm trước đâu có cảnh này. Thiên hạ hiếu khách, thích mời mọc đưa đón chiêu đãi người phương xa. Nhưng sự mất mát của vợ chồng người chủ ghe bị hiểu như một sự xui xẻo do mình mang tới. Người ta không chịu nhìn thực tế vì đâu có bối. Người ta cằn nhằn những người gần gũi. Trông mong tìm gặp bà con để rời khỏi chỗ này. Nếu hình ảnh cha mình không quá lớn trong lòng họ thì chắc mình đã cù bơ cù bất, lang thang đầu đường xó chợ rồi. Biết chuyện gì đã xảy ra. Rồi chuyện cái kiềng vàng nữa. Tên anh chị ở Cầu Ông Lãnh đã giựt ngay trên cổ mình mấy ngày trước làm mình thiếu điều muốn lọi cần cổ. Nếu không nhờ anh Nam. Phải anh Nam không? Lúc đó mình vừa mừng vừa sợ, nghe được tiếng được tiếng mất, không biết trúng tên không – bắt thằng đó phải trả lại ngay chiều hôm đó, bây giờ mình không còn đồng xu dính túi. Người sao vô tình thi ơn bất cầu báo. Từ đó tới nay cả tuần mà cũng không lảng vảng đâu đây để mình nói một tiếng cám ơn. Mình còn ở đây có bao lâu nữa đâu? Rồi chân trời góc biển, biết đời đưa đẩy đi đâu! Lành bỗng nhiên ngượng nghịu ngó xuống hàng nút bóp của cái áo bà ba mới hồ dương giấy hiệu Nhảy Đầm hồi hôm qua. Mình phải lòng rồi. Nhớ nhung, trau chuốt. Nguyệt Nga đã gặp Vân Tiên. Nhưng mà kết tuồng có chăng như ý? Ngó lên bờ, mọi người như đã rút hết vô nhà để sửa soạn cúng ông bà, chờ giờ tốt xuất hành đón Xuân hái lộc. Từng đống dưa hấu tràn đường, cao nghều nghệu như núi, mấy trăm cần xé cam quít, cả dọc ghe chuối, cả đoàn ghe hàng bông mấy bữa trước, tưởng chừng không thể nào tiêu thụ hết, bây giờ chỉ còn trơ trọi mấy đống rác rến ngút ngàn. Bữa tiệc thịnh soạn cho bầy ruồi xanh vu vu khó chịu. Như bãi chiến trường sau cơn giặc và chiến sĩ không may của cả hai phe... Lành nao nao với sự so sánh bi quan vừa hiện ra trong trí. Có lẽ mình chịu ảnh hưởng của cuộc hành trình vừa qua. Có sóng gió, có trộm cắp, có hình ảnh Nguyệt Nga tự trầm. Không nên. Có gì đâu? Còn cái kiềng vàng. Người còn thì của cũng còn. Mấy bộ đồ vạt của bà chủ cũng tạm đỡ mấy ngày Xuân. Tìm được nhà bà con rồi thì mọi chuyện sẽ đương nhiên giải quyết. Bữa nay mồng một Tết mình cú xụ nữa thì sanh giặc.
Lành sửa soạn cái cười thiệt tươi chào hai vợ chồng khi họ từ tấm bửng sửa soạn bước lên ghe sau khi đi xin xăm về. Người đàn bà tươi cười nói với Lành, chỉ về phía chỗ đoàn múa lân đang tụ tập, chỗ có tấm bia ông cọp trước đình Cầu Muối.
- Lành, em lên bộ coi lân Sài Gòn kìa. Vui lắm, mấy thuở lên đây gặp dịp Tết... Rồi như đoán trước được lòng Lành, bà ta nói thêm:
- Ối, hơi sức đâu mà buồn. Chuyện năm cũ hao tài khỏi tán mạng, nó lấy gói quần áo của em, như gánh cái xui xẻo của em. Sang năm mới sẽ khá hơn. Coi lân đi. Để ghe cộ đó dì coi cho. Ngày tư ngày Tết mà. Nếu có thì giờ ghé chùa Bà xin lá xăm đầu năm. Bà linh lắm. Đi dọc theo mé sông tới đầu chỗ đường Bồ Rệt thì thấy liền ...
Để vui lòng người, Lành dạ dạ rồi bước lên tấm bửng lên bờ, nhập vào đám đông đang bắt đầu lũ lượt. Từ xa nhạc trống lân dồn dập, tiếng trống tùng tùng, tùng cắc có sức hấp dẫn kỳ diệu. Lành nhập vào đoàn người thưởng ngoạn hồi nào hổng hay. Giữa vòng khán giả, đoàn người múa lân ăn bận quần áo võ sĩ gọn ghẽ tề chỉnh giống như tấm hình vẽ trên tờ giấy bản mục nát, mối ăn lỗ chỗ được cuộn tròn nhét phía sau trang thờ mà Lành thường được coi trong mấy ngày giỗ lớn của gia đình. Lành nao nức và tự thấy mình lạ lùng. Họ múa lân, họ đánh võ, họ biểu diễn thương, đao; chuyện này thường quá, có gì đâu? Mọi năm đoàn lân Phụng Hiệp bắt đầu múa riết từ xế chiều ba mươi tới hết ngày mùng năm, coi đà mãn nhãn rồi. Nhưng lân Lục Tỉnh quê mùa rẫy bái thế nào cũng thua lân chợ, chánh cống Sài Gòn. Quần áo bình thường bà ba vải ú đen, chưn quen đạp sình đất, nức nẻ, múa hay thì có hay đó nhưng mà thấy nó kỳ kỳ. Quần áo của đoàn lân này xao xuyến lòng Lành. Ống quần cột túm bằng dây cao su ràng rịt lên tới ống quyển. Áo chẽn, thắt đằng chỗ bụng, có vẽ cái đầu lân đỏ chói phía sau lưng. Nón lá nhỏ vành, sơn đỏ, trên chóp có đính một cái ngù nhọn lễu. Giống hệt như chú lính thú ngày xưa trên Cao Man, Cần Giọt, chỉ có điều họ không có đầu tóc. Họ cũng không để râu. Nhưng bao nhiêu đó cũng đủ để kỷ niệm hồi còn nhỏ hiện về. Cặp mắt thành kính, mấy ngón tay run run trân trọng của tía trước mấy cây bạch lạp lung linh, khi vuốt tấm hình:
-Ông con đó. Người lãnh chức Cai Đội trong đoàn nghĩa quân của Trương Công, chịu trách nhiệm từ bờ sông bên này Cần Giuộc tới cửa Gò Công, ra mút tới mấy Hòn Đất, Hòn Cu ngoài biển. Sau này, Trương Công bị phản, quy thần, nghĩa quân tan nát. Người dắt dìu tía về đây, giờ thì mọi sự đổi thay, cơ trời chuyển dịch, lòng người ly tán. Tía chỉ mong giữ gìn tiết tháo, hốt thuốc giúp đời, đợi ngày theo ông bà. Chuyện đội đá vá trời để người tài đức ...
Cặp mắt tía long lanh, mơ màng. Chút hãnh diện về dòng dõi lâu lâu mới được nhắc tới pha với sự an phận thủ thường của một cuộc sống tránh né lâu ngày chầy tháng thấp thoáng trong ánh mắt nhìn mông lung đó. Hai tía con ngồi ngó ra cửa hèn lâu, mọi người theo dòng suy gẫm của riêng mình...
Trời càng xế trưa, càng nhiều người túa ra từ mấy căn nhà xa xa trong xóm, theo tiếng trống thúc giục. Con lân có hàm râu bạc dài ngót gang tay đang quay bên này, nghinh bên kia chờn vờn như hí cầu, múa sừng như tranh châu trước căn nhà có treo tiền. Cặp mắt lồi nhúc nhích, trợn dọc trợn ngang. Cái miệng lớn tổ chảng hoác ra quặp lại như sẵn sàng nuốt trọng ai dó trong đám người bu quanh. Cái sừng chiết đen thui, cong queo, mỗi lần chồm tới như muốn rạch bụng người coi. Ghê thiệt. Nghề này mình đâu có phải tay mơ. Múa đầu lân bằng hai tay đã đành mà múa luôn hai cẳng với những cái đá, cái co chưn, cái thủ bộ lẹ làng gọn ghẽ, dòm sơ qua cũng biết tay nghề. Mười mấy phong pháo nối với nhau rũ từ mái nhà xuống gần sát đất, được châm ngòi. Tiếng nổ lốp bốp đùng đùng làm tai ai tai nấy đều kêu vo vo. Con lân, lạy thụt lùi ba lạy trước ngạch cửa. Nó ngước lên ngó cái cờ đỏ thêu mấy chữ vàng “Cầu Ông Lãnh Hoa Việt Thanh Niên Lân Hội” lòng thòng mấy cây cải “xà lách” và một dọc giấy “ngẩu” mới tinh được treo chót vót trên nóc nhà rồi múa loạn xạ như giận dữ. Những tiếng chắc lưỡi hít hà nổi lên đây đó. Đã thiệt. Nặng bộn chớ bộ chơi đa. Múa coi nhẹ hổng, như Hạng Võ cử đỉnh. Cả giờ rồi coi bộ có thấm thía gì đâu.
Một nhúm năm người lo dựng lên một cây tre tầm vong già, bự bằng bắp tay, cao nghều nghệu. Họ lấy thế kềm cứng vây tre. Con lân múa một vòng, ngó lên, ngó xuống như ước lượng trước khi leo. Trò này Lành đã được coi một lần ở chợ Cần Thơ lúc nhỏ. Người múa lân máng cái đầu lân vô một cánh tay, leo lên cây tre thẳng tắp, trơn lu. Tuốt trên chót vót có xỏ ngang một thanh tre nhỏ, anh ta sẽ nhào lộn trên đó, trong tiếng trống. Chòm râu trắng phất phơ theo chiều gió, oai phong lẫm liệt như lão tướng xung trận. Thình lình tiếng trống gò lại nhỏ hơn, rời rạc hơn, con lân bỗng nhẩy phóc đứng trên một cái ghế đẩu múa may một đổi rồi đưa ra một chưn thẳng tắp. Từ trong đám võ sĩ đứng đàng sau, một con lân râu muối tiêu nhỏ thó, mặt mày cũng vằn vện vậy, nhưng có vẻ nhu mì hơn, chầm chậm bước ra. Cách đi đứng múa may, chờn vờn cũng nhẹ nhàng phong nhã, phiêu hốt. Nó lạy con lân râu bạc ba lạy rồi chun qua dưới chưn chầm chậm, khép nép như sợ sệt. Lành ngạc nhiên. Thói thường chỉ có lân lạ mới lạy chạy mặt nhau thôi. Còn đây hai con lân cùng đoàn mà. Họ làm ăn cái gì kỳ cục vậy?
Có tiếng oang oang của một người muốn cho thiên hạ biết mình ta đây thông thạo:
-Lân Cầu Muối lạy tôn lân Cầu Ông Lãnh làm đại ca đó. Nó chịu nhục lòn trôn giữa chợ. Như Hàn Tín lúc thất thời. Tám năm rồi, năm nào nó cũng phải làm cái mửng này. Có năm còn bị phun nước miếng lên sừng. Có năm bị giựt râu ...
Người khác kể rành rọt lớp lang ý chừng là dân cố cựu, nhao rún ở đây:
-Từ hồi có trận chém lộn ở xóm họ đạo Chợ Đủi gần chỗ mả của Á Thánh Gẫm vì chuyện giành múa cho nhà thông gia của Bá hộ Xường, Sáu Tiết, anh chị của lân Cầu Muối, bị chém chết, đoàn lân rã đám. Nhưng Út Hồng, anh chị bự của lân Cầu Ông Lãnh, cứ cho làm chuyện kỳ cục này hoài. Mỗi lần coi là mỗi lần tức muốn bể bụng, nhứt là nhà mình ở xóm Cầu Muối. Tuy hổng ăn nhập gì tới mình, nhưng mà khó chịu ...
-Anh biết tại sao không? Út Hồng thấy một vùng nhỏ híu bằng bụm tay mà có hai anh hùng. Như nước có hai vua vậy mà... Làm sao anh ta chịu được nên bắt tay với đám “mã thầu dậu” ở Chợ Lớn, đám Tây u xếp tụi bồi bếp ở Bồn Kèn lừa dịp chém lén Sáu Tiết trong khi hai đàng đã hứa với nhau là bất tương xâm, chỗ ai náy ở, đường ai nấy đi...
Ngừng một lúc như để lấy hơi, ông ta nói thêm, có dây có nhợ:
-Tội nghiệp đám em út, lớp bị mua chuộc, lớp giải nghệ, tứ tán hết. Đã vậy mà Út Hồng còn chưa bằng bụng nên diễn tích nầy để làm nhục mấy tay anh chị còn sót lại của lân Cầu Muối chơi. Thêm nữa, để dằn mặt mấy người muốn làm sống lại đoàn lân cũ. Bây giờ họ một mình một chợ, muốn làm mưa làm gió gì hổng được? Ai vô đó mà cản họ? Nhưng mà... làm vừa vừa chứ. Làm quá ai mà nhịn...
Lành nghe hết câu chuyện. Cô lắc đầu. Thiệt hết chỗ nói. Chết rồi mà cũng không yên. Người ta giải tán rồi còn kéo ra làm xấu làm hổ. Vậy cũng mang tiếng anh chị một khúc sông, một bến chợ. Người theo mình trùng trùng điệp điệp đâu cũng ngót nghét cả trăm có ai tranh cãi gì đâu? Làm chi chuyện thù vơ oán chạ. Nhẹ thể mà thêm mất lòng mất bề.
Tiếng trống vẫn tiếp tục nhẹ nhàng, lơi nhịp. Con lân râu muối tiêu vẫn kiên nhẫn lòn tới lòn lui dưới chưn con lân râu bạc vênh vang. Những giọng cười thinh thích hăng hắc chen giữa những cái nhăn mặt xốn xang trong đoàn võ sĩ. Một vài tên anh chị đâu đây xì xào mấy tiếng chửi thề bất bằng “đ. họ” và những cái háy nguýt nháng lửa. Không khí căng thẳng như bữa dàn trận chém lộn hồi năm ngoái ở Lăng Tô giữa đám anh chị bên Khánh Hội với mấy tay tổ xóm Cầu Kiệu mà Tây Tà phải trầy vi tróc vẩy mới giải tán được...
Nghe chuyện, mình là đàn bà con gái mà cũng giận tím gan, cũng bức rức khó chịu. Như bến mình đậu ghe thiếu mặt anh hùng. Như đã lầm trao thân gởi phận nhằm anh chồng bị thịt, giá áo túi cơm...
Nhưng Lành không phải bực bội gì lâu. Chuyện tức nước bể bờ trước sau phải có... Con chó dồn nó vô chưn tường nó còn quay lại cắn, huống chi người. Một tiếng hét muốn bể lỗ nhĩ từ trong đám võ sĩ rồi một người hai tay cầm hai thanh mã tấu bự bản, đưa thẳng lên trời nói trong nước mắt:
-Đại ca ơi... Em chết bữa nay. Em chịu hết nổi rồi. Tụi nó làm ô nhục mình quá. Em chết thiệt đẹp, thiệt ngọt
để rửa nhục cho anh em mình nè đại ca...
Anh ta hươi đôi mã tấu sáng loáng a thần phù vô chém con lân Cầu Ông Lãnh. Anh chàng múa lân hết hồn lật đật đưa đầu lân ra đỡ. Hai thanh mã tấu phụp xuống ngọt như thể lướt qua thân cây chuối non. Cái đầu lân bị xả làm ba miếng lủng lẳng trên nan tre. Một tiếng ra lệnh bằng giọng Việt Nam trại trại nhưng sắc như dao thét lên từ đám người bận đồ xá xẩu đứng lu bu chỗ ông địa làm trò.
-Chém nó. Chém chết nó đi, thằng phá đám, thằng phản thùng ...
Đoàn người đi chợ Tết coi lân kinh hoàng chạy túa như ong bể ổ. Tiếng hét, tiếng la, tiếng dao chặt vô thịt, tiếng người ngã, cả thảy hợp thành một âm thanh khiếp đảm, chết chóc như trận giặc chòm. Lành bụm mặt chạy thục mạng để khỏi phải thấy loạn đao trên thân thể một người. Trong cơn hoảng hốt bất chợt Lành mơ hồ thấy người anh chị yên hùng đó có gương mặt phảng phất anh Nam...
3.
Ngày Tết qua lâu như cả chục năm dài. Câu chuyện thằng Nam Cầu Muối chém lân Cầu Ông Lãnh để chịu chết chuyền từ miệng người này sang người khác. Nhiều người thán phục, lắm kẻ chê bai, ai cũng có lý riêng: Anh hùng, xuẩn động. Nhưng ai cũng là người đứng ngoài. Bàng quan mạnh miệng. Riêng Lành đau thấu tim gan. Người chết xuất hiện trong đời một lần thôi, nhưng như từng nối kết thân thuộc từ muôn trùng thời gian của thời Bàn Cổ. Việc ghi ơn giờ đây trở thành nhỏ nhoi so với hành động yên hùng. Câu nói, chết để rửa nhục cho anh em nhảy múa trong đầu Lành khi ăn khi ngủ. Vang dội trong trí lúc đi chợ, nấu cơm. Nó kéo hồn Lành ra khỏi thân xác, nhập vô cảnh giới nào đó mù xa trên chín từng trời. Nó giở hổng Lành lên khỏi mặt đất, lửng lơ, tách khỏi thế giới trần tục bợn nhơ. Lành trở thành xa vắng trong khi có mặt, ngủ say trong khi đi đứng bình thường.
Nhiều lần bà chủ ghe liếc Lành chắc lưỡi nói với chồng:
-Tội nghiệp. Con nhỏ sao mà như mất hồn. Nó lơ ngơ láo ngáo cả ngày. Điệu này làm sao nó kiếm cho được nhà bà con. Hổng biết rồi mình giải quyết làm sao. Bỏ thì thương, vương thì tội...
Lành bắt gặp tiếng thở dài chấm câu sau câu nói. Tiếng thở dài thương hại đặc biệt đàn bà. Nàng nghĩ mau về Nam. Về Vân Tiên. Về Nguyệt Nga. Về trường hợp mình. Sao lại tự nối kết đời mình với một người chưa chắc đã biết tên mình, chưa tỏ một chút gì tình ý, hơn nữa đã chết rồi. Chắc mình bị oan hồn xui ghẹo. Hồn người chết đâm chết chém vất vưởng không siêu độ được phải tìm chỗ nào đó tạm trú. Làm cô hồn. Làm một thứ ma đưa lối quỷ đưa đường. Phải đi ra Một Hình van vái mới được. Mình thề sẽ thương yêu kính mến anh ấy trọn đời và cầu vong hồn anh được siêu độ. Vừa thề vừa vái. Một công hai ba việc.
Bộ đồ bà ba cổ bà lai bà chủ cho hôm Tết được lấy ra mặc. Cái áo hơi rộng, nhưng coi bộ còn tốt, cái quần vừa vặn. Lành vắt ngang cái khăn rằn quanh cổ, buông lòng thòng hai đầu xuống, đong đưa trước ngực, xăm xoi ngó vô kiếng, mỉm cười với mình, rồi đon đả lên bờ. Trời xê xế, đèn đường bắt đầu được thắp. Trên đường Lò Heo, mấy con heo bị dồn trên xe cá chở vô lò kêu en ét buồn thảm đến nhức đầu. Phía gần Đường Giữa chỗ hẽm nhỏ nối với đường Boresse, xóm Lồng Đèn Kỹ Nữ, đã bắt đầu thắp sáng đỏ xanh. Lành bước mau, đỏ mắt vì mấy cái nhìn sàm sỡ của khách tìm hoa. Mấy cái xe kiếng lợp bợp móng ngựa trên đường chen với tiếng ken két ê răng của niền bánh nghiến trên mặt đường đá. Từ xa, xe lửa điện Sài Gòn – Chợ Lớn xẹt lửa trên nóc, in một đóm lửa tua tủa ra như pháo bông trong đêm càng lúc càng rõ, tới gần, qua mặt Lành rối ngưng ở nhà ga Cuniac. Lành vui vui với xứ văn minh về đêm. Đèn đuốc sáng trưng, người ta đi lại dập dìu. Chẳng bù với xứ khỉ ho cò gáy quê mình, mới sụp mặt trời ai ở nhà nấy, buồn thỉu, buồn thiu …
Từ Một Hình, Lành thả dài theo bờ sông, về lại ghe, kiểng nhà thờ Nhà Nước rềnh rang đổ tám giờ. Nam thanh nữ tú dập dìu chỗ vườn bông Đô Đốc.
Mấy thầy thông thầy ký mang giầy “ăn phón” da bóng ướt sức giở lên làm kiếng soi mặt nhổ râu được, áo bành tô vải ka ki bốn túi, đầu chảy bảy ba, cặp tay mấy cô tân thời, đầu tóc lòng thòng khỏi vai, có cái đuôi bánh lái, coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Thấy xốn mắt.
Đánh đôi đánh đo cũng có khi có thì, có nơi có chốn, sao lại đem ra chỗ thập mục sở thị. Mấy ông mấy ngài còn theo nếp xưa, áo dài nhiễu đại đóa dài tới gối, quần the rộng ống, chân mang giày Canavaggio, đội nón cối trắng, râu ngạnh trê vuốt sáp nhọn lễu, đề huề dạo với vợ con, nói năng nhỏ nhẹ, cử chỉ từ tốn. Mấy thầy chú ngó Lành lườm lườm như ngạc nhiên, như muốn nuốt sống. Con gái sao một mình lang thang chỗ này. Lăng Tô là chỗ của những cặp tình nhân, những người có gia đình. Lành thẹn thùng ngó xuống đất, rảo bước thẳng. Xứ gì kỳ cục, đàn ông, đàn bà cặp kè. Cột cờ Thủ Ngữ cao nghệu, Tây Tà rượu chè ồn ào thấy sợ. Phía cầu Quây, khúc giữa giòng sông đương được quay xuôi theo dòng nước nhường chỗ cho tàu đò chạy qua. Mấy người đi chơi đứng hai bên cái cầu thiếu đó cười cười nói nói, chỉ chỏ vui vẻ. Chuyện lạ lùng. Chừng nào về quê phải kể cho má nghe mới được. Cầu Quây đương là cầu biến thành sông. Từ bến Khánh Hội, mấy tay anh chị bến tàu thả xe đạp Alcyon trắng nỏn qua dốc cầu Móng dài dằng dặc. Coi vui vui.
Tiếng người nào đó bên tai Lành nhột nhột khi Lành qua chỗ nhà băng xây bằng đá cao nghều nghệu. Xin lỗi cô Hai... dám nào cô dừng chân cho hỏi... Mắc cỡ đỏ mặt. Lành ngúng nguẩy bỏ đi. Chuyện chưa có gì hết nhưng mà thấy có tang lòng. Mấy lời van vái trước ông Một Hình làm mình nhẹ nhỏm hơn. Bây giờ trên tinh thần mình thuộc về hương hồn anh ấy. Phải xứng đáng với người chết anh hùng. Chết rửa nhục. Chết để khỏi cúi gầm mặt cho chúng bôi tro trét trấu. Thiệt thòi phận gái một chút cũng không sao. Thiên hạ có ai xứng đáng hơn đâu. Cuộc đời lạ lùng. Câu hò trên sông của tụi bối Ba Cụm ứng như lời thầy bói linh. Rồi đây cuộc đời mình tuy buồn thiệt nhưng đẹp, thơm như hoa dạ lý tỏa hương, như tiểu thơ họ Kiều kia thề không để tiếng chê cười, như người bội bạc:
Dầu ai buông tiếng ngọc dầu ai đọc lời vàng
bông sen hết nhụy bông sen tàn
em đây giữ tiết như nàng Nguyệt Nga
....
chẳng thà em chịu đói, chịu rách theo cách bà Mạnh, bà Khương…...
chớ không như Võ Hậu đời Đường làm cho bại hoại cang thường nhơ danh, chẳng thà nghèo khó ở túp lều tranh
chớ không đành bội nghĩa như cha con Võ Công tham tài ...
Anh Nam đã thắp một ngọn đèn cho bạn hữu để họ thấy cái nhục. Rồi sẽ có những ngọn đèn khác. Rồi sẽ có người nhờ yến sáng đó mà mở mắt ra. Rồi những người trai trẻ đang rèn tập võ nghệ mỗi chiều ở đường Lò Heo sẽ thấy lại được cái nghĩa sống. Mình có đớn đau trong dạ cũng có nhằm nhò gì đâu đối với cái chết của người anh hùng. Lành nói với mình chắc như đinh đóng cột: “Mình sẽ thủ tiết. Phải thủ tiết. Có gió đông hung mới biết tùng bá cứng, có ngọn lửa hồng mới biết thức vàng cao. Mình sẽ ở vậy. Hay ít ra chờ đến khi gặp được một anh Nam khác.” Nụ cười sung sướng nở trên môi Lành. Bên kia sông mấy ngọn đèn lù mù trước mặt Sở Nhà Rồng bỗng nhiên sáng rực như nhà đèn Chợ Quán vừa đổ thêm than vô lò. Lành bước mau về phía Cầu Chong. Gần tới chỗ ghe đậu rồi. Phải thắp cho anh ấy mấy cọng nhang. Gió sông Quai de Belgique thổi lên phơi phới, mát rượi. Chỗ ga Cuniac, ban nhạc kèn đồng vẫn say sưa biểu diễn, âm thanh xập xình vang dội xuống mé sông làm bập bềnh mấy chiếc ghe thương hồ đương triền miên trong giấc ngủ. Lành mĩm cười, bước mau, trong trí vang dội mấy câu thơ Vân Tiên vừa chợt hiện:
Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.
(San Antonio những ngày mới tỵ nạn ở Mỹ)
Chiếc Ba Lô Để Lại
1.
Sau cơn mưa, đường ngập linh láng như biển. Chiếc xe 14 chỗ ngồi của chúng tôi vừa lội vừa thở phì phò,xém tắt thở nhiều lần mới thoátđượcvùng ‘biển hồ’ Minh Phụng đểquẹo vô đường 3 Tháng Hai. Khúc nầy tương đối ít ngập, chỉ tới nửa bánh, xe cộ vì vậy cũng nhiều hơn. Nước không còn tạt vũ bão ra hai bênhông như trước mà phóng ra với vẽ hiền thục dễ thương. Sau thời gian đụt mưa thiên hạ gấp về,nhiều anh vọt lẹ, lắm khi xẹt qua đầu xe lớn đương ngon trớn mà coi như không,khiến anh tài xế lâu lâu lại chắc lưỡi lắc đầu.
Bỗng nhiên có tiếng thắng mạnh.Mọi người bị giựt ngược, tỉnh ngủ. Tài xế mím môi, la lớn:
‘Khiến!’
Rồi anh xuống giọng như nói với mình:
‘Không mau chưn mau cẳng thì bà hú nó rồi!’
Hành khách trong xe nhớn nhác ngó nhau. Hai ba người đàn bà đưa tay vuốt ngực.
Chiếc xe giatốc,chồm tới,cố gắng bắt kịp người thanh niên phóng bạt mạng kia.Đèn đường bật lên đỏ. Cả hai đậu song song chờ.Tài xế quay cửa kiếng xuống, chồm đầu ra ngoài, phun nước miếng cái phẹt xuống đường,nói lớn với kẻ làm anh giựt mình hồi nảy:
‘Mầy đứng lại cho tao lạy mầy mấy cái chớ mầy chạy kiểu đó chắc tao chết vì đứng tim. Mầy tội nghiệp tao với chớ! Tao đâu có muốn vô tù đâu!’
Người thanh niênnhăn răng cười rồi chỉ chờ đèn đường bên kia vừa bật qua màu vàng là phóng thẳng bất kể những chiếc chót của làn lưu thông ngược chiều chưa qua hết khoảng đường trước mặt.
Tôi cười thầm. Anh tài xế nầy nói chuyện có văn hóa giao thông ghê. Chẳng bù với tháng trước tôi ngồi trên xe buýt, cũng trường hợp tương tợ, tên nhóc tì phụ xế kiêm bán vé đã ló đầu ra ĐM lia chia rồi tuyên bố một câu xanh dờn:
‘Mấy muốn tự tử thì về nhà mà tự tử, ngon thì vô đồn công an mà tự tử. Mầy nên nhớ mạng mầy chỉ có ba chục triệu thôi không hơn đâu.’
Không khí im lặng nảy giờ trở nên sôi động bằng những lời bàn tán chung quanh chuyện chạy ẩu của xe nầy xe kia. Anh tài xế nói lớn:
‘Làm nghề nầy thấy cái chết của thiên hạ quá thường nên nhàm luôn, trở thành vô cảm trước máu me.Chết vìchạy ẩu xị, chết vì do xe lớn lấn đường, do tài xế mệt mỏi, xỉn xay, ngáo đá, hay do đường xá xấu hư làmlạc tay lái... Muôn ngàn lý do, kề tới mai chưa hêt!.’
Tôi lên tiếng cho vui:
‘Chết vì tài xế mua bằng nữa đó cha nội.Học ba xí ba tú, lái chưa rành, mót tiền quá chạy đi mua bằng, lên xe ngồi điều khiển mà không hiểu luật lạivụng về nên thường làm chết thiên hạ rồi bỏ xe lẫn trốn…. chuyện nầy xảy ra hà rầm.’
Anh tài xế dễ thương tuy nghe nói đụng chạm tới giới của mình nhưng vẫn làm thinh.
Tiếng ai đó, giọng của người đứng tuổi:
‘Thét rồi hết muốn ra đường. Sợ quá! Những cái chết nát thây không báo trước. Còn hơn là ngày xưa đi hành quân hay nhảy toán. Đời sống bây giờ thiệt là bất an!’
Không khí trong xe tới đây thì lắng xuống, ai nấy theo đuổi tư tưởng mình.
Khi xe quẹo vô đường Nguyễn Kim thì người bạn tôi nói vọng ra sau:
‘Nếu chừng mờ mờ sang đi tới đây, góc Nhật Tảo và Nguyễn Kim nầy, dưới gốc cây dầu bự chảng bên tay trái, thì sẽ gặpmột người đàn ông còm cõi đứng phụ vợ bán bánh giò.Đó là người bạn lính trước đây cùng đơn vị của tôi ở Pleiku. Anh ta tên Thanh, bị lựu nổ mất nửa bàn tay mặt, đương chờgiải ngũ thì đứt phim.Lãnh lịch hết gần chục có đầu. Nay gặp lại bạn bè xưa nhiều khi anh làm lơ hay ngồi cho có mặt, thường ngó mông lung.Lạ lắm!’
Tôi ngạc nhiên hỏi lại vì cái chép miệng sau khi xuống giọng của bạn:
‘Chục có đầusao không đi H.O. mà ở lại cho cực thân.’
‘Vậy đó!’
Tôi không biết gì thêm từ hai tiếng trả lời gọn lỏn kiểu miền Tây của bạn nhưng biết chắc chắn rằng ngườiđàn ông phụ vợ bán bánh kia là người đặc biệt. Và tôi thấy mình cần phải tìm hiểu anh ta.
Vậy mà sau gần cả tháng tôi mới làm thân được với Thanh. Cũng nên kể ra đây lần gặp gỡ của tôi với Thanh.
2.
Sáu giờ sang trời còn lờ mờ nhưng thành phố đã thức. Những người lớn tuổi đi bán giấy số bắt đầu đổ xô ra đường.Mấy chiếc xe bán thức ăn nầy nọ đã được đẩy ra vị trí và đốt lò. Tôi thay quần sọt ra đi tới chỗ người bạn tôi chỉ hôm nọ và ngồi xuống một cái ghế nhỏ không thể nhỏ hơn để kế bên hai xửng bánh bao bánhgiò của cặp vợ chồng nầy. Người vợ luôn tay lấy bánh bỏ vô bao xốp trao cho khác với nụ cười giao tế.Người chồng lãnh nhiệm vụ thâu tiền.Nụ cười cũng có trao đổi với khách nhưng hơi gượng gạo. Tiếng cám ơn luôn luôn thốt ra mỗi khi anh hoàn thành một dịch vụ.
Ngồi câu giờ cố ăn hết một cái bánh bao và một cái bánh giò nóng, tôi liếc chừng chừng quan sát con ngườiđặc biệt kia.
Hình như anh ta cũng bắtthóp được ý định của tôi nên thỉnh thoảng đưa mắt ngó. Tôi phóng ra con bài ngoại giao bằng nụ cười và cả cái nheo mắt nhưng anh cố tình làm lơ. Ăn xong ý chừng đã ngồi hơi lâu tôi mua thêm một cặp bánh nữa và đưa cho anh tờ giấy nửa triệu, với câu nói nhỏ:
‘Anh khỏi thối, mình xin phép được chia sẻ với anh.’
Tôi nhận được câu trả lời lạnh băng như là người đối thoại cố tình làm cho mình tức giận:
‘Chúng tôi buôn bán, không ăn xin! Anh cầm tiền thối.’
Tôi vớt vát:
‘Mình cùng cảnh ngộ ngày trước’, tôi thấy mình hay ho tận mạng khi đem ra xài mấy chữ nầy,vừa nói vừa ren rén ngó mau về bàn tay phân nửa của anh ám hiệu rằng cùng là cựu quân nhân.‘Bây giờkhá hơn anh nên xin chia sẻ. Anh nhận để mua quà cho các cháu.’
Người bán hàng đẩy mạnh tay tôi ra với số tiền thối lại, quyết liệt:
‘Chúng tôi không có con. Xin lỗi anh. Anh cầm. Tôi còn phải thối tiền các khách khác.’
Thế mà tôi vẫn kiên nhẫn lập lại lời yêu cầu nầy hai lần tới sau đónữa. Lần thứ ba thì anh chắc lưỡi, bỏ tiền thối vô xấp tiền anh cầm. Chắc là lần nầy nhờ tôi nhắc tên người bạn chung. Tôi ngồi nán lại để anh dãn khách,nói vài ba câu vô thưởng vô phạt rồi ra về. Hai bên nói chuyện tâm tình bên mấy ly trà nóngmột cách tự nhiên những lần sau đó…
3.
Tôi ra trường với lon Thiếu Úy lúc 24 tuổi, tình nguyện vôbinh chủng cọp ba đầu rằn.Thời chiến chinh, mỗi người làm hết bổn phận mình trong chức vụ mà xã hội phân công, cách nầy hay cách khác, đó làđiều bắt buộc. Cam đảm hay hèn nhát gì cũng không bằng hên xui: bà độ hay bà xô vô chỗ tử. Phải giữ vững tinh thần, lương thiện và không nghĩ đến cái chết mới sống đúng nghĩa người trai. Hơn một năm sau khi ra trường tôi về tiểu đoànsau khi lên Trung Úy.
Những lúc rảnh rỗi, ngó lại anh em dưới quyền trong đơn vị, so sánh vớicuộc sống lạc điệu của hậu phương, tôi cũng văng tục thầm. Mẹơi, hậu phương làm mình giận muốn nổi cơn điên. Cho nên binh sĩ dưới quyền, tôi thương hết biết. Nhiều đứa đi phép về trễ vài ba ngày tôi cũng nạt nộ để tụi nó không lờn nhưng báo cáo hay làm gì đó nặng hơn thì không.
Cầm đầu phải làm gương, tôi xông vô nguy hiểm coi như đạn có bổn phận tránh mình. Cũng làm thơ hào hùng kiểu Hồ trường: Ta xông pha hề, trận mạc. Coi tử sinh hề, cỏ rác dưới chân. Thỉnh thoảng hớp ngụm rượu của đàn em rồi sảng khoái ngâm nga tử sinh hề, cỏ rác… vui đời lính, thươngđồng đội, quên mình đương ở tuổi cần có bên mình một bóng hồng…
Trong trận Hạ Lào năm đó, Tiểu đoàn tụi tôi bị tụi nócầm chưn. Được bỏ thêm để giải vây cho đồng đội, nhưng chúng tôi bị lún. Chúng pháo kích ngày đêm nhưng tấn công lần nào cũng bị tiêu diệt trọn. Bên mình cũng hao bộn do mỗi lần một ít. Tôi được lịnh là sáng mai lúc trời hơi tan sương mù thì trực thăng bốc, ưu tiên thương binh.
Vậy mà chuyện đau lòng xảy ra đêm đó.
Thằng Tánh trung sĩ thường trực, đệ tử ruột của tôi bị nạn. Cái thằng cũng trí thức lắm, nó rớt Tú Tài nên đi Trung sĩ. Khuya tôi đương thiu thiu ngủ sau ba ngày trắng dờ con mắt thì nghe báo cáo Tánh bị đạn nặng lắm. Tôi nói nó ngủ trong hầm mà bị đạn cái củ c. gì. Nãy giờ có trái nào nổ gần đâu.
Thiệt ra thì khuya thằng con bò ra ngoài đi tiểu. Miểng nhỏ pháo kích từ đâu bay ra cắt đứt mạch máu chủ ở háng.
Tôi tới thì anh em đương xúm bên nó, lo lắng. Quân y cố hết sức cầm máu. Thằng Tánh thấy tôi thì mắt sáng lên nói thiệt lẹ, rõ ràng:
‘Em không sao đâu Trung Úy.Chuyện nhỏ! Sẵn dịp lên trực thăng về thăm vợ luôn. Con vợ em đương có bầu ba tháng. Chắc nó cũng nhớ em.’
Tôi đuổi mấy đứa không có phận sự ra chỗ khác. An ủi nó. Nó cứ lập đi lập lại hoài điệp khúc ‘không sao đâu là không sao đâu’. Bác sĩ Quân Y ngó tôi với cặp mắt buồn, nói thiệt nhỏ trong khi thằng Tánh vẫn nói không sao đâu:
‘Không xong, máu ra nhiều quá, vết thương lớn không bịt được.’
Nó thấy mặt tôi buồn chắc là hiểu được điều chúng tôi trao đổi nên trở giọng:
‘Em lạnh quá Trung Úy! Có bề gì thì Trung Úy mang ba-lô em về cho bà xã em. Bả tên Trinh, địa chỉở trong đó. Tiền lương tháng nầy với phần còn lại từ trước cũng mấy ngàn. Nó cấn thai được ba tháng. Trung Úy giúp đỡ nó với con em giùm. Tụi em đồng ý đặt tên con là Trần Trinh Thảo Tánh. T tứ thừa đó TrungÚy. Cái tên tụi em nghĩ nát óc mới đặt được đó Trung Úy.’
Thằng Thạch Buôn, từ xa diễu dở bằng mấy tiếng ‘Nôm luôn! Hốt hụi chót!’Tôi đứng rột dậy, lên cò súng quát lớn: ‘Mầy nói lại một lần nữa đi!’
Thạch Buôn lạy như tế sao rồi chuồn thẳng.
Tôi cởi áo trận đắp cho Tánh. Nó run lập cập than lạnh liên hồi. Hai tay tôi nắm hai bàn tay lạnh ngắt của nó nói: Không sao đâu để anh đem ba-lô về cho. Mà chắc không cầnnữa, em lo được chuyện đó.Dễ mà! Nó nhắm mắt thì thào: ‘Coi tử sinh cỏ rác dưới chân…’Tôi vuốt mắt nó, đứng dậy chùi nước mắt của mình. Chúng tôi ở kế nhau cũng hơn một năm. Mến tay mến chưn. Nó đoán biết ý của tôi, không bao giờ làm trái, cũng không sa đà trong chuyện cờ bạc, gái gú mỗi khi ra thị xã…
Đạn trung liên của địch bắn liên hồi nhưng chiếc trực thăng bốc quân điêu luyện luồn lách cũng hạ xuống an toàn. Chừng chục thương binh được di chuyển lên sàn phi cơ lẹ làng không thể tưởng. Viên Trung Úy trách nhiệm ra lịnh cho những ai lên trước lên sau sắp hàng thứ tự. Cuối cùng khi phi cơ vừa nhấc mình lên thì cũng là lúc ông chạy ra cố gắng cho phần mình.
Cái ba lô nặng làm ông chạy chậm, gió phần phật từ cánh quạt gần như đuổi ông ra xa. Cuối cùng trong lúc gần hụt thì hai tay giơ lên của ông được hai binh sĩ nào đó trên phi cơ chụp dính.
Phi cơ bốc lên cao, khỏi ngọn cây. Đạn bắn chéo chéo bên tai và gió thổi vù vù. Viên Trung Úy thấy mình càng lúc càng tuột ra khỏi tay người nắm. Cái chết đã cận kề. Bỗng nhiên ông thấy mình được nắm vững, thân mình ông với cái ba lô trên vai treo tòn teng song song với càng trực thăng. Một người thương binh nào đó đã cố nhoài mình ra nắm được hai cái quai đeo của ba lô. Chắc chắn.
Mọi người reo hò khi viên Trung Úy được kéo lọt vô sàn. Bên ngoài đạn vẫn vẽ những lằn đỏ cong cong. Tiếng người phi công nói:
‘Anh may mắn cùng mình, những trường hợp như vừa rồi một trăm phần trăm là rớt xuống.’
Viên Trung Úy lột ba lô ra, cúi xuống vỗ vỗ, nói trong sự ngạc nhiên của những người không biết chuyện Trung sĩ Tánh:
‘Cám ơn em đã cứu anh, anh sẽ làm tròn lời hứa…chắc chắn như đinh đóng cột.’
Tôi không thể nào chịu nổi cảnh người vợ khóc chồng. Cô ta ngã xuống như cái bị rách ai đó liệng xuống đất, đầu úp lên cái ba-lô, hai tay ôm choàng như ôm người tình.
Đau lòng như xé ruột tôi muốn bỏ đi nhưng nhà cô ta đơn chiếc quá, chỉ có một mẹ già, bà đương đứng xơ rớ với cặp mắt đỏ hoe, không biết thương cho số phần con cháu mình hay thương thằng rể vắn số. Chừng một giờ sau tôi kiếu, đi chập choạng như về từ đám tang người em ruột thịt của mình, không còn nhớ mình lang thang ngoài đường đã bao lâu.
4.Tôi trở lại căn nhà đó chừng năm lần nữa mỗi khi về phép. Lần nào cũng vậy, tôi cố tình ngồi lại trong thời gian thiệt ngắn. Tôi sợ tình cảm trai gái nẩy nở. Mọi chuyện rồi không biết sẽ về đâu. Đúng hay sai. Con bé T tứ thừa học càng ngày càng giỏi. Mẹ bé cho biết cha bé ngày trước đùa là nếu anh hy sinh thì bất cứ giá nào em cũng xin cho bé vô trường Quốc Gia Nghĩa Tử. Tôi có đến đó hỏi thì được biết phải chờ cho bé xong Tiểu Học mới được. Trường chỉ bắt đầu bằng lớp Sáu thôi.
Rồi tôi bị thương ở bàn tay nầy. Chưa kịp báo tin cho ai thì phải đi gỡ lịch. Trong thời gian dài tôi tập sinh tồn bằng cách quên hết mọi chuyện bên ngoài, nhắm mắt trước những bất công và vô lý, tập quên mình là ai.
Khi được thả ra thì biết bao nhiêu chuyện đổi thay đã ụp xuống vùng đất thua trận. Nhà cô ta đã đổi chủ hai ba lần. Không ai biết cái gia đình ba người đàn bà ba thế hệ đó trôi dạt về đâu. Ai cô thế mà ở yên được với chánh sách dãn dân vô lý trong thập niên đầu họ từ rừng chui ra?
Nhiều khi ngủ tôi chiêm bao thấy lại cảnh thằng Tánh nói ‘Em lạnh quá’ rồi i ỉ ngâm nga ‘Coi tử sanh hề, cỏ rác dưới chân…. Cảnh nầy đan chéo với cảnh cái bàn thờ đơn sơ có tấm hình nó cười, dưới chưn bàn thờ là người đàn bà tóc tai rũ rượi ngồi khóc,kế bên bàn thờ là cái ghế cao cẳng có đặt đứng cái ba lô của nó. Cái ba lô đã cứu mạng tôi. Cái ba lô tượng trưng cho tình yêu của nó và gợi lên mặc cảm của tôi về sự không làm tròn lời hứa.Tôi thấy mình như có lỗi với Tánh và với con bé T tứ thừa.
Đó cũng là một lý do khiến tôi không góp đơn ra đi theo dạng H.O. Lý do khác là tôi muốn chứng kiến tận mắt coi người ta đọa đày đất nước nầy tới nước nào. Tôi không phải là người được đào tạo để làm theo cách thế của bất kỳ ai khác dầu cho họ là đám đông khôn khéo tới mức nào đi nữa, tôi có hệ thống giá trị của riêng mình. Và tôi theo nó tận cùng…
(San Diego, CA, 30-04-2017)
Chuyện Ngắn Đời Dài
Bàn ăn hằng ngày của nhóm năm người hôm nay rộng thinh thang vì không có mặt hết hai người. Ông Hai Quân Nhân mất hồi đầu hôm do đột quỵ. Bà Sáu Chợ An Đông được người nhà rước về dự lễ sinh nhựt con của một đứa cháu ngoại. Nhân viên phục vụ đem đồ ăn tới, ba người ngồi ăn uể oải, kẻ nuốt không vô vì thấy người bỗng nghĩ đến ta, kẻ trầm tư vì tủi thân ở đây lâu húm người thăm viếng đã không thì chớ, người đoái hoài cũng vắng bóng luôn. Không nói mà cả ba người đều chớ hề rớ tới muổng nĩa, ngồi dựa lưng vô ghế, chẳng thèm ngó ngàng gì đến ly sữa đầu ngày hay ly nước lạnh dùng để uống cả bụm thuốc như thường lệ.
Dì Chưởng lên tiếng trước sau khi sửa lại cách ngồi, chồm tới để hai tay khoanh trên bàn:
“Anh em sống ở đây quen nhau, bỗng nhiên thiếu đi một hai người, buồn hiu như cha chết mẹ chết.”
Chú Hoạt cười buồn bắt bẻ:
“Mình từng tuổi nầy, cha mẹ nào vô đó mà chết nữa bà nội!” Chú trấn an mọi người. “Chắc chắn nay mai sẽ có ai vô thế chỗ của ông Hai Quân Nhân, rồi mình sẽ quen thôi. Còn Bà Sáu thì vài bữa về tới bây giờ chớ gì. Người ta còn con cháu cũng phải cho về nhà chớ, tội nghiệp là tội nghiệp bọn mình đây nè. Ai tới rước đâu!”
Dì Chưởng thắc mắc ngang:
“Ờ mà ổng mất rồi tôi mới dám hỏi, sao gọi là Ông Hai Quân Nhân?”
Cũng chú Hoạt mau miệng:
“Tôi có hỏi nhỏ ổng chuyện đó trước đây, được giải thích là ổng tự hào về đời binh nghiệp của mình nhưng không muốn nói đến chức vụ, ngại bị kết tội khoe khoan.”
Bác Trịnh chép môi:
“Ờ chức vụ thời xa xưa quên đi là đúng.”
Chú Hoạt tâm sự thêm vì ý của mình chưa được nói hết:
“Tôi thèm được có con cháu bu quanh quá đi. Thấy người ta có thân nhơn tới thăm, tủi thân cách gì! Không khóc mà nước mắt cứ tràn ra hoài, kềm cũng khó.”
Dì Chưởng đưa tay nầy vuốt vuốt mu bàn tay kia, rờ rờ sợi gân xanh hình chữ Y nổi lên như
cọng rau muống già:
“Ối! Thèm chi cho mệt, tủi chi vô ích!. Tụi nhỏ tới cho có lệ chứ thương yêu gì ông bà già cúp bình thiếc như tụi mình. Ngó qua ngó lại một chút rồi rủ nhau đi shopping hay tạt vô tiệm làm tóc hoặc sơn móng tay. Tôi chứng kiến nhiều lần chúng nó ra dấu bằng mắt khi vừa mới nói đâu được chừng một hai câu. Cho có mặt vậy mà!”
Bác Trịnh khoan dung hơn, chậm rãi:
“Có còn hơn không, người vô đây thăm, lạ mình còn mừng huống chi thân nhơn cháu chắt. Mà thôi, bữa nay nhóm mình còn ít người, để cho có chút ý nghĩa nào đó tôi đề nghị mỗi người nói chuyện đời mình cho nhau nghe. Chỉ kể một hai điều quan trọng thôi. Chuyện đau buồn hay chuyện vui cũng được. Để rút ra ý nghĩa cuộc đời vậy mà. Chúng mình gần ăn đất hết rồi, tốt xấu gì cũng là chuyện đã qua, không có gì phải mắc cở, cũng không có gì phải dấu diếm… Cứ tự nhiên kể, tuổi trẻ lầm lỡ thường tình phải không hai vị…”
Dì Chưởng liếm mép muốn nói gì đó nhưng chú Hoạt đã buột miệng:
“Mình nghe rồi rút ra bài học, xin đừng dùng để nhìn xấu về nhau sau nầy. Cũng đừng bình phẩm khi người kia kể, cho bạn mình khỏi chia trí hay mất hứng vậy mà. May mà chúng ta còn tương đối mạnh khỏe và tỉnh táo, biết đâu mai đây có người muốn kể cũng không còn sức, không còn trí. Trời kêu đâu biết được lúc nào!”
Cả ba làm thinh một lúc hèn lâu, như bị câu nói tác động. Tiếng nhạc nhè nhẹ buổi sáng loang tỏa trong không gian yên tĩnh, người bốn bàn kế bên đã lác đác quay về phòng, chỉ còn lại vài ông bà phải ngồi xe lăn ngác ngơ cần có nhân viên lại đẩy và những người thích ngồi kế cửa sổ ngó ra vườn hay hóng nắng sớm mai.
Chuyện mẹ nhân ái.
Thể chất tôi èo uột ngay từ lúc mới ra đời nên người nuôi rất cực khổ. Ba tôi mất sớm, gánh nặng đó chuyển lên vai của má. Tôi thường bị bịnh ban cua, lưỡi trắng, bên trong miệng lại có đẹn nên ăn gì cũng đau rát, không muốn nhai nuốt, thường phun nhả. Những ai trông coi thường đánh tôi vì chuyện đó, nhưng má tôi thì không bao giờ, bà xuýt xoa, dỗ dành, khuyên tôi cố gắng ăn uống. Tôi mới 4, 5 tuổi, chẳng hiểu gì nhiều nhưng cảm nhận những lời ngọt ngào và cử chỉ thương mến của bà, thích cái vỗ tay của bà khi tôi cố gắng nuốt nên khoái được má đút cơm. Bà kiên nhẫn, còn tôi thì gượng đau rát. Mỗi bữa cơm là một cực hình cho cả hai má con, tốn nhiều thời giờ ít ỏi của bà, nhưng tôi chưa bao giờ thấy bà bực mình vì chuyện đó.
Người ta nói tôi bị ban khỉ vì bịnh làm cho chưn tay tôi trở nên khẳng khiu và dài sọc, mặt mày ốm trơ xương, giống như mặt khỉ già.
Mỗi tuần hai ngày má cõng tôi trên lưng khom khom đứng đón xe ngựa đi lên nhà thuốc Ông Tạ để được bắt mạch hốt hai thang thuốc đem về. Xe ngựa chật, ngộp, bó rọ trong lòng má, tôi thường khóc giảy khiến bà phải dỗ dành và xoa xoa lưng tôi mới cảm thấy dễ chịu mà nín khóc. Xe ngựa ngừng ở ngoài đường lớn, má lại cỏng đi vô đường đất đỏ cả một đoạn dài, lắm khi trơn trợt sau cơn mưa. Nhiều lần bà té lên té xuống nhưng lúc nào tôi cũng cảm nhận là bà che chỡ cho tôi khỏi ướt, khỏi dơ còn bà sao cũng được, nhiều khi tới nơi rồi thì sình bùn đã hơi khô khô, dính vô cái áo túi của bà từng mảng, từng mảng. Trong khi chờ đợi được kêu tới số thẻ của mình, bà từ tốn lột quăng ra xa. Phòng chờ đợi quá đông nên nóng hầm, tôi thường đòi chạy ra sân, nhưng má tôi sợ con té, lạc đường hay bị chó cắn, bà thường giằng lại trong lòng, cam chịu sự giảy dụa, bất bình của tôi. Lúc nhỏ mình chỉ biết làm cho đã nư, lớn nên nghĩ lại, nhớ ánh mắt thương mến của bà khi nhìn tôi mà cảm động và thương má muộn màng, nghĩ là có chết cũng chẳng đền bù được.
Vậy đó, tôi sống còn, tuy đau yếu, chậm lớn, nhỏ con, nhưng trong tim tôi chứa đầy ánh mắt bao dung và lòng thương mến bạt ngàn của má mà trời biển cũng còn nhỏ hơn.
Còn nhớ năm đầu đi học lớp Năm, hầu như mỗi ngày đi học tôi đều khóc, và má phải cỏng tôi tới trường, đứng lúp ló ngoài cửa lớp hèn lâu rồi mới len lén đi về. Trưa tan trường, trống chưa đánh tôi đã thấy bóng dáng má tôi với cái nón lá và cái áo bà bà quen thuộc.
Lúc học năm thứ hai trường Đại Học Văn Khoa Sàigòn thì ý định đi vào đường nghiên cứu văn học Việt Nam đã rõ nét sau khi đã sưu tập được một số tài liệu quan trọng cũng như đã khởi thảo được một vài tác giả cơ bản. Tất cả tư liệu và bản thảo đều được xếp vào một thùng giấy trước đây người ta dùng đựng sửa hộp, thời đó gọi đơn giản là thùng sửa, đêm đêm tôi lôi ra đọc đọc viết viết cần cù quên mệt mỏi. Má tôi học ít, chỉ đọc được chậm chạp những hàng chữ lớn trên báo hằng ngày mà thôi, thấy con mình quí thùng sửa giấy rách đó và say mê công việc nên bà thường yên lặng đặt kế bên con một ly nước trà đá chanh đường cũng như sẵn sàng xếp lại gọn gàng mỗi khi tôi bày binh bố trận.
Năm đó, khi đang ngồi ở Thư Viện Quốc Gia ở đường Gia Long học bài thì nghe tin lửa cháy bên kia Cầu Ông Lãnh, khu nhà tôi ở phía đó, xóm Vĩnh Hội. Tôi lật đật kiếm đường về mà không được, các cầu đi về hướng có đám cháy đều bị ngăn chặn, đò ngang cấm không được cặp bến để cho lính chửa lửa làm việc và nhân viên công lực ngăn ngừa trộm cắp.
Nóng ruột về tài liệu khó kiếm chắt mót bấy lâu nay, về quyển sách coi như đã hoàn thành được hơn một nữa, lòng tôi bồn chồn, lăng xăng lên xuống bên Bến Chương Dương ngó ngọn lữa mà thở dài, nhiều khi muốn cỗi áo lội qua sông nhưng thấy có nhiều nguy hiểm nên đành đứng trong đám đông bên nầy trơ mắt ngó.
Gần sáng, khi đám cháy tàn, tôi lò mò về khu nhà cũ. Mọi thứ đều hoang tàn, mấy cây dừa xưa lã ngọn nên thơ giờ chỉ còn trơ gốc đen xì giáp mép bùn khô, buồn bã. Cầu khỉ cầu ván đi vào hư vô, ao rạch cạn cùn phơi đáy trơ vơ những góc ván ngựa nám đen ai đó trong khi quính quáng đã chùi vội xuống nước. Tôi nôn nóng tìm má thì ít mà lo cho số phận thùng sách của mình thì nhiều. Biết bao nhiêu công trình tìm tòi và suy nghĩ. Biết bao nhiêu thời gian lục lọi nằn nì. Mất nó chắc tôi bỏ cuộc luôn chuyện viết lách mới nhen nhúm đầu đời.
Khi gặp má tôi đương ngồi đăm chiêu, mệt mõi, gương mặt lấm lem vài vệt lọ nghẹ, câu hỏi đầu tiên của thằng con là thùng sách của mình. Má tôi vui cười chỉ thùng báu vật của con mà bà đương ngồi trên đó, ý chừng để ngăn ngừa bọn hôi của đương hoành hành đâu đó. Tôi nhớ mình vì quá mừng, lính quính nên đã quên hỏi má về những vật dụng của riêng bà.
Gần mười năm sau quyển sách đầu đời của đứa con vô tâm được in thì má nó đã đi vào nơi hằng cữu một vài năm trước. Cầm quyển sách đầu tiên thơm mùi giấy mực tôi không vui mà chỉ buồn nhớ má, mắc cở cho thái độ của mình ngày xảy ra đám cháy. Tôi nói thầm: Má ơi. Má viết quyển sách nầy chớ không phải con! Nếu má không cứu cái thùng sửa thì ngày nay đâu có sách.. Mỗi khi cầm sách nầy lên là con nhớ hình bóng má với ly nước trà đá chanh hay cử chỉ chịu đựng khi dọn dẹp tài liệu bừa bãi của con ngày trước… Con cám ơn và xin lỗi má dầu muộn màng!
Vậy mà chẳng phải chỉ lỗi lầm đó với má tôi thôi, còn nhiều lỗi lầm khác nữa. Cũng dàng trời mây luôn. Chỉ xin đơn cử một trường hợp.
Từ khi cưới vợ và ra ở bên nhà vợ, tôi ít khi về thăm má mình. Vợ giàu không thích về thăm má chồng nghèo nên tôi chỉ về thăm má một mình, năm khi mười họa.
Một hôm rảnh rang, bỗng nhiên nhớ tới má, tôi lái xe hơi về xóm nhỏ thăm bà. Quẹo vô cái chợ chồm hổm tự phát đầu xóm tôi nhói tim khi thấy má ngồi trước cái ông lò than đỏ đương nướng trỡ bánh tráng, bánh phồng. Dáng má khẳng khiu, ốm o, hốc hác. Tôi ngừng xe trước hai rỗ bánh đầy ấp của má. Má vội vã giải thích rằng bà kiếm thêm chút đỉnh, ngồi không chẳng ích gì. Đi bán cho vui, ở nhà tù túng thêm bịnh.
Tôi thương má gần như muốn khóc, năn nỉ bà về, bỏ hết ba cái thứ lỉnh kỉnh đó đi, má bán lời bao nhiêu một ngày, con sẽ đưa cho má tiền lời một lần bằng năm bảy tháng bán. Má nói bán lời chút nào hay chút nấy, tiền con để con xài. Năn nỉ hoài má cũng không chịu về, tôi đưa tay đè nhấn bể hết hai rỗ bánh tráng nướng của bà, tôi bắt gặp ánh mắt tiếc rẻ của bà mà xót ruột. Thấy chuyện dằn co, người bán hàng kế bên khuyên má tôi nên về và hứa sẽ đem thúng mũng lại nhà chiều nay. Má tôi về nhưng nhứt định không lên xe hơi. Bà quơ cái khăn rằn choàn lên đầu, trước khi bước đi không quên ngó ngoái lại lò than nướng bánh tráng của mình.
Má tôi vậy đó, không bao giờ đi xe hơi của con, dầu tôi năn nỉ bao nhiêu cũng vậy thôi, nhiều lắm bà chỉ rờ rờ khen xe đẹp mà từ chối lên xe với lý do đi không quen, chóng mặt, khó chịu, nếu đi rồi sẽ nhức đầu cả buổi…
Bữa đó tôi ở nhà má, được ăn bánh tráng nướng, bánh phồng kẹo, những món tôi rất thích khi còn nhỏ mà nước mắt rưng rưng. Tôi đã bỏ bê má mình để chạy theo những công danh phù phiếm bấy lâu nay. Tôi hứa với lòng là sẽ thăm viếng má nhiều hơn. Tôi móc đưa bà tất cả số tiền có trong túi như nhiều lần trước. Má nhận với gương mặt thoáng ưu tư, ngần ngừ, không cười cười như những lần trước.
Nhưng rồi tôi không có dịp thăm viếng má nhiều, má mất sau đó ít lâu. Anh Hai đưa tôi một gói giấy dầu cuộn tròn, mở ra mới thấy từng xấp từng xấp tiền, vẫn còn y nguyên như những lúc tôi đưa cho má mình trước đây. Phía dưới cùng của xấp tiền có tờ giấy xé ra từ tập học trò, chữ rất xấu của má: trịnh má thương con nhiều con không có lỗi gì với má hết. Má tôi viết không chấm, không phết, không viết hoa, chẳng ngay hàng nhưng tôi đọc được trong đó lòng bao la của má tôi, giờ đây kể lại chuyện nầy mà tôi vẫn còn muốn khóc.
Chuyện đời đưa đẩy, tôi vào quân đội, vô Sư Đoàn 7 Bộ Binh, mỗi khi hành quân tôi đều vái van má tôi trước, coi như vị Bồ Tát bổn mạng của tôi. Người ta kẻ đeo bùa cà tha, kẻ mang nanh heo rừng hay ngậm răng cọp, tôi thì mang hình ảnh má mình trong tim với lời xin lỗi muộn màng. Vậy mà đạn tránh tôi nhiều lần, lúc thì trợt trên nón sắt, lúc thì tránh trái tim, chỉ xuyên qua bả vai. Nhưng đó là chuyện nhỏ. Chuyện lớn là chuyện lúc tôi linh đinh trên biển mới đáng nói.
Cho nghỉ uống miếng nước thấm giọng nghen! Nói nhiều khô cổ quá! Nhỏ tới giờ mang hình ảnh mẹ trong lòng, hôm nay xin cám ơn Dì Chưởng với Chú Hoạt đã cho tôi có dịp nói lên lòng mình. Nói mà tôi cảm thấy bóng dáng má thấp thoáng trước mặt. Nhiều khi tôi ước ao, dầu thấy rằng vô lý, là phải chi mỗi người có cả chục người má, mới thỏa được cái tình má con. Nói tóm lại, tôi thèm tình mẹ, cho đến ngày nay dầu đầu bạc cổ lai hy, tôi vẫn không hiểu hết chiều sâu trong trái tim của Mẹ.
Trở về chuyện vượt biên.
Năm nào đó tôi được biệt phái về lại nhiệm sở cũ là Trường Trung học nhỏ trong quận Cần Đước. Má tôi quá vảng cũng đâu được mấy năm rồi. Dạy học thì cũng thường thôi, vai trò của thầy giáo dạy Việt Văn tôi làm nhiệm vụ chuyển tải những kiến thức văn học trung thực cho học sinh chẳng liên quan vì đến chánh trị đương thời. Sau biến cố 75 thì tôi bị cho ra ngoài biên chế, không được lưu dụng vì môn dạy của mình. Giữa một đất nước mọi thứ trao đổi kinh tế đều bị cấm đoán, không việc làm có nghĩa là thiếu thốn cùng cực và bị dòm ngó nặng nề. Chứng kiến thêm những bất công hằng ngày chung quanh, tôi phải bỏ đi thôi nếu không thì có ngày mang khổ lụy vì phản ứng trước những bất công.
Và tôi vượt biên. Bốn ngày linh đinh trên biển, một đêm kia trong khi phần đông khách đi tàu đương ngồi ngủ chồm hổm dưới khoang tàu tối đen như mực thì một đóm lửa của cụm nhang do chủ tàu chuyền tay cho khách với giọng ai đó vừa ai oán vừa chịu đựng:
“Bà con cầm một cây nhang cho gia đình mình, còn bao nhiêu chuyển cho người kế bên nha. Ai đạo Phật thì cầu Phật Bà, ai đạo Chúa thì cầu Đức Mẹ, tàu mình bị vô nước, tối quá không thấy chỗ lủng. Tàu sẽ chìm trong vài giờ nữa…”
Có tiếng ai đó nhẹ nhàng nhưng trong hoàn cảnh nầy nghe hơi bi hài:
“Còn tôi đạo Cao Đài thì sao?”
“Thì vái Phật Mẫu!” Tôi vẫn không biết tại sao mình buột miệng mau như vậy. Lại còn nói thêm: “Tên gọi thế nào thì cũng chỉ là một thôi, cũng là tạo thành bằng yếu tố Tử Bi. Từ Bi mà, bà con biết đó!”
Tôi tiếp nhận cụm nhang, lấy riêng cho mình một cây, trao cho vợ một cây, còn bao nhiêu đưa cho người ngồi kế bên. Nước lên ướt đít lạnh lạnh. Tôi vái Phật Bà, tôi van vong hồn má tôi cho chúng tôi người lớn chết hết cũng được, không ân hận gì, nhưng các con tôi và tất cả con nít khác trên tàu xin được cứu sống, chúng vô tội, chưa từng hưởng điều sung sướng nào trên cỏi đời nầy. Nước từ từ ngập tới háng, tôi cố gắng ngồi nhón chưn cho thân mình cao hơn, buồn ngủ quá, tôi thiêm thiếp trong mơ màng. Thời gian trôi qua, trong đêm tĩnh lặng chỉ có tiếng gió biển rít trong không gian, tới một lúc tôi nghe văng vẳng chủ tàu nói mơ hồ là tìm được lổ lủng rồi, yêu cầu bà con có áo quần dư chuyển sang phía bánh lái tàu để bịt lổ. Tôi không còn sức để mở mắt, mà dầu có mở lớn mắt cũng không thấy gì, hầm tàu tối đen như đêm ba mươi, thỉnh thoảng cảm thấy ai đó chuyển quần áo đụng vô mặt mình hôi hám dơ dáy. Trong mơ hồ tôi thấy hình ảnh Đức Phật Bà Quán Thế Âm và gương mặt vui vui của má tôi. Ánh mắt hai người đều hiền từ. Rồi giống như trong kỷ thuật điện ảnh, hình ảnh hai bà từ từ chồng khít lên nhau để rồi cũng một bức hình đó khi thì hiện lên má tôi, khi thì hiện lên đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Tôi hứa với lòng là sẽ thờ Phật Bà khi sống sót, lập một cái trang thờ mẹ và kỵ giỗ long trọng hằng năm. Vậy mà suốt thời gian hơn hai mươi năm sống ở đây tôi mãi chạy theo công ăn việc làm lại không làm được cái trang thờ dầu chỉ là một tấm ván nhỏ đóng lên tường có dựng hình mẹ và một lư hương. Đứa con trai tôi mua nhà trước khi cưới vợ, hôm đám cưới nó dọn hình ảnh ba má tôi lên chừng độ hơn hai giờ đồng hồ rồi ngay sau khi đàng gái vừa ra về khỏi cửa nó với vợ mới cưới liền đem hình ông bà nội xuống. Nhà là nhà của nó, tôi không thể mở miệng nêu ý kiến gì, nói ra thêm dư lời mà chắc chắn không kết quả. Chúng sẽ xúm lại công kích tôi vụ hình thức, tôi còn quá Việt Nam nên chú ý tới chuyện nhỏ mọn, chuyện tào lao. Nhà của tôi còn bị chê bày biện sao nhà quê giống Việt Nam ruộng, huống chi nhà nó. Tôi chiêm bao thấy má mình nhiều lần nhưng chưa lần nào nghe má tôi nhắc đến lời tôi hứa lập trang thờ.
Khi vô sống ở nhà Dưỡng Lão nầy, ngồi buồn tôi nhớ hình ảnh chồng lấp của má và Đức Quán Thế Âm, tôi nghiệm ra rằng má ta là Đức Bồ Tát của ta, là sự Từ Bi rót lên đời ta ngay từ lúc mới sơ sanh để ta sống sót. Phật Bà nói chung là má của tất cả mọi người. Má của người nào là Phật Bà mà chỉ có đứa con mới cảm nhận được thôi.
Gần đất xa trời tôi mới cảm nghiệm được chơn lý đơn giản nầy. Tiếc quá!
Tiếc nhưng biết làm sao hơn, nhân loại sanh ra để va vướng vào những mê lầm muôn thuở mà dầu ta có học xong bài học và được phép mầu làm cho trẻ lại nhiều lần đi nữa thì cũng mắc mê lầm lại y chang như cũ, cũng hờ hững và không thấu được lòng mẹ bao la…..
Con người pha lẫn giửa Xấu và Tốt.
Tôi sanh ra nhà nghèo. Học bài thì ít mà lêu lỏng với bạn bè thì nhiều vì chẳng người lớn nào trong gia đình có thời giờ để ý tới tôi. Tất cả đều phải buôn bán đầu tắt mặt tối. Nhà là cái sạp vuông 4x4 thước ở trong chợ Cầu Muối ồn ào. Tụi trẻ con chúng tôi lang bạt ngoài đường cả ngày để rảnh chỗ cho người lớn kiếm sống. Tôi nhập bọn theo mấy thằng trang lứa không có ai nuôi đi ăn cắp vặt. Quần áo sạch sẽ, khuôn mặt sáng sủa, tôi có nhiệm vụ cản địa làm cho người ta chỉ chú ý tới tôi để mấy thằng kia ra tay chôm chỉa. Tôi thì chưa tới nỗi móc túi ai nhưng chúng nó thì đã thử rồi. Nạn nhân là mấy bà già ngờ nghệch, mấy cô thiếu nữ nhà quê ngù ngờ dưới tỉnh quá giang ghe trái cây hay ghe cá lên Sàigòn. Tôi sa lần vào đường trộm cắp, chưởi thề và đánh lộn để giành giựt những thứ gì mình thích, bất kể người đó là ai, con gái, đàn bà hay ông già bà cả. Có điều là tôi vẫn còn ôm cặp tới trường mỗi ngày nên sống bằng hay mặt: tử tế ở nhà và lương lẹo ở ngoài đường. Người lớn trong nhà không biết điều đó. Họ vẫn coi tôi là đứa con cháu ngoan.
Có thể tôi sẽ thành người cặn bã của xã hội nếu không gặp được trường hợp đặc biệt như sau đây.
Một buổi sáng kia, tôi đương ngồi ăn cháo đậu đỏ nước dừa với dưa mắm cá kho thì bà bán hàng vụt quảy gánh lên vai, chạy tất tưởi như bị ma rượt. Tôi ngó theo thấy dáng bà sợ hải, nút bóp cái áo bà ba bung ra, hớ hênh. Người biện Chà - tiếng để chỉ cảnh sát hay công an thời đó - đương đuổi theo bà thấy vậy liền đứng lại cười văng nước miếng. Bọn nhỏ đương ăn cháo có đứa vô tâm phá lên cười ngặc nghẽo. Chờ một lúc không thấy bà ta gánh gánh cháo trở lại, tất cả khách hàng lớn nhỏ đều bỏ đi, coi như lần đó được ăn chùa, khỏi trả tiền.
Đêm ấy tôi khó ngủ, nghĩ tới nghĩ lui coi ngày mai có nên trả tiền tô cháo cho bà bán cháo hay không, làm thinh luôn thì cũng được, có tiền đi ăn kem rạp hát Rex ở đường Hồ Văn Ngà là thứ kem tôi rất thích, bà ấy nói gì chỉ chối là xong. Nhưng giựt luôn thì tội nghiệp quá, bà buôn bán cực khổ, vẽ mặt sợ hãi của bà ta khi vụt chạy với cái gánh trên vai, áo nút bung ra sao mà thảm hại! Cảnh tượng đó, chua xót hơn là đáng cười...
Sáng sớm, tôi kiếm bà bán cháo, ăn như lệ thường mà trả hai phần, nói là trả tiền cháo hôm qua. Người đàn bà ngạc nhiên cầm đồng bạc dư, giải thích với người chung quanh rồi kết luận rằng thằng nhỏ nầy khá, lớn lên nó sẽ thành người tốt, còn nhỏ mà nó biết thương người, biết lẽ công bằng, không phạm tội ăn giựt. Bà còn nói thêm, những đứa trang lứa với nó chưa thấy đứa nào khi bà quảy gánh chạy mà hôm sau quay lại trả tiền. Bà nói với tôi ngọt ngào: ‘Rồi đây cháu sẽ nên người, sẽ ăn nên làm ra, không cực khổ như những người nhan nhãn quanh đây mà cháu thấy.’
Hãnh diện về lời khen, cảm giác mình là người tốt, từ đó tôi xa lánh lần các bạn xấu, cố gắng học hành, mỗi khi sắp làm điều gì quấy dầu nhỏ mọn thì cũng nhớ đến lời bà bán cháo đậu đỏ. Thầy học đầu đời giúp tôi nên người lương thiện không phải là thầy cô giáo, cũng không phải là người thân trong gia đình mà là bà bán cháo đậu tất tưởi mỗi khi người biện Chà tới rượt đuổi vì bán buôn lấn chiếm lòng lề đường thời xa xưa hơn nửa thế kỷ trước….
Vậy mà tôi cũng còn máu du côn trong người, vẫn còn tánh xấu chen lẫn với những tánh tốt được bà bán cháo ban phước cho. Vẫn đầy ham muốn những thân thể đẹp khác phái, vẫn thích cờ bạc và nhứt là tranh cải về những chuyện không đâu vô đâu. Người tôi là sự thể hiện hài hòa của thói hư và điều thánh thiện. Mở ngoặc một chút để nói chuyện nầy, nhỏ mọn thôi nhưng cũng là một kỹ niệm của đời người. Năm đó, tôi chưa tới ngày lên đường qua Mỹ, còn độ chừng 2 năm nữa mới tới phiên mình. Theo bạn bè xuống một chợ làng, gần Lách, quê hương ông Trương Vĩnh Ký. Ngồi nhâm nhi cà phê sáng trong một tiệm nước quê, tôi thấy hai người đàn bà còn trẻ lắm, chưa đến tuổi ba mươi, một người bán cá, một người có lẽ là bạn bè gì đó, đương đứng nói chuyện với nhau:
“Ê bà, năm nay bà được bao nhiêu rồi?”
“Hăm bảy chứ mấy mậy?”
“Quần hòe! Bà học lớp với chị tôi. Bà phải ba chục chứ sao hăm bảy?”
“Quần hòe họ. Tao nhỏ hơn chị mầy mà. Lúc đó tao nhí còn bả kềnh chắc là học trễ nên cùng lớp với tao.”
“Đách họ! Cùng lớp sao cách nhau tới ba tuổi lận. Bà nói ai mà tin.”
Tôi chỏ mõ vô:
“Hai cô ơi! Đàn bà còn gái mà quần hòe với đách đẻ nghe xấu quá.”
Hai người đàn bà ngó tôi một cái bén ngót bằng dao Thái Lan thọc vô tim tôi rồi nói với nhau:
“Đồ thằng cha già dê đạo lộ không biết cách làm quen.”
Tôi láp dáp gì đó không nhớ, chỉ nhớ ông chủ quán cà phê nói nhỏ:
“Chồng của tụi nó là dân giang hồ ở đây, chú láng cháng coi chừng bị chém.” Tôi làm thinh ngồi nghĩ cách phải đối phó như thế nào khi người ta xách dao tới tính chuyện xử mình.
Một lúc sau, không khí coi bộ êm êm. Chợ đông đúc hơn chút đỉnh. Một con cá lóc bự xộn của cô bán cá quậy sao đó mà nhảy nguyên con vô nồi nước đường của bà bán tàu hủ kế bên vừa mới mở nắp. Bà già bán tàu hủ đòi tiền đền hơi cao nói rằng mình phải bỏ luôn gánh tàu hủ. Cô bán cá cải là cao quá, sáng sớm tôi chưa có tiền, chuyện xui đâu ai muốn đâu.”
Tôi kêu bà tàu hủ tới, nhỏ nhẹ nói tôi đền tiền giùm cô kia, sáng sớm làm gì cổ có tiền mà bà đền. Bà già lấy tiền liền, miệng khen tôi nhơn đức. Tôi ngồi đó ngó mong. Bà già bán tàu hủ bây giờ mới vớt con cá ra, trả cho chủ, loay hoay vớt bỏ chút đường theo ý bà là không dùng được, rồi yên lặng ngồi bán như không chuyện gì đã xảy ra.
Tôi là như vậy, ưa xía vô chuyện thiên hạ, mà thiên hạ sau cuộc đổi đời như hai vị thấy đó, trời thần lắm, dễ chưởi bới, hay đâm chém, vác cây đập nhau là chuyện thường ngày trong xóm nhỏ.
Cách đây mấy năm, đâu trước ngày tôi vô đây chứ đâu. Lần đó tôi về lại Việt Nam nói trong bụng là về lần chót. Ông xe ôm đương chở tôi trên đường Đồng Khởi, tôi thấy một cặp nam nữ thanh niên rất đẹp đôi, cô gái trẻ, thanh tú, cậu trai thì dáng khoẻ mạnh bãnh bao, xe họ ngừng trước xe tôi khi đèn đỏ. Bỗng nhiên có một thanh niên ở trần vác mã tấu lại chém nhầu vô người thanh niên. Anh ta một tay ôm đầu máu, một tay đưa ra đở, bị chém liên tiếp vô tay. Cô gái khóc la cầu cứu, hung thủ giơ dao lên tính chém luôn. Tôi kêu người xe ôm đứng đợi rồi lẹ cẳng nhảy vô can. Hai vị biết đó, ở Việt Nam chuyện đâm chém nầy không ai can, cũng không ai xía vô, họ chỉ đừng ngó thôi. Vô cảm một phần và sợ đại họa một phần. Tôi la lớn và lột nón bão hộ ra quơ quơ. Thằng chém người ngạc nhiên đứng lại một phút rồi không biết sao nó quăng mã tấu chạy thục mạng qua lề bên kia, lòn vô đường hẻm. Tôi còn đương la bắt nó bắt nó thì bị ai đó đâm mấy nhát vô hông, ngã quỵ. Thiệt ra tôi chỉ muốn hù dọa nó thôi, ai mà ở không rượt bắt nó, thiên hạ đã quá quen với cảnh đâm chém trên đường rồi.
Tôi tỉnh lại trong nhà thương Chợ Rẫy, tiền bạc mất hết, may mà còn giấy tờ tùy thân. Mừng là mình chỉ bị thương mà không trí mạng. Nghĩ lại có lẽ cặp thanh nhiên thiếu nữ bị chém kia vì thanh tú đẹp đẻ cho nên tôi mới làm anh hùng mà không suy nghĩ. Cũng như chuyện con cá nhảy vô nồi nước đường tàu hủ, nếu chủ con cá là bà già mặt mày nhăn nheo thì liệu tôi có bỏ tiền ra đền giùm không? Có thể con người tôi do sự kết hợp giửa xấu và tốt. Cái xấu có thể nhỏ. Cái tốt chưa thật sự lớn. Nhưng xấu tốt cộng lại tạo nên cá tánh tôi. Tôi nhiều khi đỏ mặt khi nghĩ tới điều đó. Cũng như anh Trịnh, tôi tiếc là mình đã già, sửa đổi cũng khó, những tánh xấu chắc rồi mang theo xuống mồ làm hành trang cho kiếp khác….
Con người lương lẹo do tranh sống.
Tôi hả, nghe chuyện tôi anh em đừng cười nha. Với lại tôi học ít nên chắc là kể không mạch lạc. Khi Tây rút khỏi Việt Nam thì tôi mới 7, 8 tuổi gì đó. Ba tôi đi lính cho Tây bị bên kia bắt hay giết tôi không biết nữa. Chuyện người lớn xa xưa mù mờ trong đầu óc con nít. Má tôi nuôi không nỗi mà bã lập gia đình mới nên bà ngoại tôi nuôi tôi. Sáng thì tôi đi học, chiều thì bưng rỗ bánh bò đi bán. Tôi không biết mắc cở, gặp tụi học trò quen mặt trong trường tôi theo nài nĩ tụi nó mua giùm, nói tao bán ế quá tụi bây mua giùm làm phước. Tụi nó bùi tai, tôi bán cũng được được. Bà ngoại tôi chuyên mua bán gà. Mua đầu chợ bán cuối chợ. Ngoại ngồi chận trên đường vô chợ, đón đầu mấy người trong quê ra. Người ta nuôi gà thả trong sân, khi cần tiền để làm đám giỗ thì cột 1, 2 con xách ra chợ bán. Họ đâu rành giá cả cho nên ngoại trả giá họ trên trời dưới đất gì cũng được. Ngoại làm bộ rờ nắn phao câu, chê gà ốm, cứt hôi, bắt đầu bịnh… , bán rẽ tôi mua giùm. Đời sống mấy năm đầu cũng được. Rỗ bánh bò trở thành nhỏ với đà lớn của tôi. Tôi bắt chước ngoại cũng đi mua bán gà. Ban đầu ngoại cười khen tôi khôn lanh. Tôi buôn bán có lời cất tiền để dành, ăn uống thì đã có ngoại lo. Lần lần thì tôi gọi là rủng rỉnh tiền bạc nhưng sáng nào cũng bị ngoại chưởi ngoài chợ vì cho là tôi giành mối của bà. Bà xí trước rồi mà tôi trả giá cao hơn. Anh em nghĩ coi, ngoại ép giá người ta, nếu người ta đi vô trong chợ có thể bán được cao hơn. Thấy họ đã quyết tâm không bán cho ngoại tôi mới nhích thêm chút nữa vậy mà ngoại chưởi như tát nước vô mặt nào là đỉ chó đỉ ngựa, chó đẻ trâu sanh, ăn cơm nhà tao mà mua giành bán giựt với tao. Ngoại chưởi tôi không dám câu mâu lại, chỉ lầm bầm là ngoại bỏ tôi mới theo. Vậy mà ngoại vẫn nghe và nhiều khi xấn tới đòi vả tét mặt. Mấy ông coi chúa ôn không? Có điều là ồn ào như vậy mà hễ chợ tan là ngoại mua món ngon vật lạ gì đó về cho hai bà cháu ăn, không nhắc tới chuyện ở chợ…
Má tôi mỗi khi gặp tôi cũng rờ nắn tay con. Thân thiết thương mến nhưng mà má có thêm 3 con nữa nên không thể giúp gì cho tôi. Với lại tôi không ưa cái nhìn của Dượng. Nó sao sao ấy! Khó nói lắm. Chắc là mình mới lớn nên đàn ông nào cũng ưa nhìn.
Rồi tôi có chồng, cũng tiếp tục mua bán gà vịt sống qua ngày, nhưng về ở bên nhà chồng. Chiến tranh kết thúc tưởng là yên thân nhưng rồi miếng đất vườn của gia đình bên chồng ở mặt tiền bị kẻ có thế lực cướp đoạt, chồng tôi tối ngày ăn ở không đi hết trong Nam ngoài Bắc làm dân oan khiếu kiện, bị bắt lên bắt xuống, giam chỗ nầy nhốt chỗ kia, tới một ngày nọ mòn mõi, sức tàn lực kiệt. Tôi góa bụa từ đó.
Phải bương chải để sống, tôi nhập bọn với những người phân phối hàng Trung Quốc, bất kể thứ gì tới tay, bột màu để làm nước tương, làm nước cam, làm Vitamin C, làm bánh, chế nước cốt trái cây mùi trái nầy trái nọ, bột cà phê bọt, chất tẩy trắng để tẩy trắng bún, hủ tiếu, bánh phở, đường đen, tẩy đồ lòng bò heo cho các quán nhậu, phá lấu, quán thịt dê, thịt chó…. Những hóa chất để giữ trái cây lâu hư mau chín đẹp trái, tươi màu, tôi đều buôn qua. Những gia vị làm thơm ngon có mùi cá thiều, mùi khô mực, mùi thịt heo thịt bò đều được tôi bán sĩ từng thùng lớn. Nói tóm lại là hàng hóa chất phần nhiều có tay tôi phân phối.
Ban đầu tôi còn ngại người ta ăn bị ngộ độc sau đó thấy chẳng ai nói gì tới mình nếu đóng thuế đủ và biết điều với khu vực tôi mạnh dạn buôn to, kể cả rượu giả, pha chừng nửa cốc hóa chất thì có một chai Martel, Cognac, hay Jhonny Walker. Tôi làm giàu mau chóng. Mới chừng ba năm tôi đã đổi đời, có nhà lầu xe hơi, tiền đô với vàng lượng gởi ngân hàng cũng bộn bộn. Tin tưởng có đấng khuất mặt giúp mình làm ăn nên ra, tôi đi lễ vía Bà Châu Đốc thường xuyên, cho Bà vay tiền và vay tiền Bà, cúng hiến áo đẹp cho Bà, đốt thiệt nhiều giấy tiền vàng bạc với hình dáng nhà lầu xe hơi cho Bà. Tôi giao du với người chức lớn quyền to rồi móc nối làm vợ trên giấy tờ một ông có máu mặt để chạy mánh làm giấy tờ vay tiền ngân hàng hay bán đất bán nhà. Chồng hờ của tôi sau nầy được sang đây theo diện bí mật gì đó mà tôi không rõ. Bước đường lưu lạc quê người, vì chữ nghĩa không biết, cũng tính dựa luôn gia đình ổng để dưỡng già ngờ đâu ổng và mấy đứa con trên cơ tôi quá xá, dụ dỗ tôi lòi ra cho chúng nó làm ăn sanh lợi, cuối cùng tôi chỉ còn lổ đít không. Xin lỗi nha! Từ lâu tôi muốn thanh khẩu nhưng hể nói tới chuyện nầy thì lại văng tục không kềm chế được miệng. Thôi thì của thiên trả địa, trả luôn người chồng hờ lại cho một con bé trẻ hơn mình nhiều để ổng dẫn đi đó đi đây hảnh tiến với người ta.
Mấy năm vô chỗ nầy tôi nghiệm được chữ có-không. Khi tôi giàu tiền muôn bạc ức thì lòng nặng nề lo nghĩ, tâm luôn luôn bất an, sợ mất, sợ tù, bây giờ không còn gì hết, lòng thiệt nhẹ nhàng, thanh thản, không có gì để lo sợ, ưu tư. Ngay cả cái thân mình đây tôi cũng chẳng còn sợ mất, coi như ngày cuối đời là khởi điểm của cỏi đi về, đời mình gần bảy mươi năm qua chỉ là giấc mộng dài trong mê sảng.
Hai ông biết không, ngồi rảnh rổi tôi luôn luôn sám hối, nguyện những linh hồn chết oan vì những món hàng độc hại của tôi chấp nhận cho tôi làm thân trâu ngựa đền bù trăm, ngàn kiếp kế sau….
Ông Trịnh rót ba ly nước lạnh, phải, chỉ là ba ly nước trong vắt không gợn một chút tăm, rồi điềm đạm nói:
“Nhân buổi nói chuyện nầy mình nhìn được cái ý nghĩa cuộc đời. Ai cũng mê lầm trong quá khứ, ai cũng ngỡ thân mình là núi Tu Di to lớn, là dãy Trường Sơn dằng dặc, nào dè đâu đó chỉ là những giọt sương sớm trên ngọn cỏ phù du. Đời người mấy chục năm rốt cuộc lại chỉ là những chuyện ngắn chuyện dài của một chữ Mê.”
Hai người bạn nâng ly nước lên, ngồi ngã lưng vào ghế, mắt nhìn vô chốn mông lung. Đâu đây tiếng nhạc dìu dặt, gợi cãm nhưng vẫn không còn chỗ để len vào lòng người đương đắm mình vào an nhiên bất tận …
Victorville, CA, Aug. 21-28, 2011
Con Chim Hán Học Cuối Mùa
Ở Ngôi Trường Thành Phố
Thích thú khi kỹ niệm tưởng chừng đã bị phủ kín dưới tầng tầng lớp lớp thời gian bỗng được phép màu khơi dậy cuồn cuộn tuôn về không thể kềm chế, lúc tôi nhìn thấy lại hai câu đối ngày nào trước cổng trường.
Cám ơn bạn bè đã giữ được trong trí tinh chất tư tưởng của vị thầy tôi kính mến. Cám ơn anh em cùng chung mái trường thuộc những thế hệ khác nhau, giờ lạc lõng quê người, cùng nhau hội lại, đã giúp tôi có dịp đào xới những gì đã vùi chôn trong ký ức.
Tôi đọc câu đối bằng trí nhớ “Khổng Mạnh cương thường tua khắc cốt, Âu Tây khoa học yếu minh tâm” khi những cảm tường về nơi mình tòng học đang được tiếp nối phát biểu thật cảm động trên sân khấu! Anh ngồi gần ngời sáng ánh mắt, rung động vì thời trai trẻ hiện về. Em nào đó lẩm nhẩm cố ghi nội dung ẩn tàng trong các chữ thật bình thường trước mặt.
Hình ảnh vị giáo sư vỡ lòng tôi chữ Hán hơn ba thập niên trước hiện rõ ràng trong trí. Vị thầy một niên khóa xa xưa người học trò một đời chịu ảnh hưởng. Vị thầy khuất núi từ lâu người trò như còn mơ hồ nghe đâu đây lời giáo huấn.
Thầy tôi, giáo sư Ưng Thiều, vị giáo sư già, người thầy trễ tràng rớt rơi lại của giai đoạn Hán học cuối mùa, một thời nặng nợ trường ốc, khổ tâm với “điêu trùng”, “trường quy” năm đó lạc lõng giữa đám học trò nhìn chuyện xưa như những điều kỳ dị, ngô nghê, cố hủ.
Ánh mắt thầy không vừa ý khi có đứa đùa kêu thầy bằng ông nội, cử-chỉ ngừng giảng của thầy biểu lộ sự thất vọng khi thấy cả lớp có độ hơn mười đứa thì hầu như đủ chục “cúi đầu bái thiên địa” khi thầy giảng điều hay ho trong Ngọc tỉnh liên phú, trong Chí linh sơn phú hay ngâm nga xã-tắc lưỡng hồi lao thạch mã…
Có thể trong những đứa ngủ gục nhiều nhứt có tôi, có thể trong những đứa phá thầy nổi tiếng có tôi, không nhớ rõ; chỉ biêt giờ nầy nhiều khi buồn tình đọc lại cỗ văn bí lối, tôi tiếc ngẩn tiếc ngơ… Nhưng làm sao kéo được thời gian trở về? Vị thầy cũ, con yến muộn màng của Mùa Xuân Hán học đã không còn nữa. Mùa Xuân đó cũng đã trôi qua theo dòng liên tục của thời gian miên viễn, lấp chìm trong sự tiến hóa tất nhiên của đời, của đất nước. Và chính học trò mình cũng đã quên trong bao nhiêu năm tháng chạy theo ảo ảnh phù du mà gọi bằng thực tế ao cơm.
Cách học trò năm mươi tuổi, thầy tôi da mặt nhăn nheo theo sự tàn phá của thời gian, luôn luôn súng sính torng bộ quần áo rộng thùng thình, đôi giầy da màu nâu to lớn, đôn đốc từng đứa sổ phải ngay, ngang phải thẳng, đá phải sắc. Thầy nhắc chừng đứa nầy viết trái cựa, đứa kia viết thiếu nét, nhận xét tập nào viết như gà bới, cua bò, tập nào dơ như nhai mà nhả. Thầy luôn luôn bận rộn, khuyên nhủ, canh chừng, khuyến khích, trái hẵn với những bức tranh thầy đồ dạy học với ông thầy già ngồi hút thuốc lào, cây roi mây cật to tướng cạnh bên, anh lớn dạy trò nhỏ, mạnh ai nấy ê a, học cách nào cũng được sự đóng góp của thầy có tính cách xúc tác hơn tác dụng. Nhiều lúc thầy tôi đứng cạnh một anh học trò giỏi giảng thêm về khí ,về lực, về thần trong cách viết chữ Nho, chúng tôi cố vãnh tai nghe lén nhưng, độ hiểu, mức thầm, lòng thích thật vô cùng ít ỏi…
Chúng tôi ai nấy ham vui, chểnh mảng, cố tìm lý chứng biện minh cho sự lười biếng của mình, rồi ngày tháng trôi qua, 214 bộ của chữ Hán như 214 vũ khí quay quần tấn kích chúng tôi, không một anh nào thuộc hết, không một anh nào nhớ rõ bộ nào trước bộ nào sau, không anh nào có thể xác định được một cách chắn chắn chữ nào thuộc về bộ nào nếu trước đó chưa từng gặp. Người xưa học một biết mười, thơ phú, văn từ mây trôi nước chảy, chúng tôi học trăm điều chưa chắc nhớ một, lè què mấy chữ, xọ nọ qua kia, tác thành tộ, ngộ thành quá, mã thành yên, lộn tùng phèo, rối nhùi mớ bòng bong. Thầy tôi, thầy Ưng Thiều, không có trách nhiệm gì hết trong sự dốt nát đó của học trò. Lỗi chúng tôi, chút nắng quái chiều hôm Hán học không soi đủ hang tối dốt nát, u mê trễ lười. Lời giảng thiết tha như nhỏ máu từ con tim, có thể tác dụng như “mổ óc nhét vào” của thầy, hiệu quả với ai chứ không đủ sức rửa được sự u trệ của những đầu óc non nớt ham vui. Có thể chúng tôi lúc đó còn thơ dại, những con chim chưa đủ lông cánh, chưa đứng vững trên đôi chân mình, trí tuệ nào để hiểu hết lời thầy nói. Có thể hình thù chữ Hán hiện ra ngay từ phút đầu đã là con ngáo ộp biến hóa khiến ai cũng ngán ngẫm bút lông và sợ hãi trước những nét đá, phết, ngang sổ xa lạ. Trường hợp tôi là một điển hình. Đậu vào lớp Đệ Thất từ một lớp Nhứt của trường danh tiếng ở Sàigòn, ngôi trường mang tên người đồng thời với Sĩ Tãi Trương Vĩnh Ký, và cũng nổi tiếng nhờ viết lách như ông: Thế Tải, Trương Minh Ký, tôi cũng là một đứa nhỏ ham chơi chưa có ý thức được sự cần thiết phải học huống chi sự quan trọng của chữ Hán! Ghi học Hán văn vì ở nhà lúc đó không biết do ai mua, lang thang mấy cuốn Minh Tâm Bảo Giám, mấy cuốn kinh, vài cuốn Tứ thư do học giả Đoàn Trung Còn dịch, có in chữ Hán kèm theo, buồn tình tôi đọc tới đọc lui đã thuộc được một số mặt chữ. Bước vào thực tế tôi mới thấy biết vài ba chữ học lóm không đầy lá mít của mình là đương đầu không biết người biết ta với con-ngáo-ộp-biến-hóa-thiên-hìnhvạn-trạng-ba-đầu-sáu-tay-mười-hai-con-mắt là chữ Hán.
Sau vài tháng còng lưng mõi cổ, mõi tay, tôi chán chi hồ, giả, dã. Tôi tự biện hộ rằng biết nghĩa, biết chuyện xưa tích cũ là đủ, biết mặt chữ Hán cũng vô ích thôi và bắt đầu dòm qua các bạn cùng lứa tay cặp cuốn Anglais visant hay Anglais sans peine thầm nghĩ rán cho tới hè, rồi năm tới từ giã bút lông, chia tay thứ chữ ngoằn ngoèo xa lạ đó.
Lúc ấy bên ngoài những chiếc tàu Mỹ khổng lồ đang tuôn đổ hàng vạn đồng bào tôi từ xa xăm tới. Tôi lạ lùng với quần áo và tiếng nói của họ, nhưng tôi cũng bị choáng váng vì sự vĩ đại của con tàu nọ bên cạnh những chiếc tàu đi sông đi cận duyên như con voi đứng bên con kiến, nghĩ đến sự văn minh, kỹ thuật, tôi chợt thấy chữ Hán là một cái gì đó lỗi thời, như người tiền sử đứng trước cai máy thâu thanh. Phải học tiếng Anh, tiếng Pháp!
Ngày lại ngày, chiến cụ, súng ống, xe tăng, xe jeep được chở đến chạy rầm rầm, rung rinh thành phố, lay động căn gác nhỏ trong xóm nhỏ nghèo nàn cả gia đình tôi chui rút, trong khi những giọng Anh ngữ rất sang, hứa hẹn những chân trời mới từ các lớp bên cạnh của mấy thầy Sang, Thọ, Khoa, Thái mỗi khi tôi có dịp đi ngang đều đánh rộn ràng tim tôi bằng một sự hấp dẫn khôn cưỡng.
Thèm được học tiếng Anh nhưng thích nghe chuyện thánh hiền, hai đối lực vằn vật trong tôi suốt mấy tháng trường, cuối cùng hình ảnh thầy Thiều đã thắng, hằng ngày tôi cùng một số ít ỏi bạn bè chăm chỉ còng lưng với môn Hán văn trong khi một phần lớn đã đổi sang Anh ngữ.
Thầy giảng dạy về sự đa nghĩa của tiếng Hán Việt tùy theo cách viết, chữ tân tùy lúc là khách, là mới, là bờ sông, chữ minh tùy lúc là sáng, là tối. Chữ Hán tùy theo bộ thủ mà thay đổi nghĩa, tiếng Việt phần lớn mượn từ tiếng Hán, nên nhờ đó cũng phong phú, đa nghĩa theo. Tôi làm quen với kho tàng ngôn ngữ Việt từ đó.
Thầy tôi giọng trọ trẹ, chúng tôi những đứa nhỏ sanh trưởng ở Sàigòn, rất lạ tai với cách phát âm bỏ dấu nặng trên khắp mọi chữ, nhiều khi ngẩn ngơ nhìn nhau lắc đầu. Mặc dầu trong gia đình tôi hết phân nửa sanh trưởng ở Huế, tôi lắm khi cũng lúng túng không hiểu rõ ràng thầy nói gì. Một vài đứa bạn cùng lớp lần đầu gặp mô, tê, răng, rứa, cào nhào sao trường không mướn một ông thầy Việt Nam, thầy Thiều người Huế nói khó nghe quá. Tôi lờ mờ thấy rằng thầy mình cũng là người Việt Nam nhưng vào lúc đó chưa đủ khả năng để đính chính điều sai lầm trầm trọng nầy. Sau nầy, một hai năm sau, khi lớn hơn đôi chút biết về cây một gốc Huế-Sàigòn-Hànội quê hương ta thì thầy không còn dạy nữa. Thầy mất hay về hưu tôi không rõ vì còn mãi mê với những điều khác, chọc thầy Tập Petit Xồi về chuyện chuyên môn đem quyển Le petit Chose của Alphonse Daudet ra giảng, kể cho nhau nghe để cùng cười hì hì về chuyện đã qua mặt được thầy Khiêm với những tờ đơn cáo lỗi vắng mặt đứa nầy viết dùm đứa kia, chuyện hùn tiền mướn ông xích lô già vô gải đầu gải tai xin phép vì “con mình” đã bị bịnh nghỉ hết mấy ngày, hoặc rủ những đứa chịu chơi không phải một lớp mà ba bốn lớp lân cận trốn học ngồi lềnh khênh đầy rạp hát bóng Nam Việt hay lang thang khắp nơi trong Sở Thú.
Tôi, nghe lời bạn bè, xin đi tiểu, để qua mấy lớp lớn, đi thật chậm hay thập thò vãnh tai nghe tiếng được tiếng mất mấy ông Tây bụng phệ cắc nghĩa bài để rồi ước ao phải chi mình sanh ra trước vài năm, nói tiếng Tây hay như mấy ảnh, ra đường không sợ ông Tây, bà đầm…
Thầy Thiều thể hiện một sự dung hợp kỳ diệu giữa Đông Tây. Thời đó rất nhiều giáo sư vào lớp, ngồi yên vị trên ghế, mắt nghiêm khắc đão qua đão lại xem học trò có đứng nghiêm hay không, sau khi thấy cả lớp im phăng phắc thầy mới ra lịnh ngồi xuống. Chưa hết, tất cả khoanh tay trên bàn, thầy vừa ý mới cho mở tập ra. Thầy Thiều không vậy, chờ học sinh ngồi xuống là thầy viết bài trên bảng và bắt đầu giảng. Thầy nói đến sự kính thầy học, nhưng không khúm núm, trọng thầy nhưng không sợ để xa cách, thân nhưng không lờn… Với tôi lúc đó như có điều gì lạ lùng trong mấy khái niệm trên.
CON ĐỈA HAI VÒI
Chú Tám cầm tấm giấy đi lãnh đồ mà nước mắt rưng rưng. Vợ chồng Chú từ ngày đổi đời tới giờ cứ trông đứng trông ngồi tin tức của đứa con gái độc nhứt của mình. Mình già rồi, biết sống nay chết mai gì, mà sao sống cơ cực quá. Mình như mặt trời xế bóng mà con cái thì biền biệt tăm hơi. Cầu mong cho nó còn sống nó gởi thơ dìa để mình mừng, để coi bầy cháu ngoại bây giờ ra sao. Nếu nó có dư giả gửi dìa chút đỉnh thì cũng tốt, bằng nó chưa khá, mà có lòng tưởng tới mình thì gởi thơ cho biết tin tức không cũng được. Chú luôn luôn nói với Thiếm như vậy, rồi ngày lại ngày hai vợ chồng ngóng thơ con. Mà ác ôn, Cô Hai, con chú gần hai năm sau mới có điện tín về, gồm vỏn vẹn chỉ có hai câu: “Cháu gởi lời thăm chú thiếm được bình yên. Tụi cháu luôn luôn nhớ chú thiếm.” Dưới có ký tên thời con gái của cô Hai: Lê. Gặp Ông Bảy Năm Trên, chưa kịp chào hỏi, chú Tám đã khoe mặc dầu trong cách nói chú làm ra vẻ trách móc thở than: “Anh Bảy coi con Lê tui nó ác hông? Ai đời ra đi bỏ cha mẹ không tin tức gì hết mấy năm trời, bây giờ gởi thơ dìa cũng hà tiện chữ. Viết có hai câu mà lại kêu bằng chú nữa.” Rồi chú chép miệng: Nó sợ cái gì kỳ cục vậy hỗng biết! Con cái người ta thơ từ tin tức rần rần, nó thì không ơ. Mình muốn biết tin tức của nó mà nó làm cái mửng nầy thì cũng như không.
Ông Bảy hỏi lại, coi bộ ông cũng mừng lây:
-Bộ con Lê nó gởi thơ về thiệt hả? Vậy tốt quá trời rồi.
Rồi ông nói luôn không để chú Tám kịp trả lời:
-Mà nó bây giờ ở đâu vậy. Bên Mỹ hả? Anh phục tài tui chưa? Hồi đó tui quả quyết nó đi Mỹ mà hổng tin tui, anh cứ bán tín bán nghi. Hồi đó tui nói như vậy cũng có lý do, hổng lẽ tụi nó chết mất xác cả hai vợ chồng với mấy đứa con?
Chú Tám phân trần:
- Thì ai biết đâu nè! Sau vụ ngàn cân treo sợi tóc đó mà mình hổng thấy tăm hơi gì tụi nó hết, thì nghĩ một là tụi nó chết hai là nó di tản rồi mà không kịp báo cho mình. Anh nhớ không, hồi đó cách mạng pháo kích căn cứ nó nát nhừ mà. Tui nghi tụi nó bị chết mất xác, anh nghi tụi nó đi Mỹ cũng hợp lý thôi. Hổng lẽ anh trù ẻo con tui. Còn tui ngày nào cũng van vái cho anh nói đúng. Bây giờ nó ở Mỹ, điện tín gởi từ bên đó dìa nè.
Chú Tám đưa cái điện tín ra để làm chứng. Tấm điện tín đã nhàu nát vì chú móc ra móc vô nhiều lần. Ông Bảy liếc sơ qua rồi gật gù:
-Nó viết như vậy là nó khôn dàn trời rồi, nó sợ liên lụy cho anh đó. Đời bây giờ cẩn thận là phải. Lỡ một cái là chết. Con nhỏ tính kỹ thiệt.
Ông Bảy khen không tiếc lời. Chú Tám nghe con được khen khoái trong bụng, vỗ vai ông Bảy:
-Thôi dầu hèn gì cũng thể. Chiều nay anh qua nhà tui. Mình lai rai ba sợi với đế quốc doanh chơi. Chút nữa tui về bẻ sẵn một mớ me dốt để đưa cay. Cha, cây me sau nhà năm nay đậu quá, hổm rày tui nói dèm với bả hoài mà bả làm thinh, bây giờ mình có cớ rồi: nhậu để mừng đoàn tụ.
Ông Bảy Năm Trên chặt ngang không vị nể:
-Đoàn tụ khỉ gì, mới có thơ chớ bộ nó dìa đây sao mà nói đoàn tụ.
Chú Bảy không giận trái lại còn vui vẻ:
-Thì mình nói bậy vậy mà, thấy thơ cũng như thấy người.
Rồi chú triết lý:
-Chết mới hết chứ còn sống là còn gặp. Trái đất tròn mà!
Chiều hôm đó ông Bảy Năm Trên được dịp khề khà ly rượu đế quốc doanh đưa cay với me dốt để kể chuyện năm trên về thời con gái của cô Lê với chú Bảy, làm như chú Bảy không phải là cha của cô Lê. Kể chuyện đã đời, ông Bảy ngâm thơ ngang xương:
Chồng gần không lấy, lại lấy chồng xa
Mai sau cha yếu mẹ già
Chén cơm ai đỡ, chén trà ai bưng?
Rồi ông chép miệng:
-Hồi đó tới giờ tui ít thấy ông bà mình nói trật, mà từ hồi kẻ khôn đi học, thằng ngu dạy đời tới giờ sao tui thấy nhiều chuyện ngược đời quá. Lấy chồng xa vậy mà cha mẹ được nhờ. Nay gởi thơ mai gởi đồ. Cơm nước chè cháo gì cũng có. Còn lấy chồng gần thì hi hi…
Một lúc sau ông nói thêm:
-Thằng cha Mỹ Phước chủ nhà thuốc Tây đằng chợ gả con cho khỉ rừng xanh. Con lấy chồng gần mà có giúp đỡ gì được nó đâu. Vẫn bị đánh tư sản như thường, nhà bị đuổi lên đuổi xuống nên nhờ thằng con rể. Nó lên mặt dàn trời. Ai đời nó nói với ông già vợ mà nó nói trổng không. Con mình thì nó ngủ, mình thì nó khi dể. Thằng chả tức cành hông. Lâu lâu nó còn nẹo tiền sau khi bòn rút đã đời tiền của con gái thằng chả. Đúng như ông bà mình nói vừa bị cướp ngày, vừa bị cướp đêm.
Chú Tám vừa nhăm nhi vừa gật gù đồng ý. Chú thỏa mãn quá trời. Con mình thì biệt tăm biệt tích vậy mà có thớ quá, mình được nhờ, mà không bị mang tiếng gì hết. Như vậy là có phước dàn trời rồi còn gì. Hổng hơn mấy thằng cha tính non tính già, đem con dâng cho tụi nó còn bị dằn vặt, bòn rút? Rồi chú tự thưởng mình thêm một ly nữa. Rượu đế quốc doanh bậy bạ vậy mà khi vui uống cũng bắt đáo để! Cắn vô nửa trái me dốt thì còn sướng hơn làm vương làm tướng. Chú còn đang miên mang tận hưởng khoái lạc thì ông Bảy đập mạnh vô vai:
-Như vậy anh là người có hạng trong xóm mình đó nhé. Năm ngoái thằng trưởng phòng công an phường với thằng tổ trưởng an ninh còn hăm he mấy người có con di tản ra nước ngoài chớ năm nay thì hết rồi. Bây giờ nhà nước cần những người như anh đó anh Tám. Tui nói rồi để anh coi. Hổng chừng rồi đây anh được giấy ban khen cho mà coi.
Chú Tám thiệt thà không hiểu kịp lời ông Bảy Năm Trên nên hỏi lại:
-Bộ anh nói giả ngộ sao chớ, tui có biết cách mạng cách miết gì đâu mà anh nói vậy! Đánh Tây thì tui mới hụ hợ có vài ba năm gì đó rồi thấy mấy chả chèn ép quá trời tui bỏ dìa đây tới giờ. Đánh Mỹ thì tui còn bù trất hơn nữa, có theo mấy chả hồi nào đâu, đã vậy mà con Lê….
Nói tới đây chú Tám nín ngang, ý chừng chú muốn nói con Lê với chồng con đang ở Mỹ nhưng chú sợ vạ miệng nên thôi.
-Ấy, tui nói rồi anh coi hổng trúng phóc anh lấy cây anh đập lên trên đầu tôi.
Ông Bảy Năm Trên xác nhận:
-Nhà nước bây giờ sau chiến tranh nên nghèo, lại bị tụi phản động quấy phá trong nước không còn cho tiến lên xã hội chủ nghĩa. Phía Bắc thì bị bọn bá truyền Trung Quốc hăm he, phía Nam thì bọn tay sai bạo quyền phát động chiến tranh tiêu hao nên cần tiền ngoại tệ. Đâu có ngoại tệ để canh tân. Những người như con Lê gởi tiền bạc, hàng hóa về không phải giúp nước thì là gì. Mà không có anh thì sao nó gởi? Hỏi hổng phải anh có công sao? Không cấp bằng khen anh thì cấp cho ai?
Chú Tám nghe có lý nên gật gù:
-Anh nói tui mới thấy. Vậy mà thằng tổ trưởng an ninh cứ nói mấy thằng già tụi mình không còn lao động sản xuất được chỉ là tụi ăn bám. Tụi nó ăn bám thì có. Lớ quớ tui thà chịu nghèo biểu con đừng gởi đồ dìa thì Nhà Nước trơ mỏ. Tui nói dậy anh thấy phải không?
Tuy nói vậy, cái nghèo vẫn khiến chú Tám chờ đợi hằng ngày quà của con gái gởi về. Từ đó một vài tháng chú nhận được một lá thơ của con. Mỗi lần như vậy chú thiếm vui mừng hết cỡ, hết khoe người này lại khoe người kia. Và hôm nay chú nhận được giấy báo nhận quà. Trong giấy ghi rõ chú lên Tân Sơn Nhứt đúng tám giờ sáng để lãnh, và phải cầm theo sổ hộ khẩu.
Thiếm Tám phân vân hơi trỏng:
-Hổng biết con Lê gởi gì dìa đây? Vái trời nó khôn vong gởi mình mấy thứ bán được kha khá tiền để mình xoay sở, chớ đừng gởi bánh trái, mắc công đi lãnh hổng lợi ích gì.
Chú Tám rầy vợ:
-Bà sao nói năng hổng nghe lọt lỗ tai chút nào hết. Chuyện này mà cũng vái cái gì. Đồ tới đây rồi đang nằm chình ình ở Tân Sơn Nhứt mà bà mới vái thì bộ ông Trời ổng đổi được sao. Mà tui biết con Lê nó hổng đến nổi ngốc để gởi dìa mấy thứ đồ mắc dịch mắc ôn đâu. Tui nói rồi bà coi có trúng phóc không cho biết! Nó ở xứ văn minh chứ đâu phải xứ mạt rệp như mình vậy!
Thiếm Tám mỉm cười chịu đựng. Thiếm quá quen thuộc với cái tính làm ông hoàng ông trắm với vợ của chồng từ ngày mới cưới tới giờ.
*
Chú Tám xuống xe lam lúc trời mới còn tưng bửng sáng. Cảnh vật chung quanh vẫn còn ngái ngủ sau một đêm dài. Mấy năm trước chú có đi qua đây; chợ trời Lăng Cha Cả nhộn nhịp người mua kẻ bán, xập hàng tùm lum tà la mà bây giờ coi trống trơn, lạnh lẽo làm chú khớp ngang, phân vân không hiểu mình tới trúng chỗ không. Chú hỏi người tài xế xe lam cổng vô chỗ lãnh đồ từ ngoại quốc gởi về.
-Bây giờ còn sớm, bác lại đằng đầu hẻm kia.
Anh vừa chỉ vừa cười:
-Chỗ đó trước đây là đường vào động của mấy chú GI ngơ ngác, chỗ có mấy đứa nhỏ đi ra, đi vô đó đứng đợi, tới giờ sẽ có xe vô trỏng lãnh.
Chú Tám lững thững đi về phía có ánh đèn nơi anh tài xế xe lam chỉ. Mấy đứa nhỏ chạy ra mời níu một cách thân thiện:
-Ông Hai ngồi đây đi ông Hai. Ăn miếng mì thịt nghe?
-Bác ngồi nghỉ đây, uống cà phê đi bác. Chưa tới giờ đâu!
Vài người đã tới trước giờ tò mò nhìn chú. Chú hỏi bâng quơ không để ý tới lời mời mọc:
-Hổng biết chừng nào mới được vô hé?
Một bà nhanh nhẩu:
-Độ tám giờ thì có xe nhà nước cho vô, mỗi người góp ngàn rưởi tiền tổn phí xăng nhớt.
Chú Tám nghĩ thầm:
-Bộ đây vô trỏng xa lắm sao cà? Từ Gò Đen lên đây mấy trận xe lam mới hết năm ngàn. Ở đây vô trỏng nhà nước ăn ngàn rưởi thì chắc Tân Sơn Nhứt này rộng lắm. Ừ mà phải rộng như vậy mới đủ chỗ chứa đồ gởi về. Biết bao nhiêu người đi. Họ gởi đồ dìa, nếu chỗ nhỏ lấy đâu mà chứa?
Nhưng tánh tiếc tiền làm chú đặt câu hỏi:
-Mà bận ra có tốn tiền hông?
Chú chỉ thắc mắc về tiền phải trả chớ không thắc mắc về tiền có thể trả. Tiền ăn uống là tiền có thể không cần xài. Chú nghĩ thầm: Mình ráng nhịn lát nữa dìa ăn cho ngon.
Có tiếng một đứa nhỏ nào đó chẩu mỏ vô giọng đểu cáng.
-Hổng tốn cũng được nếu ông già chịu khó đi bộ, cha hà tiện hoài. Mỗi lần lãnh được cả chục ngàn đồng, có vài đồng mà cũng tiếc!
Chú Tám giận cành hông nhưng chú làm thinh. Mình có nói gì đâu mà nó dằn vặt mình vậy cà? Lại còn kêu bằng ông già này ông già nọ. Bộ mình không đáng tuổi cha nó sao? Rồi chú lảng ra chỗ khác để lại sau lưng những tiếng léo nhéo của mấy đứa nhỏ mất dạy:
-Hừ! Hà tiện gắt máu. Bữa nào cũng gặp mấy ông già nầy mở hàng thì mắc phong lông hết trọi. Xui hôm qua tới giờ còn xui. Chắc phải đốt phong lông mới được!
Chầu chực tới bốn giờ chiều Chú Tám mới được kêu tới nhận hàng. Chú đang đói bụng dữ tợn. Từ sáng tới giờ có gì dằn bụng đâu. Chờ hoài chờ hủy. Củ khoai mì ăn trước khi lên đường đã tiêu đâu mất rồi, làm cho chú thấy sự chờ đợi là cả một cực hình. Chú nhớ tới lời ông Bảy Năm Trên: Ở nước xã hội chủ nghĩa mình phải xếp hàng cả ngày. Đừng mất bình tĩnh, phải kiên nhẫn. Khi nghe đến tên mình chú đâm lo. Hộp quà bự xộn được đẩy ra trước mặt chú, nó đẹp đẽ, sạch sẽ nhưng có dấu mở ra và dán lại ở bên hông. Chú phân vân. Ai mở ra trước vậy cà? Mình tính đem dìa vợ chồng cùng mở ra để cùng đoán coi con Lê nó gởi gì dìa. Cho bả mừng vậy mà. Vợ chồng già lâu lâu chỉ nhờ có chuyện này để hủ hỉ với nhau.
Tiếng người cán bộ, giọng Bắc, lạnh lùng trống không:
-Ký tên vào đây xác nhận đã nhận đủ và không có gì thắc mắc khiếu nại!
Chú Tám cầm cây viết lên tính ký bỗng chú hỏi.
-Gói này của tui hả? Mà ai mở ra trước vậy?
Tên cán bộ trả lời quẹo đeo:
-Nhà nước! Bộ không muốn cho nhà nước xét hả? Biết đâu tụi nó nhân mình cho gởi quà về cho vào đấy những món hàng phản động, chống phá cách mạng, tuyên truyền sách động hay văn hoá đồi trụy.
Rồi hắn đánh đòn thực tế hơn:
- Thắc mắc hử? Ký vào chỗ này. Đi về chờ giải quyết sau. Chừng nào ở đây giải quyết xong sẽ có giấy báo trở lại nhận hàng.
Chú Tám không dè câu hỏi của mình coi chơi chơi vậy mà đưa đến cái khó khăn chú không lường trước được, có thể không nhận được quà hay có thể mang tội tày trời nào chắc, chú bèn thả bàn toán Tàu trong đầu. Chú giả lả:
-Đâu có! Tui hỏi cho biết dậy mà! Đâu.. ký ở đâu?
Tên cán bộ vẫn không đổi thái độ:
-Chỗ này. Nhưng phải đóng thuế đã. Thuế bảy trăm tám mươi nhăm đồng. Tiền thuế chín mét hàng hai trăm bảy mươi đồng, mười hộp kem Hoa Lan hai trăm, hai gói bột ngọt bốn chục, ba hộp sâm cao ly trăm rưỡi. Cộng với tiền thuế thuốc linh tinh và tiền tồn kho sáu mươi nhăm, vị chi là sáu trăm sáu mươi nhăm đồng. Có đem theo tiền không?
Chú Tám như rớt từ cung trăng xuống, chú chặc lưỡi:
-Chết hôn. Lúc đi mình cẩn thận đưa tiền bả giữ, mình chỉ cầm có mười ngàn đủ tiền xe cộ bây giờ tiền đâu mà đóng thuế. Chú nặn trán suy nghĩ và thất vọng. Giấy bảo lãnh chỉ biểu đem theo sổ hộ khẩu, đâu có nói đến tiền bạc thuế má gì đâu. Chú đứng tần ngần mặt thộn ra.
Tên cán Bộ hỏi, giọng bực bội:
-Không có tiền hả. Khi nào có tiền trở lại. Phải đóng thuế mới lãnh hàng ra được.
Rồi hắn đẩy gối hàng ra một bên, sửa soạn kêu tên người khác.
Chú Tám nhìn gói quà mà lòng đau như xé. Nó đó mà mình không nhận được. Đúng như ông bà mình nói: Cơm đưa tới miệng còn chưa chắc được ăn. Nghe kêu tên mình mừng thấy ông bà ông vải mà bây giờ phải xách đít về không hổng biết chừng nào mới lãnh được. Chú đứng như trời trồng, nhìn chầm bẩm cái tên và địa chỉ của mình trên gói hàng. Đúng là chữ của con Lê rồi. Bỗng nhiên Chú muốn ứa nước mắt sống.
Tiếng tên cán Bộ kêu tên người khác rồi người khác làm Chú đau lòng hơn. Họ kế tiếp nhau lấn Chú xa dần. Chú không còn biết đói bụng là gì. Mắt Chú như bị gói quà thôi miên. Giờ đây nó đang từ từ cách rời xa Chú như lúc nhỏ Chú chơi thả tàu ở ao, tàu bị nước đánh ra xa Chú chỉ biết nhìn mà không biết làm gì khác hơn. Lúc đó Chú ước ao phải chi có ông tiên nào đi qua hóa phép cho tàu Chú trở vô bờ lại. Bây giờ Chú lớn rồi, Chú không còn ước ao có ông tiên nữa, nhưng cũng chỉ biết đứng nhìn thôi. Chú chớp chớp nước mắt để nước mắt khỏi trào ra. Lê ơi, con có biết cảnh nầy?
Có ai vỗ nhẹ vào lưng Chú:
-Chào Bác, Bác đi nhận hàng từ ngoại quốc gởi về hả?
Chú Tám không trả lời, Chú khinh khỉnh quay đi. Thằng hỏi dị hợm! Ai vô đây chơi được? Ai ở không mà vô đây chơi?
Người thanh niên không giận vì thái độ giận cá chém thớt của Chú, tiếp tục thân thiện:
-Cháu cũng đi lãnh quà mà chưa tới tên. Chú bị chuyện gì trục trặc vậy?
-Họ biểu đóng thuế, mà tui không có đem theo tiền.
-Vậy hả? Mắc công quá há. Cháu cũng bị cảnh đó 6 tháng trước. Họ biểu về đợi giấy báo lại lần nữa. Chờ 6 tháng nay mới nhận được giấy báo lãnh hai ngày hôm qua. Họ bỏ hồ sơ mình xuống cuối.
Chú Tám làm mặt lanh:
-Bộ giống như đi mua hàng hợp tác xã vậy hả? Họ kêu tên mình không có ở đó, họ để hộ khẩu xuống dưới chót. Bộ ở đây cũng làm như vậy hả?
Người thanh niên cười vui vẻ:
-Dạ Bác nói đúng? Ở đâu cũng làm vậy mà thôi. Nhiều quá họ đâu có thì giờ làm giấy đi làm giấy lại hoài.
Rồi anh ta hỏi nhỏ:
-Mà Bác bị đóng thuế bao nhiêu?
-Tui nhớ không rõ, đâu hơn bảy trăm đồng mới, hổng biết bao nhiêu đồng tiền mình. Tiền mới cũ tui lộn xộn lắm, tính không ra.
-Mà Bác có nghe Bác được gởi gì về?
Chú Tám buồn buồn:
-Nghe đâu như có 9 thước hàng và 10 hộp kem Hoa-Lan. Tui hổng biết kem Hoa-Lan là kem gì. Hổng biết phải cà lem hông. Mà chắc hông phải đâu. Chảy hết còn gì?
Người thanh niên bật cười:
-Đó là kem thoa mặt cho đàn bà. Nó là đồ mỹ phẩm. Thứ nầy đóng thuế nặng nhưng bán ra chỉ có 2, 3 đồng thôi. Ai gởi cho Bác mà kỳ vậy? Sao Bác không biểu họ gửi thứ gì về ít bị đóng thuế mà bán ra được khá khá tiền phải có lợi hơn không?
-Vậy hả? Tui đâu có biết. Mà tui với bả đâu có cần thứ kem đó làm gì? Bả già rồi. Hồi nào giờ Bả đâu có xức kem xức kiết gì đâu.
Rồi Chú từ giã:
-Thôi Cậu ở lại, tui dìa. Chờ sớm mơi tới giờ đói bụng muốn rã ruột mà phải dìa tay không.
Người thanh niên chận Chú lại nói nhỏ:
-Cháu thấy Bác tội nghiệp cũng muốn giúp, nhưng mà số tiền nhiều quá, gần bốn trăm ngàn lận. Mà Bác ở đâu?
-Tui ở Gò Đen. Xin giấy phép đi đường cũng hết một buổi. Chỉ đi được có một ngày.
-Cháu ở Nhà Bè lận. Phải chi ở gần cháu đưa Bác mượn đỡ rồi một hai hôm xuống thăm Bác nhận lại sau. Mình phải giúp đỡ nhau khi khó khăn túng ngặt. Nhưng mà…
Anh ta chắc lưỡi, làm bộ suy nghĩ rồi ấp úng:
-Cháu đề nghị như vầy Bác nghe có phải không rồi quyết định sau. Cháu đưa tiền Bác đóng thuế. Bác trả cháu bằng 5 thước hàng và mười hộp kem Hoa Lan. Bác cho cháu một vài món thuốc tây. Cũng như cháu bán đồ dùm Bác vậy mà. Bác hổng biết chứ đem ra chợ trời tụi nó mua rẻ mạt mà nhiều khi con bị gạt lấy mất đồ nữa. Tụi làm ăn ở chợ trời hổng tin nổi đâu.
Chú Bảy suy nghĩ thật nhanh: Mình còn lại 4 thước vải, kem thì mình hổng cần rồi, thuốc tây thì mình đâu biết thuốc gì trị bịnh gì. Thôi chịu đại cho rồi. Nói qua nói lại hết thì giờ. Hổng biết chừng nào mới được kêu trở lại lần nữa. Mỗi lần đi là mỗi lần khó.
***
Thiếm Tám mặt mày tươi rói ra mừng chồng!
-Dữ thần hông, đi lâu quá trời. Chờ muốn rục xương sống từ lúc 5 giờ sáng tới giờ.
Rồi Thiếm ước thầm trong bụng:
-Ưng ai nó gởi đồ dìa nhiều nhiều để vợ chồng già qua khỏi cơn túng ngặt này.
Thiếm vừa đỡ gói đồ trên tay người chồng vừa nhìn Chú Tám áy náy:
-Ông đi sao lâu dậy? Có mệt lắm hông? Cơm nước gì chưa?
Chú Tám không thèm trả lời, Chú quạu quọ bước vô nhà nhìn xéo về cái lồng bàn đậy mâm cơm. Đói muốn rã ruột mà còn gặp chuyện buồn. Đồ con gái gởi về bị chúng lấy hết phân nữa vì tiền thuế. Không biết thuế gì mà mắc dàn trời, gần bốn trăm ngàn đồng bạc. Thiếm Tám lẽo đẽo đi theo chồng. Chú Tám nói mà không quay lại:
-Đó Bà mở ra coi. Tui mệt quá rồi.
Thiếm Tám vừa cười mỉm mỉm vừa lắc gói hàng. Bỗng Thiếm kêu giựt ngược:
-Ông ơi, sao lỏng lẻo vậy nè?
Thiếm Tám trả lời luôn:
-Bộ họ ăn bớt hả?
Chú Tám biết chuyện này rồi, Chú bực mình quay lại chưa kịp trả lời thì có tiếng khàn khàn của tên trưởng phòng công an xã trước cửa:
-Có Chú Tám Thiếm Tám ở nhà không?
Chú Tám nói thầm thì với vợ:
-Không biết có chuyện gì mà thằng này nó kiếm mình giờ nầy?
Mấy thằng công an mà kiếm thì chắc là không có chuyện tốt lành gì.
Chú nói lớn:
-Dạ có!
Hắn đon đả:
-À Chú Tám về tới rồi à!
Rồi hắn bước vào nhà không cần đợi mời. Mang tiếng trưởng phòng công an như hắn mà phải lên tiếng trước khi vào nhà là nhẹ thể quá rồi. Hắn liếc mắt lên gói quà nói giọng tấn ơn:
-Hôm qua Chú xin phép xin đi thành phố Hồ Chí Minh, thông cảm lắm mới cấp giấy phép sớm. Bà con mình mà. Chớ người khác thì phải đợi cả tuần. Lúc nầy công việc nhiều quá mà nhân viên thì bận công tác đột xuất hoài.
Chú Tám và Thiếm Tám trao đổi cái nhìn với nhau. Chú chỉ biết vuốt đuôi trong khi chờ đợi nó muốn gì.
-Dạ tui xin cám ơn ông trưởng phòng.
Tên công an ngồi xuống cạnh đó, không kịp mời. Tự nhiên như thanh niên Hà Nội. Hắn nói giọng chậm rãi vừa cố làm thân, vừa nói giọng của kẻ cầm quyền ra lệnh.
-Lát nữa 7 giờ rưỡi, mời Chú đi họp tổ. Bữa nay có một đồng chí trên quận xuống thuyết trình đề tài rất hấp dẫn: Đế Quốc Mỹ là con đỉa hai vòi. Xin Chú đến đúng giờ. Tôi cũng có ở đó nữa.
Chú Tám cố nén cái thở dài, nói nhỏ xụi lơ:
-Dạ, ăn cơm xong tui sẽ đến.
Hắn làm bộ đứng dậy.
-Thôi tui về để Bác xơi cơm. Mà gói hàng đây à? Bác có thể mở ra xem tí được không? Hàng bên Mỹ không tốt và bền bằng hàng của Liên Xô ta, tuy vậy nó có cái mã bề ngoài đẹp đẽ. Tui muốn xem để chúng ta cùng chia vui vậy mà. Mình ở trong một xã như ở trong một gia đình lớn.
Chú Tám ngần ngừ, đưa mắt hỏi ý kiến vợ. Thiếm Tám làm bộ không thấy cứ tiếp tục đủng đỉnh sửa soạn lại hai đôi đũa trong mâm cơm. Hắn nói tiếp:
-Tụi Mỹ nó đểu lắm. Mình đánh với nó hơn hai chục năm nó mới chịu cút đi mà vẫn chưa chịu bỏ cuộc, vẫn tìm cách phá hoại cách mạng. Tụi nó gởi tài liệu chống phá cách mạng về mãi à! Tụi tui ở đằng cơ quan nhờ quần chúng giác ngộ chỉ điểm đã phát hiện nhiều lần rồi.
Vợ chồng Chú Tám xanh mặt, thằng nầy muốn gì ở đây mà giở giọng doạ nạt nói xa nói gần. Nếu người khác thì dễ đối phó. Chú tuy thiệt thà, nhưng cũng đủ miệng lưỡi để đối phó, đằng nầy nó là xếp công an chỗ mình, đời thiệt éo le. Lúc mình làm cách mạng thì nó chắc còn mũi dãi lùm tùm, ở truồng dòng dõng tắm nước mưa. Mình đã thấm thía cái cách mạng đó nên rã hùn không chơi nữa. Bây giờ nó nhơn danh bảo vệ cái cách mạng mình chối bỏ để dòm hành, bắt chẹt mình… Chú không thèm dấu diếm tiếng thở dài, quay lại nói với vợ:
-Đâu Bà nó mở ra coi con nó gởi gì dìa, sẵn có ông trưởng phòng đây đến chia vui với mình. Tui ăn qua loa ba hột cơm tối rồi còn đi họp.
Thiếm Tám trả lời hập hực, một thái độ ít thấy từ ngày cưới nhau đến giờ.
-Thì ông mở hổng được sao, phải tui mới được?
Hắn ngó Thiếm rồi quay lại ngó Chú, chắc hắn giận lắm nhưng cố nén. Hắn châm điếu thuốc Phù Đổng, hút một hơn dài để dằn cơn giận và lấy lại vẻ tự nhiên.
Để không khí khỏi ngột ngạt, Chú Tám giả lả phân bua:
-Ông trưởng phòng thấy đó, nhiều khi bả chướng vô lý hết sức, tui chịu đựng mấy chục năm nay rồi lận.
Hắn đỡ lời:
-Có lẽ Thiếm muốn dành cho Chú danh dự mở quà vì Chú có công lao đi nhận lãnh về. Vậy cũng tốt thôi. Ta tranh thủ thời gian để còn đi họp. Buổi họp tối nay quan trọng lắm ta không thể trễ được.
Gói hàng được mở ra, ba cái đầu chụm lại. Nhìn xuống đáy hộp khi tất cả mọi thứ đều được lấy ra đặt lên bàn: xấp vải mỏng dánh, mấy gói thuốc thông thường, 2 gói bột ngọt, 2 gói thuốc dán, mấy chai dầu xanh, một bao rau câu, 2 gói sâm Cao Ly, một lá thư, 2 hộp kem Hoa Lan.
Hắn cầm hộp đựng quà lên xăm xoi:
-Cái hộp này chẳng có gì đặc biệt, chắc chẳng có gì dấu trong đó. Hai hộp kem này tui đem về cơ quan nghiên cứu. Đời bây giờ gián điệp tinh vi lắm. Gì cũng có thể ngụy trang được hết. Nhiều khi họ dấu dưới đáy hộp đồ quốc cấm hay chuyển về đây hóa chất bí mật ngụy trang dưới hình thức mỹ phẫm. Khi nào nghiên cứu xong, cơ quan sẽ gởi giấy mời Chú đến lãnh về.
Thiếm Tám bực mình nói cho hả tức:
-Tôi chắc chắn không có gì bất hợp pháp. Sau khi nghiên cứu xong, ông trưởng phòng cứ liệng vô thùng rác, đừng tính chuyện gởi lại làm gì cho mất công mất linh. Lần sau tui biểu nó gởi món gì có thể nhìn thấu qua được để khỏi nhọc lòng ông trưởng phòng.
Hắn cố tình không hiểu:
-Vứt chi cho phí của giời, ta có thể cho vào hộp trở lại nếu khi lấy ra ta chứa trong cái gì sạch sạch. Thứ nầy để đàn bà thoa mặt rất tốt. Hắn vừa nói vừa cho hai hộp kem vào túi quần xùng xình của hắn. Ta phải tận dụng phế thải và phát huy sáng kiến, đó là lời chỉ dẫn sáng suốt của Đảng và nhà nước.
Chú Tám nói điều ơn nghĩa:
-Thôi coi như vợ chồng tôi biếu bà nhà. Bà nhà tui cũng không cần thứ quỷ quái đó làm gì. Chú nhìn về phía vợ thật mau vừa kịp bắt gặp tia sáng bất mãn trong ánh mắt bà vợ. Chú làm bộ ngầy ngà Thiếm:
-Thôi Bà đem cất mấy thứ lỉnh kỉnh này đi, lấy chỗ rót nước mời ông trưởng phòng. Rồi dọn cơm tui ăn để còn đi họp.
***
Tên cán bộ trên bàn thuyết trình viên nói thật hăng say. Hắn vung tay bên nầy, quơ tay bên kia bọt mồm vung vãi tùm lum tà la hai bên mép:
-Bác Hồ thật sáng suốt khi ví đế Quốc Mỹ với con đỉa hai vòi. Thật không còn hình ảnh ví von nào đúng hơn. Đỉa hai vòi hút máu người bằng cả hai đầu. Đế Quốc Mỹ hút máu nhân dân thế giới cũng bằng hai vòi. Một vòi nó bóc lột nhân dân trong nước. Nó làm cho nhân dân Mỹ ngày càng nghèo đói. Một vòi nó hút máu các dân tộc nhược tiểu khiến cho các dân tộc nầy ngày càng đói khổ, cơ cực, tài nguyên ngày càng khô kiệt. Bác Hồ vô vàn kính yêu của nhân dân ta đã nhận định rất cao siêu và chí lý rằng….
Mặc cho tên thuyết trình viên nói nhăng nói cuội, trên trời dưới đất. Dưới nầy Chú Tám tâm sự với ông Bảy Năm Trên:
-Từ cha sanh mẹ đẻ tới giờ tui mới nghe con đỉa hai vòi. Hồi trước tới giờ tui chỉ nghe đỉa con, đỉa mẹ, đỉa mén, đỉa trâu chớ có nghe chuyện con đỉa hai vòi đâu. Bây giờ tui mới hiểu nghĩa con đỉa hai vòi là tụi cầm quyền. Tụi ở Mỹ bị đỉa hai vòi hút máu quá nên nghèo không thể gởi đồ dìa cho mình nhiều hơn. Ở xứ mình trước khi nhận quà từ ngoại quốc gởi về mình bị vòi đỉa thuế hút máu. Sau khi đi tới nhà còn bị vòi công an hút thêm lần nữa.
Rồi Chú cười:
-Sau khi bị con đỉa hai vòi hút máu, gói đồ của con Lê, ốm nhom, ốm nhách, nhẹ hều nhẹ hểnh.
Ông Bảy Năm Trên thêm:
-Chưa hết đâu, thằng mà anh nói giúp đỡ anh ở Tân Sơn Nhứt cũng là một vòi đỉa thôi. Vòi mới mọc ra sau nầy. Vòi ăn theo. Nó chịu ăn với tụi trong đó để bắt chẹt anh đó chớ. Lúc nầy ai mà ở không vô đó làm chuyện bao đồng. Chúng ta, nhân dân Việt Nam mình bây giờ không bị nạn con đỉa hai vòi mà con đỉa cả chục vòi, cả trăm vòi lận. Bác Hồ của tụi nó là thánh cũng không thể nào tưởng tượng được con đỉa cộng sản một trăm vòi đang hút máu nhân dân Việt Nam.
Rồi ông hỏi nhỏ:
-Anh nói thằng đó lấy hết mười hộp kem Hoa Lan sao lại còn hai hộp cho thằng công an bợ hay vậy?
Chú Tám cười gượng ngạo, rồi nói bằng một giọng thật cảm động:
-Tui năn nỉ nó lấy một hộp sâm cao Ly chừa hai hộp kem lại để bả thử bôi coi sao. Mấy tháng sau này bả lao động xã hội chủ nghĩa nhiều quá nên da mặt xần xùi đen đúa quá.
Ngưng một lúc lâu Chú nói như tâm sự:
-Mà hồi đó tới giờ tui có mua được cho bả một thứ mỹ phẩm nào đâu. Mỹ phẩm sang nhứt của bả là xà bông Cô-Ba, bồ kết với dầu dừa thôi.
Ông Bảy Năm Trên vỗ đùi cái chách vừa ngó chừng lên bàn thuyết trình vừa kề tai Chú Tám nói nhỏ:
-Tôi hiểu rồi, ông bạn già muốn cho chỉ ở nhà, trắng da dài tóc chứ gì?
Rồi Ông nói một câu khó hiểu:
-Nhưng trước khi muốn cho bả trắng da dài tóc thì anh phải chặt đầu mấy con đỉa đi.
Ông nói phần cuối câu thật lớn.
Mấy người lối xóm ngồi gần nhìn hai ông bạn già, ngơ ngác.
(San Antonio, Nov, 1982)
Còn gì nữa đâu!
Trái đạn đại bác nghiến răng tử thần xé không gian rít dài từ xa, bay qua xóm nhà lá, rớt chụp xuống khu cao ốc bên kia đường. Hùng dửng dưng đứng nhìn đám bụi khói bựng lên cùng với cái chuyển mình xuống của toà nhà. Hình ảnh chết chóc đã trở thành thường tình. Những căn nhà chung quanh lần lượt biến thể dưới bước chân hung thần khổng lồ. Công trình xây dựng đối diện giấc mơ quyền thế. Nhân loại chìm ngập dưới cơn hồng thủy bạo lực. Những gia đình chết chẳng toàn thây như kiếp trước phạm tội tày trời giết cha hại mẹ. Tấn tuồng lập lại quen thuộc đến nhàm chán thị giác. Tấm thảm máu phải trải dưới bước đi vinh quang của những kẻ tập tành chơi trò thay đổi bước đi lịch sứ.
Hùng quẹt mồ hôi lấm tấm trên trán chống xuổng xuống đất, buồn cười nghĩ đến chuyện mình đang làm. Đào để trốn sự sợ hãi. Yếu đuối, bất lực nên bằng lòng với sự che chở của rủi may. Lời than thở của hai người láng giềng bên kia hàng rào về tính chất vô nhân của sự pháo kích khiến anh cảm thấy chuyện đào hầm như trò hề rẻ tiền không chọc được cười ngay cả đám khán giả dễ tính. Vô ích thôi. Ai nghe? Chiến thuật chiến lược đi kèm với bản chất. Làm sao bảo một em bé gái thay trò chơi búp bê, bán hàng bằng trò bắn bi, u mọi? Từng cục đất bự được xắn liệng lên miệng hầm. Cái lỗ nhỏ xíu, giờ đã lớn rộng. Chỉ cần lót bộ ván ngựa lên nữa thì sẽ thành một cái hầm hết xẩy. Hùng tự thưởng mình bằng nụ cười. Anh vô nhà khệ nệ bê một tấm ván ra rồi trở vô kiếm búa, kềm, xà beng, nạy một tấm tôn đang che dàn bếp kéo lê lết ra chỗ miệng hầm. Bà chủ nhà bên kia hàng rào bông bụp nói chõ qua:
“Cậu Hùng tới bây giờ mới làm hầm à? Nhắc cả tháng nay mà cậu có nghe đâu. Mấy cậu đàn ông thanh niên ỷ tài ỷ tận lắm. Có bề gì rồi đổ thừa tại số, tại phần ... .”
Người đàn bà liếc mắt lượng giá công trình trước mặt:
“Cạy lấy hết mấy tấm tôn đi, chồng lên cho chắc. Thời buổi nầy ... .”
Hai người không ai bảo ai đều đưa mắt theo dõi mấy tàn lửa thông điệp của sứ giả tử thần đang bịt kín một khoảng không gian.
“Có sao không cậu Hùng? Người ta chạy qua Mỹ, qua Úc tùm lum tà la. Tui sốt ruột ghê mà không biết chạy đi đâu. Muốn dìa Cần Thơ, miệt quê ngoại xấp nhỏ ở đâu độ vài bữa cho yên rồi lên. Tía xấp nhỏ biệt tăm biệt dạng cả tháng nay, mẹ con tụi tui như cụt tay cụt chưn không biết đường nào mà mò. Ở đây hồi hộp quá.”
Hùng thẳng lưng lên, nghỉ xương sống, nhìn từng bựng khói xa xa, sau tiếng hoả tiễn hú như bò rống.
“Cháu cũng hỏng biết có sao không nữa. Sài Gòn còn hỏng yên miệt dưới làm sao yên được. Thời buổi này di chuyển khó giàng mây. Dì lại có mấy em nhỏ.”
Sự thất vọng hiện rõ trên gương mặt người đàn bà.
“Chắc cũng hỏng tới nỗi nào đâu. Nhằm nhò gì. Sài Gòn rộng lắm. Vài bữa nữa tụi nó hết đạn cho mà coi. Nói đúng ra, họ đã dàn xếp đâu đó xong xuôi rồi ... Đâu có chuyện thua ngon lành vậy. Dì nghĩ coi, Nam Vang nhỏ bằng bụm tay, quân đội ì ạch, súng đạn cũ mèm còn chống cự được cả tháng ... Nói cùng mà nghe, Sài Gòn mình nếu có thua thì ít nhứt cũng phải sáu tháng nữa ... .”
Ánh mắt trách móc chém ngang mặt Hùng:
“Nói như cậu cũng như không. Rồi tui biết chạy đi đâu? Nghe nói ở Ban Mê Thuột, tụi nó bắt bên mình đem ra sắp hàng bắn bỏ trả thù lềnh khênh.”
Hùng nựng má thằng nhỏ vừa mới chạy ra nắm áo mẹ:
“Nói thì nói vậy, chứ trong sáu tháng đó, biết bao nhiêu là nước chảy qua cầu. Có thể mình được đồng minh tiếp viện cũng không biết chừng.”
Dì Sáu mở cờ trong bụng:
“Ờ hé, cậu nói tui mới thấy. Hỏng lẽ mình hỏng có ai binh hết trơn hết trọi sao?”
Dì ẵm đứa con lên, kéo vạt áo hở rún nó lên chùi mũi nó.
“Nhưng mình phải lo làm sao để sống tới đó. Pháo kích liên tu bất tận kiểu này bà con ở nhà lá như mình có môn ngáp sớm. Nhà lầu, hầm bê tông cốt sắt còn chưa thấy gì ... Huống hồ ... .”
Dì chuyển ánh mắt khỏi căn hầm:
“Tui nghe thằng Chín lơ xe đò nói tụi kia đương đào công sự ở xa lộ, chỗ nhà máy xi măng Thủ Đức. Nó phải chạy dìa bằng đường trong. Ngã Bình Triệu. Sợ bị chơi trò lùa dân đi trước đỡ đạn như mấy chỗ khác .”
“Dạ ... mà một hai thằng nhằm nhò gì. Tụi nó làm gì đi mau dữ vậy được. Mới hôm qua còn ở Biên Hòa mà. Bộ bên mình chết tiệt hết rồi sao?”
Hùng nhấn mạnh chắc nịch câu xác quyết kết luận.
“Hỏng tới nỗi nào đâu. Dì đừng sợ!”
Người đàn bà chụp câu nói như vồ một cái phao.
“Nói vậy tui khỏi dìa Cần Thơ hả cậu?”
Hùng làm thinh, rảo mắt trên khung cảnh điêu tàn.
Hỏa tiễn vẫn liên tục rú trong không gian, phì phèo những âm thanh chết chóc. Thần chết đang dạo bước lãng du kéo dài lưỡi hái vô tình trên đầu mọi người. Tiếng súng cối ùm-ọc, tiếng chắc-bụp, tiếng M-16, AK hoà nhịp nổ rền. Âm thanh vỡ của địa ngục trong bản luân vũ ác thần. Nhà cửa im lìm. Không khí căng thẳng, ngưng đọng, cần phải ra đường nghe ngóng tình hình. Ở trong cái rọ giữa xóm, sự sợ hãi càng lúc càng tăng gia.
Hùng đi ngòng ngoèo trong xóm, dòm trước dòm sau, lần theo những vách lá đang nép mình sợ hãi, bước ra đầu ngõ. Một đám đông đang lấp ló trước hẻm. Anh rùng mình. Bên kia đường hai xác chết cạnh một chiếc xe xích lô chỏng gọng. Mấy con ruồi xanh vo ve lên xuống bên tặng phẩm bất ngờ. Bốn cái chân ngã sang màu xanh tím lạnh lẽo, thò dưới tấm nylon đấp điếm sơ sài. Hùng ngó chỗ khác, nín thở. Người qua lại rảo bước mau không muốn quấy động giấc ngủ kẻ không may ...
Một người hàng xóm chận Hùng lại nghẹn ngào:
“Bên mình đầu hàng rồi.”
Một ngọn gió lạnh buốt giá thổi qua bầm nát mặt Hùng.
“Cậu bước vô nhà thằng Tư nghe ra-dô đi. Ông Minh tuyên bố rồi.”
Hùng bàng hoàng tột độ, không buồn ngó theo dáng đi thất thểu của ông ta, hai tay buông thõng đong đưa trong không khí. Tiếng ông Tổng Thống trật thời trầm trầm như tiếc thương thân phận: “Mời mấy bạn bên kia ngưng bắn, về đây thảo luận việc trao quyền..."
Những bước chập choạng trong trạng thái mơ ngủ dẫn dắt Hùng. Tất cả băng giá trên địa cực đổ xuống đầu anh, phủ trùm kín mít. Mọi vật mờ nhạt. Những giọng nói hớt hãi, những lời bàn tán ngại ngùng vo ve như tiếng ong vù, ồn ào như buổi tan học, mơ hồ như gió thổi vào cành tre, vi vu, ríu rít mong manh, chập chùng giữa không và có. Thế là hết. Miền Nam không còn nữa. Chúng, bắt đầu từ giờ phút này thành kẻ thắng trận. Bao nhiêu máu đổ trở thành vô ích. Bao nhiêu nỗ lực chống đỡ tan biến bọt bèo. Những người cầm súng trước đây rồi sẽ ra sao? Những gì sẽ tới với minh, với những người dân ngây thơ yên phận sống sót giữa hai lằn đạn tương tranh?
Hùng thừ người. Nỗi thất vọng đè bẹp anh. Kiệt sức, trống rỗng, hụt hẫng, chới với xuống vực sâu không đáy. Trí óc lờ mờ, đặc sệt chất keo, lú lẫn, ngơ ngác như gà con lạc mẹ.
Tiếng súng lơi dần rồi dứt như điệp khúc mưa sắp tạnh. Đường phố trong chớp mắt tràn đầy tiếng động ồn ào, vội vã, tuyệt vọng của các loại xe, đôn đáo cùng khắp. Xe hơi, xe gắn máy, Vespa, Honda, xe đạp, xích lô, ba bánh. Mọi người túa ra đường nhớn nhác, láo liên. Phải ra khỏi nhà. Phải gặp bất cứ người nào để khỏi nhìn khung cảnh buồn thảm chung quanh. Khỏi đối diện với chính mình. Khỏi lo lắng cho số phận. Đường phố càng chật ních, sự đổ xô càng quýnh quáng. Ra đường bồn chồn. Hội nhập nhắm mắt, tránh né cảm giác tuyệt vọng. Những người lính rã ngũ, chân không, áo thun, quần cụt, hớt hơ hớt hãi xin một cái quần, một cái áo. Những câu an ủi xúc động. Những nắm tiền chia xẻ dúi tận tay. Những giọt nước mắt thông cảm. Thỉnh thoảng một tiếng súng lục nổ, tan loãng trong âm thanh hỗn tạp của giờ tận thế. Đoàn người dãn ra rồi túa lại chiêm ngưỡng thương xót người hùng. Những cặp mắt trầm trồ thân thiết. Những dấu thánh giá được vẽ trong không gian. Những bàn tay nâng niu sửa lại thế nằm. Những cái vuốt mắt thành kính. Hùng muốn bật khóc. Mới đây, họ là thành trì, là niềm kiêu hãnh của mọi người, giờ đây riêng họ gánh chịu những thua thiệt không thể mô tả. Hoặc tủi nhục, cuống cuồng đào thoát trong vô vọng với tâm trạng lửa rừng vây bốn phía, hoặc tuẫn tiết với niềm thất vọng vô bờ. Riêng mình họ. Cô độc.
Hùng bước mau về nhà. Hối hả. Khác với buổi sáng lúc ra ngõ thật chậm, cẩn thận. Cái hầm nằm chênh hênh, trơ trẽn, vô duyên, như người con gái buôn hương trong dáng ngồi xuống cái thau để rửa. Tấm tôn phủ hờ phía trên chừa một lỗ tối om khiêu khích. Anh cúi xuống lượm cái xuổng quăng vô một góc nhà, lúi húi đẩy xe ra. Chiếc Vespa mắc dịch cả tuần nằm ụ cứng đầu không chịu nổ máy, xịt xịt vài cái rồi im thin thít. Chỉ còn một lớp xăng mỏng tráng dưới đáy bình. Anh nghiêng xe sát xuống mặt đất, đạp mạnh. May quá, xe nổ dòn tan. Đầu hẽm lúc này đông như hội đang lao nhao chỉ trỏ bàn tán. Chiếc Vespa gia nhập vào giòng thác xe cộ hoang mang của giai đoạn giao thời, chập chờn như đoàn quân ma rảo bước dạo trần thế tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhơn.
Bản năng và tiềm thức đang hướng dẫn Hùng. Thế giới thực tại vẫn hiện hữu nhưng hình ảnh đã tan biến, không còn in trên võng mô ai. Vũ trụ biến thành chất lỏng không màu, trong suốt không thể tác động được lên tri giác khi phần đất thương yêu bị giải thể. Câu tuyên bố "Yêu cầu binh sĩ VNCH các cấp ngưng bắn, tập trung về một nơi ... ” như một bản án tuyên xử tử hình đối với mọi người. Lời thơ của người nhạc sĩ phản chiến như một sự mai mỉa triền miên: “Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm từng nhà, tôi sẽ đi thăm từng làng ... ” Hùng bực bội rú ga mạnh hơn. Lách, lạng như những anh hùng xa lộ phóng trong nước rút.
Chưa chắc, chỉ là ước mơ chủ quan. Chiến tranh đồng nghĩa với ngăn cách, thù nghịch. Hòa bình sẽ đủ điều kiện kết lại tình người. Nhưng sao phải theo kiểu “từ Bắc vô Nam nối liền cánh tay " mà không ngược lại? Đánh vào lòng người quá ê chề vì chiến tranh, cố tình quên những yếu tố khác để đòi hỏi một điều ngụy trá. Hòa bình còn bao nhiêu vấn đề cần phải đối phó đâu để đi thăm từng nhà, từng làng? Trò chánh trị bịp bợm của lãnh tụ ngày xưa, lần này được nhai lại bằng âm thanh và tiếng hát ru ngủ người nhẹ dạ. Giờ đây mọi chuyện đã lỡ. Tấn tuồng đã vãn. Chiến tranh đã tàn. Thành đã bị hạ. Dân chúng dầu có được hàng triệu lời chiêu an, vẫn không tránh thoát giai đoạn chuyển tiếp. Và biết bao nhiêu cảnh thành cháy vạ lây, ngọc thạch câu phần!
Xe ngừng trước căn nhà quen thuộc. Khóa công-tắc xong mới lấy làm lạ sao mình được an toàn tới đây trên con đường đầy rẫy xe cộ loạn xạ như vừa rồi.
Cửa sắt đóng, cửa bên trong khép hờ ... Một đôi mắt đen lóng lánh lấp ló qua khe hở. Đẹp thân thiết, như buổi bình minh hiu hiu gió mát, đầy tiếng chim líu lo trên cánh đồng mạ xanh lất phất. Tiếng reo mừng thật tươi, ngọt ngào đánh bạt mất những bực bội trong lòng người đối diện.
Gió trời ngào ngạt thổi tắt phụp cả vũ trụ đang sôi lửa. Câu nói giọng cười đem đến sự tươi mát như cây cỏ hưởng cơn mưa đầu mùa sau bao tháng dài chịu đựng nắng hạn. Ánh mắt đó, nụ cười đó, quen thuộc, gần gũi. Đôi mắt to ươn ướt khi ngạc nhiên có khả năng hớp hồn những quả tim non vụng dại. Nụ cười, không ai khỏi xốn xang. Cả nửa tháng nay không gặp. Mọi người bận rộn với công việc riêng tư (dường như giai đoạn rẫy chết của đất nước cuốn hút mọi người vào những công việc cuối cùng phải giải quyết). Anh nhìn thẳng vào mắt người yêu cố gắng đè nén xúc động:
“Chắc em biết rồi. Ổng Minh vừa tuyên bố đầu hàng. Chúng sẽ vào thành phố trong một hai tiếng đồng hồ nữa. Miền Nam đã chết thực sự, không còn hy vọng gì.”
Người con gái đứng thẳng, một tay đưa lên vén mớ tóc mai, tay kia buông thõng với tờ báo phát hành hôm trước.
“Hương nghe rồi, buồn thiệt anh hé. Ồ, anh ngồi chơi. Gì đâu mà phải đứng?” Ánh mắt dịu vui tươi, nụ cười thật thanh bình. Có gì không ổn. Sự hòa hợp lạc điệu giữa câu nói bình thường và hoàn cảnh nước nhà. Anh miễn cưỡng ngồi xuống ghé, dáo dác ngang dọc, cố đoán ra điều khác lạ đang lờ mờ cảm thấy. Hương ngồi xuống ghế đối diện, thân mật:
“Anh đừng buồn nữa. Chế độ nào rồi thì mình cũng là dân, sống trong chế độ chớ mấy ai lựa chọn chế độ đâu.”
Hùng nhìn thẳng vào mắt người tình. Đôi cánh bướm chớp chớp tuyệt vời, hai viên ngọc đen huyền long lanh, ướt át. Đôi mắt kéo thời gian trở về hai năm trước, đã làm mát cái nóng cháy da buổi trưa gặp lần đầu lúc tình cờ cùng bước vào thư viện Lincoln.
Ngoài đường vọng lại âm thanh quái đản xô bồ. Tiếng cãi cọ giành giựt mấy bao gạo, bao đường chen lẫn với tiếng xích sắt của đoàn thiết giáp lạ mặt đang nghinh ngang nghiến nát đường phố bỏ ngỏ, vô chủ.
Tay Hùng bỗng cảm giác mát ấm, bàn tay nàng đã đặt lên, anh chồng tay kia lên. Hương cười ngỗ ngáo giấu tay còn lại xuống dưới bàn, giống như trước đây lúc ngồi quán kem Mai Hương chơi trò tình yêu học đường.
Một cái bông huệ trong lục bình trên đầu tủ buffet rơi xuống thêm vào đám bông tàn héo úa rải rác trên tấm khăn bàn bằng chỉ móc. Hùng rút tay ra phác một cử chỉ thất vọng:
“Kinh nghiệm lịch sử cho anh tiên đoán họ sẽ có những biện pháp ... .”
Hương thay đổi lại thế ngồi, đôi chân tréo lên nhau, quần sa tanh đen mịn, mướt óng hằn rõ sự mạnh khoẻ, tròn trỉnh giấu dưới đó. Giọng nàng thật gợi cảm:
“Má em cũng nói như anh. Em thì em cho rằng sau chiến tranh họ cần dân chúng để xây dựng. Vua Quang Trung ngày xưa còn cho hàng binh Mãn Thanh phục vụ trong quân đội của Ngài. Họ và ta cùng là dân Việt ... .”
Nụ cười thật tươi được dùng để chấm câu bộc lộ niềm tin mãnh liệt. Hùng vói tay vặn nhỏ chiếc máy phát thanh đang ra rả những bản nhạc hùng quen thuộc mỗi khi có biến động, lòng bất chợt thương hại người yêu ngây thơ dùng thiện lương để lý luận về một vấn đề chánh trị.
Nhà sau vắng vẻ, lặng trang, Hùng lơ đãng nhìn về phía cửa buồng nàng, trêu chọc:
“Em cho anh miếng nước. Khách tới nhà cả giờ đồng hồ bỏ chết khát không nước nôi chi hết, chi lo cãi nhau xuông.”
Nàng kéo tay anh đứng dậy:
“Em xin lỗi anh nhé. Vào nhà sau với em. Em chiên cơm anh ăn. Mình nói chuyện trong lúc ăn. Má em sang nhà bà con bên cạnh nãy giờ.”
Bàn tay nàng mát rượi, mùi thơm thoang thoảng. Trong lúc Hương hơi cúi xuống, chàng khẽ liếc về chỗ áo hơi rộng cổ. Quen thuộc, nhưng sao vẫn vô cùng mới lạ, bí ẩn, ngây ngất như chưa từng quen. Hai người đi sóng đôi ra nhà sau. Anh choàng tay qua cái lưng ong xinh xắn. Tim đập mạnh. Mỗi lần chạm đều bị cảm giác này. Mời gọi nhưng hồi hộp, hấp dẫn nhưng ngại ngùng. Có cái gì cao sang nghiêm nghị ngăn chận anh khỏi những tính toán trai lơ. Tay hạ thấp xuống hơn. Thịt chắc dội thốn tim. Hương không gỡ ra cũng không phản đối. Máy thu thanh nhà bên cạnh oang oang lời kêu gọi của những kẻ trở cờ mau nhất. “Xin đồng bào hãy bình tĩnh, hãy tiếp tay với chính quyền cách mạng, cương quyết vạch mặt những tên phá hoại ... .” Hừ, giáo sư này, giáo sư nọ. Giờ này mới biết lòng dạ họ. Kẻ trở cờ, kẻ nội thù. Anh chợt rùng mình. Biết đâu Hương cũng vậy. Bộ mặt đẹp đẽ dễ thương đó biết được, thấy được, nhưng còn những gì nàng nghĩ? Hình ảnh một thanh niên đang ôm trong tay người tình trẻ trung một phút sau quay lại thấy vòng tay mình choàng ngang cái thây ma nhơ nhớp. Một luồng hơi lạnh chạy trong xương sống. Anh giật mạnh tay như chạm phải luồng điện cao thế. Hương nhìn lên, mắt tròn ngạc nhiên, ranh mãnh phát nhẹ vào vai người tình:
“Mẹ chưa về đâu. Anh ngồi xuống đây. Em sửa soạn thức ăn. Rầu anh quá, sao bi quan vậy không biết!”
Hùng máy móc ngồi xuống, uể oải, không đính chánh, đưa mắt dò xét bao quát. Có gì là lạ trong sự bình thường và nhí nhảnh này. Nước mất, mọi người như chó mất chủ, số phận chưa biết ra sao. Chiến tranh tàn trong bi đát. Một sự đổi thay chua xót và đớn đau. Chịu đựng và ậm ọe, thu mình và hống hách. Tay không và súng đạn. Mặc cảm và thù nghịch. Thế mà ...
Thức ăn được nâng niu bày biện lên bàn. Nàng gắp một miếng thịt gà âu yếm đặt trên chén cơm, mở tủ lạnh lấy chai nước ngọt, kéo tủ loay hoay tìm cái mở nút chai.
“Chấm dứt tình trạng thù nghịch tự nó là một điều tốt. Giả tỉ miền Nam thắng trận cũng vậy thôi, cũng áp đặt thể chế Cộng Hoà, bắt mấy thằng Việt Cộng giam lại ... .”
Hùng cười, hai tay hai chiếc đũa đặt tréo dưới cằm, một ngón tay trỏ đưa lên môi:
“Nè em. Không thể giả tỉ ở đây được. Phải nhìn nhận sự thực. Chiến tranh cổ điển theo kiểu hai mươi năm vừa qua đã kết thức, nhưng một hình thể mới lại bắt đầu. Mục tiêu vẫn chỉ là áp đặt lý thuyết của họ.”
Nàng hớp từ ngụm nước lộ vẻ suy nghĩ, hai đầu chân mày nhíu lại gần nhau, trán nhăn nhăn. Hùng rờ mu bàn tay bạn gái, vuốt vuốt mấy ngón tay búp măng sơn màu cam dịu. Tiếng động ầm ầm của đoàn xe Molotova ngoài kia rung chuyển căn nhà gợn sóng lăn tăn ly nước trên bàn, những giao động nhỏ nhoi nhưng nhói tim như địa chấn nhẹ mở đầu những cơn động đất trời long đất lở kế tiếp.
Lâu lắm Hương mới nói, thật chậm:
“Anh không tin ở chính sách hoà hợp hoà giải. Anh cũng không tin ở vai trò của lực lượng thứ ba?”
Hùng châm thuốc, thở ra một cụm khói đen đặc, nheo mắt châm chọc:
“Khi đã thành vợ chồng, em có đồng ý để anh yêu một phần, còn một phần yêu cô nào khác không?”
Bắp tay Hùng bị véo thật mạnh:
“Anh muốn nói không khi nào có chuyện trung lập?”
Một nụ cười tinh quái:
“Anh không bao giờ tin tưởng ở thiện chí, ở tánh bổn thiện. Anh là chúa hoài nghi.”
Hùng mỉm cười với mình:
“Nhưng anh không hoài nghi tình yêu của em. Bây giờ anh không hoài nghi về sự ngây thơ chính trị của em.”
Hương đi vòng quanh phía sau, châm nước cho người yêu. Anh nắm bàn tay xinh xắn đó. Ánh mắt nàng, hóm hỉnh tránh móc như người chị bao dung đưa mắt không bằng lòng đứa em nhỏ tham lam giành kẹo:
“Cơn bịnh trầm kha của đất nước cần phải được chữa trị bằng liều thuốc mạnh. Anh xem, bao nhiêu là thối nát, tham nhũng, nghèo đói, dâm ô, sa đoạ, lai căng, hưởng thụ, ích kỷ … .”
Hùng chồm lên đặt một cái hôn trên đôi môi cắn chỉ. Thơm ngát, ngây ngất. Hương trinh nữ, mùi hoa dạ lý toả ra khắp phần không gian nhỏ của căn phòng. Ngoài kia, nắng lung linh bay nhảy trên mọi vật. Lần nào cũng ngon như lần đầu vụng dại e thẹn trên chóp núi Bửu Long một buổi chiều dịu nắng sau sáu tháng quen nhau..
“Phương thức chánh trị nào cũng bất toàn. Phải nhìn trên bản thể những sự kiện đã đem đến khuyết điểm đó.”.
Hùng kéo sát Hương vào mình hơn, hơi ấm truyền sang ngực anh.
“Hương, chúng ta phải thực tế. Cuộc đổi ngôi nào cũng đem theo nhiều xáo trộn. Anh muốn chúng ta vượt thoát khỏi Việt Nam. Phải đi, không thể ở lại được.”
Đôi mắt người con gái tròn xoe. Môi chim chím. Chân mày nhíu hằn những vết thật sâu ở tam tinh. Xúc động mãnh liệt. Ngạc nhiên tột độ. Lời đề nghị đi ngoài dự liệu. Lâu lắm, nàng mới chậm rãi gỡ tay ra trả lời, giọng thật buồn:
“Nhưng như anh thấy, em còn mẹ già, còn anh chị, còn quê hương. Nói mà không sợ anh chê khách sáo, em trọng gia đình, yêu quê hương. Nhất là quê hương. Em thấy mình thân thiết với từng con đường, từng bảng hiệu trên đường phố, từng gốc cây, từng căn nhà. Em không thể xa đất nước này được. Xứ mình, mình ở, hơn là ở trọ quê người.”
Một bông hoa huệ rớt nữa xuống thêm vào mấy cái trước tàn úa, đen xám. Vai Hương bị nắm chặt lắc mạnh, đau điếng. Đôi mắt Hùng nhìn thẳng vào mặt người yêu, chòng chọc như muốn lòi ra:
“Em hãy nghĩ kỹ xem vì những thứ đó nên em ở lại hay ở lại cho những lý do đó?”
“Chưa bao giờ em dám nghĩ đến chuyện thiếu anh trong cuộc đời em.”
Hùng ôm chặt bạn vào lòng. Hai giọt nước ấm vừa lăn xuống đã được anh bôi nhẹ. Ánh nước phản chiếu sáng loáng phía dưới mắt người thiếu nữ. Nụ hôn thánh thiện trong sáng được đặt vào đó. Đóa hồng hé nụ bằng lòng thật trẻ con nở trên gương mặt gượng vui.
“Nhưng em có biết rằng em đang thuộc về một tập hợp ngoài tập hợp của họ không?”
Hương gỡ tay Hùng, giọng thật buồn:
“Tất cả đều là con dân nước Việt. Vả lại, em nóng lòng gặp mặt cha em. Em chưa được gặp người từ ngày lọt lòng mẹ đến giờ ... .”
Một cái búa tày xồi dộng vô ngực Hùng. Cảm giác khi nghe lời tuyên xử tử hình đất nước vừa qua cũng chỉ đến vậy thôi. Tất cả đã rõ ràng. Nàng bị ảnh hưởng của tình gia tộc. Đã lầm lẫn giữa người cha và chính trị. Đã để ảo tưởng ảnh hướng dẫn nhiệt tình.
Chàng lao đao, quay mòng như rớt xuống hai tầng sâu thẳm tối om. Mất nước, mất người yêu. Bóng ma lạc loài biền biệt hai mươi năm bỗng hiện về hành hạ. Cha! Cha! Cha! Chắc không ông ta sẽ nhìn nàng? Chắc không một người đã để tình cảm đóng bụi một thời gian đằng đẳng như vậy sẽ hy sinh mình, nhìn nhận các anh chị nàng thuộc một phía khác, một suy nghĩ khác?
Rồi sẽ thất vọng em ơi. Bầy sói kia sẽ cắn cổ em không thương tiếc. Người em mong gặp trong mấy chục năm nay đã không có một giây phút nào nghĩ tới em. Sự khác biệt vĩ đại giữa hai đàng về giá trị con người, về những nguyên tắc đạo đức ...
Người con gái ngồi im lặng, tay chống càm, ngó Hùng nhoè nhoẹt qua làn nước mỏng. Anh nhìn lại mình: Cô đơn, trơ trọi, bị tước đoạt hết cả, quê hương, tình yêu, và chắc chắn rồi đây tuổi trẻ cũng bay theo hoàn cảnh mới ... Bên tai anh mơ hồ tiếng nhạc hòa điệu bài ca sầu thảm tuyệt vọng đến nhức nhối: "Còn gì nữa đâu mà khóc với sầu ... còn gì nữa đâu mà buồn với nhớ ... thôi hết rồi, thôi hết rồi ... .” Trong trí anh hình ảnh của chính mình, đen đúa, rắn rỏi, bộ đồ trận rách bươm, vài món đồ thiết dụng trên vai, tay súng lăm lăm, tuôn bờ vượt suối trong những vùng hẻo lánh Ba Thê, Bảy Núi, Kon Tum, Bồng Sơn, Bình Giả ...
Tiếng súng do bọn trẻ tò mò, phá phách ngoài kia vẫn tiếp tục nổ đều, náo loạn, vô duyên.
Những giọt nước mắt nhỏ xuống thật mạnh trên bàn nghe rõ mồn một ...
(Texas, 1981_ Trích tập truyện Câu Hò Vân Tiên_ Gió Việt, Texas, 1985)
Cung Tàn Điểu Tận
Tặng X., bạn đồng tù vượt biên trại Thắng Nhứt Vũng Tàu 1978.
Sau buổi cơm chiều thường thường chúng tôi ngồi chùm nhum quanh cái bình tích trà để tán dóc đở buồn cho tới khi kiểng đánh leng keng báo giờ đi ngủ. Nước nóng đã có trại cung cấp mỗi ngày hai lần cùng với bữa “cơm”. Ông Sáu già có sáng kiến lấy khăn lông quấn chung-quanh cái lon gô để giữ hơi ấm lâu tới đâu hay tới đó. Chúng tôi gọi lon gô đó là bình tích trà tàu. Nhưng năm khi mười họa mới có trà. Mà là trà Huế nát nhừ, mốc thít gởi mua ngoài chợ do thằng Hai Bảnh ngoại giao với mấy chị nuôi phục vụ dưới nhà ăn. Hôm nay có trà mà cũng có đường nữa, đường chảy đen ngòm mấy tay hình sự mua từ lò đường mía nấu chui đâu đó. Đầy đũ. Hứa hẹn một buổi tối vui.
Trong góc phòng thằng Sáu-đờn-kìm nằm tréo ngoãi nảy giờ bỗng cất tiếng ca một đoạn Lan và Điệp mùi tận mạng:
…Chôn bướm với Lan giết lòng thương nhớ - Lan chốn vô ưu sống đời nâu sòng – Còn đâu ân xưa ngày cũ. Tấm thân em quy y rồi. Dáng xưa có mờ tâm khảm…. Ân ái đã tan nghĩa tình đâu nữa. Xa cách bể dâu đổi dời muôn đời. Vì đâu hoa xưa lìa cánh. Bến xưa thay đổi con đò…Để hôm nay khóc tình dỡ dang…
Rồi nó nhảy từ chỗ nầy qua chỗ kia, băng từ vai Lan qua vai Điệp, nó đóng luôn vai chú tiểu, vai vợ Điệp, mẹ Điệp, ông Tú…không chừa ai hết.
Chúng tôi im lặng để thưởng thức tài nghệ của nó. Thằng coi ô nghề kịch cợm, nói năng bạt mạng nhưng có giọng ca “tiền không”. Nghe giọng ca ngọt ngào của nó bắt nhớ nhà khan, mà càng nhớ nhà càng ham nghe nó cất tiếng vô giọng. Sáu-đờn-kìm một phần hứng chí một phần vì biết chúng tôi chăm chú thưởng thức nên trổ hết tài, sợi gân cổ của nó căn lên như kép Hữu Phước làm sáu câu trên sân khấu Thanh Minh Thanh Nga độ trước. Được mợi, thằng Sáu đứng dậy vừa ca vừa làm bộ tịch bắt chước Hoàng Mai và Chí Tâm:
-“ Ức oan còn hơn đem giết đi – Đời là vậy, khi cung tàn điểu tận.
-“Biết vậy còn than nỗi gì. Thôi lên đường đừng buồn…”
Cả bọn cười vang. Vài ba phút yên ắng sau đó như là mọi người lắng nghe cái dư âm còn đọng lại đâu đó trong phòng, dư âm có khả năng gợi dậy quá khứ thân thương của từng người. Bỗng ông Bảy-năm-trên lên tiếng chậm rải “Thằng Sáu-đờn-kìm bậu có nhớ rõ không đó bậu? Làm gì có chuyện thằng thầy tuồng viết câu ngu ớn như vậy chớ: ‘Cung tàn, điểu tận’. Rồi ông chép miệng như nói với chình mình. “Cung gảy chim hết”. Cung gảy chim còn, chứ sao hết được. Vô lý quá. Ông ta ngó ngay tôi. “Phải nói điểu tận cung tàn.” Hết chim bẻ gảy cung. Người ta dùng tích nầy để nói sự vắt chanh bỏ vỏ.. Tui nói có phải hông ông thầy giáo? Nói như vậy mới lọt lổ tai..”
Tôi gật đầu phụ họa, trả lời không cần suy nghĩ:
-Phải. Mà bác Bảy chữ nghĩa đầy bụng nói làm sao trật được.
Thằng Sáu-đờn-kìm bỗng xì nẹt ngang:
-Thôi mấy ông ơi! Cung tàn điểu tận hay điểu tàn cung tận gì cũng “mêm xối” mà thôi. Nói chuyện năm trên hoài. Bắt lỗi với bắt phải!
Tôi can thằng Sáu, không cho nó đi quá lố:
- Nín đi Sáu, hông có chuyện gì mà phải nổi máu Trương Phi. Bác Bảy nói là nói thằng- thầy -tuồng, chớ có nói mầy đâu! Mầy ca như vậy là số dách rồi.”
Tôi giảng hòa bằng cách rót cho nó một chén trà đưa tới tận tay.
Ông Bảy-Năm-Trên có vẻ không thèm chấp nhứt thằng Sáu, cất giọng kể chuyện năm trên:
-Tui có một chuyện điểu tận cung tàn tân thời hay lắm. Ở xóm Cổ Cò chỗ tui có vợ chồng Hai Điền. Tụi nó già cở tui nè, ở đó lâu rồi. Có một thằng con tập kết ra Bắc hồi nẵm. Vì vậy hồi trước tụi nó chứa chấp “tụi nầy”. Bác nháy mắt chỉ ra ngoài cửa rồi đưa tay ra dấu trên đầu cầm cái nón cối.
Thằng Sáu-đờn-kìm chưa hết giận, vẫn còn nói hỗn:
- Việt cộng thì nói Việt cộng mẹ nó cho rồi. “Tụi nó”, “tụi nầy”, ai mà hiểu.
Tôi chận nó:
- Sao mầy hiểu? Bộ chỉ có mầy hiểu thôi sao. Hổng phải chỉ có Việt Cộng thôi đâu. Mà còn có cả bộ đội nữa.
Ông Bảy tiếp:
- Vợ chồng Hai Điền có một cái nhà lớn xộn. Ngay dưới gầm giường của nó có đào một cái hầm bí mật để chứa mấy chả. Có bữa bên phe Quốc Gia mình đóng trong sân nhà nó. Một vài anh em binh sĩ lân la vô uống nước trong nhà, nó thấp tha, thấp thỏm như gà mắc đẻ. Sợ lộ thì chết đòn. Nuôi mấy chả, tối tối nó phải thòng cơm, thòng canh xuống cho tụi nó. Hông thui tụi nó chết đói mắc dịch còn gì.
Sau nầy có lúc vui miệng Hai Điền thố lộ với tui: “Lúc trước mình thòng cơm, “thòng canh” nuôi họ là để chờ ngày “thành công”. Bây giờ mình cũng mong được dịp thòng canh để chờ ngày thành công khác.”
Tôi hỏi cho rõ:
-Sao lạ vậy bác Bảy?
-Thì có gì đâu? Anh ta được hứa hẹn cái con mẹ gì đó ai mà biết được. Có điều là sau bảy lăm, cũng hí hửng một thời. Giờ hỏng có gì hết. Trớt quớt vẫn huờn trớt quớt. Mà quyền tư hữu của tổ tiên để lại còn bị va chạm nên bất mãn. Ừ, để coi, thằng con ra ngoài đó giở tánh Nam Kỳ ra, chửi vung tàn xích chó. Tụi nó tưới hết quân hàm, lột luôn đảng tịch, cho phục viên, trở về với thân tàn ma dại. Ruộng của thằng cha, tên chủ tịch xã tước hơn phân nữa chia tứ chia tam. Cái nhà kho trước đây của chã, xã mượn để làm trạm gì gì đó rồi không bao giờ huờn lại. Hỏi hỏng tức ói máu sao được?
Hai Điền nhiều khi nhậu ba ngù nói nho nhỏ với tui “Bây giờ hết tụi Ngụy rồi nên tụi nó làm phách chó tụi nó chứ. Hồi đó thằng Chủ Tịch Xã năn nỉ tui thiếu điều lạy. Nói ra thì Ba-ba, con-con, bây giờ trở giọng anh-tui. Còn xử ép mình nữa. Thật là “cung tàn điểu tận”.
Anh em biết sao không? Lúc đó tui đâu thèm để ý tới ba cái lẻ tẻ dốt mà hay nói chữ của nó. Tôi chửi thầm: “Đáng kiếp, chỉ có mấy thằng ngu như mầy mới làm cho hùm thêm vây, bây giờ hùm sắp quay lại cắn cổ thì mới tỉnh ngộ. Có dịp thòng canh tụi tao cũng hỏng để cho mầy thòng canh đâu. Mầy chỉ có thể kiếm củi, nấu nước rửa rau là cùng. Thứ đồ đổi thay lập trường vì quyền lợi! Làm sao tụi tao tin nỗi tụi bây?
Bác Bảy Năm trên kể tới đây bỗng có tiếng gỏ cửa, cách gỏ quen thuộc.
- “Có anh Hai Bảnh đó không? Sáu Khăn Rằn muốn nói chuyện.”
Chúng tôi mọi mắt đều hướng về Hai Bảnh, anh thì thầm với tôi. Tôi lên tiếng:
-“Trại trưởng chỉ định nó công tác thu hoạch mì ngoài vườn hồi chiều tới giờ chưa thấy về. Chắc là đêm nay họ ở lại ngoài láng…”
Có tiếng đàn bà giọng mủi:
-“Vậy sao? Thôi mấy bác làm ơn nói với anh Hai là em có đến từ giã ảnh nghe! Em phải đi gấp không thể ra vườn từ giã ảnh được.”
Tiếng bước chân xa dần.
Hai Bảnh lên tiếng:
-“Nó bị đổi đi vì chuyện lùm xùm lề xề gì đó về tiền nong chợ búa. Chuyện nầy tui biết trước từ hôm qua lận. Nghe nói đâu nó bị đổi qua làm việc bên ban chấp-pháp. Qua đó làm thơ ký thường chắc là bơ mỏ. Ăn bớt ăn xớt gì được nữa! Mà mình còn nhờ cậy gì nó được nữa đâu, từ giả từ thiệt chi cho mất công mất linh. Nó thấy mình sao đó mới tử tế chớ bộ. Thương yêu gì! Đâu phải ai mượn nó cũng chịu mua giùm đâu. Thôi “hết xôi rồi việc, chân không thầy về.”
Tôi chọc:
“Thì nói tại mình bảnh cái cho rồi, còn làm bộ ởm ờ, chín hấu mại hơi. Tui coi ông cũng bảnh thiệt tình. Đàn bà con gái đeo như đĩa, phủi không hết!”
Lúc ấy thằng Sáu-đờn-kìm mới vui vui lên tiếng:
“Anh Hai Bảnh coi vậy mà bảnh tỏn quá ta, dám chơi trò “cung tàn, điểu tận” ý quên, nó ngó ngay Bác Bảy Năm-trên, sửa lại, chơi trò “điểu tận, cung tàn” với người đẹp. Phải tui ha…. tui tới luôn bác tài. Cùi đâu sợ lỡ. Khoái được chút nào cứ khoái. Coi như là trả thù.”
Hai Bảnh cướp lời: “Nó hôi như cú mèo chớ có nước mẹ gì đâu. Đâu phải chim anh vũ đâu mà ham mậy!”
Cả trại cười như nức nẻ, quên hết cảnh cá chậu chim lồng.
Ngoài kia thiệt là êm vắng. Tiếng con tắc kè kêu từng tiếng tắc kè, tắc kè.. Hình như năm nay nữa là năm thứ hai vợ con tôi ăn Tết không có người chủ gia đình.
Đường Về Quá Khứ.
Một sớm nọ tôi có ý muốn viếng lại cái chợ Cầu Ông Lãnh, nơi mình từng sống ba năm Tiểu học và những năm Trung học để tìm về một chút quá khứ tuổi mới lớn. Sau khi lòng vòng trong những con đường tum húm của khu Chợ Cháy trước đây vốn là khu bán guốc, bán gạo, bán đường đậu, bán thuốc rê, bán nhang đèn…, nhìn chỗ những gian hàng sung túc ngày xưa bây giờ bị xẻ thành hai, thành ba căn phòng nhỏ híu cho từng gia đình trú ngụ tôi chắc lưỡi thầm than cho chuyện đời đổi thay tuột dốc.
May quá, thằng bạn xóm giềng gần chục năm tuổi trẻ của tôi dầu xa cách hằng bốn thập kỷ vẫn còn sống ở đây. Nó phải mất chừng mười phút lục tung ký ức mờ phai mới nhận ra bạn cũ sau khi tôi nói xa gần về thời niên thiếu của nó. Nào là nó bị thằng Mẹo đánh bầm mắt, a-má nó phải luộc cả chục hột gà để lăn và ông Bảy, ngoại thằng Ba, phải đốt nhang khoán bùa hết mấy lần. Nào là có lần nó đi tắm mưa với bạn, vật lộn với tụi bên vựa trái cây và vựa chuối tới tàn cơn mưa, về nhà bị bịnh ban cua hai con mắt trỏm lơ. Nào là bọn trẻ lối xóm tối tối rủ nhau ra đường ‘Bồ-rệt’ chơi đá lon trốn kiếm thì nó phải đứng ngoài coi chừng má thằng nào tới thì báo động vì nó quá cao giò so với tụi tôi cùng lứa. Nào là mấy bữa có hát Tiều ở Chùa Bà thiên hạ người ta đi coi nườm nượp, đông quá trời mà a-má nó hễ thấy nhà thiếu mặt con Teng thì bắt nó đi kiếm vì sợ con nhỏ cặp bè cặp bạn đi coi hát với thằng bán thuốc lẻ trên lề đường….. là tao…
Tôi nói tới đây thì thằng Mắc mở mắt ra thiệt lớn, cặp mắt nó tới bây giờ hơi kéo mây vẫn còn màu xanh ngơ ngác của người có trộn chút máu phương Tây, biểu lộ một sự vui mừng tuyệt cùng:
‘Vậy tao nhìn ra được mầy rồi, mầy là thằng S. hồi đó tối tối mầy ngồi bán thuốc lẻ dưới đường trước quán cơm lòng bò của chú Ba Tiều.’
‘Ừ chánh hẩu là tao!’
Nhận ra lý lịch nhau rồi chúng tôi trao đổi về kỷ niệm cũ, thằng nào nhớ chuyện gì thì hào hứng kể ra, tranh nói cho hết chuyện như sợ thằng kia kể mất phần. Gần già rồi mà cảnh đời tuổi thơ của hai đứa hiện về liền xì bốc khiến hai ly cà phê đá vợ thằng Mắc đem tới mời nảy giờ tan ra nguội ngắt, mồ hôi ly tuông nhỏ giọt xuống cái bàn cũ kỹ trước mặt chúng tôi. Vui ớn gì! Chúng tôi vổ vai nhau thân thiết như những ngày mới lớn, coi như không có khoản thời gian diệu vợi mấy mươi năm lướt xẹt qua đời mình.
Vậy mà khi chia tay với thằng Mắc thì lòng tôi buồn rười rượi, bước ra chỗ lấy xe cách có mấy trăm thước mà chưn bước đi xiêu bồng... Nó nói con Teng ở Mỹ cũng hơn hai chục năm rồi, có nhà hàng lớn đại ở khu phố Lion miền Bắc Cali mà hình như là không được hạnh phúc, chồng nó nhậu lu bù, gan ruột phổi phèo u nần chẳng kể số gì hết! Buồn không phải vì nghe những chi tiết mình không muốn nghe về người xưa mà vì mấy chữ không được hạnh phúc từ miệng của người bạn trẻ thời đăng đẳng xa xưa.
Đường Sàigòn đông như hội, xe gắn máy chạy loạn xạ như đạn bắn hồi Tết Mậu Thân ở vùng quận Sáu xóm Minh Phụng mà tôi thì bất chấp, cứ miên man nghĩ về chuyện xưa. Những cái háy hó khinh bĩ hay những cái nhìn bằng con mắt hình mũi tên diệt thù bao nhiêu lần phóng vô mặt mà tôi thì cứ như người cõi trên hạ xuống trần coi thế sự để về tấu Ngọc Hoàng. ‘Tao qua đó làm công cho vợ chồng nó năm năm mà tụi nó đối xử còn hơn người dưng nước lạnh, bắt làm thêm nhiều giờ mà vẫn trả lương tối thiểu theo tiêu chuẩn ngày làm tám tiếng… Tánh tao ưa thương người, thấy mấy thằng Mỹ trắng, Mỹ đen ‘hôm-lết’ rách rưới đói khổ nên múc đồ ăn cũ ra cho. Ỷ mình làm anh tao không cần hỏi chủ, có lần nó thấy, nó xỉa xói là làm như vậy tụi ‘hôm-lết’ quen thói, kéo tới đông thì chủ nhà hàng có nước xập tiệm thôi, đồ cũ để o lại bán cũng được vậy! Tao quê với mấy cô bồi bàn kể gì… thiếu điều trốn vô ‘toi-lết’ gục mặt ở trỏng luôn. Buồn tủi quá tao về đây ở lì không thèm qua bển nữa, bỏ mẹ nó không thèm chờ lãnh tiền già. Thêm xốn mắt chuyện nó tính tiền gian lận khách hàng, mỗi người ít thì chừng 2, 3 đồng nhiều thì 1, 2 chục cộng với tiền thuế không bao giờ nạp đủ cho chánh phủ. Tao nói hoài là tích tiền thì tổn đức, nó bỏ ngoài tai lại còn chê tao cù lần, nhiếc móc nào là đạo đức cù bơ chẳng lo thân chừng sau nầy già nằm một chỗ than khổ chẳng có thằng cha con mẹ ‘hôm lết’ nào tới trả ơn….
Ờ há! Tôi rười rượi buồn vì mấy lời của thằng Mắc về con em nó. Như có một sự ngửa úp hai mặt đồng tiền đối với tánh tình trước đây và hiện giờ của người con gái tôi từng để ý.
Chạy lòng vòng một đổi không biết đi đâu. Tôi quành lại Chùa Bà đường Nguyễn Công Trứ kêu một ly đá chanh của quán trước chùa. Xách cái ghế vô ngồi một mình tuốt trong sân mà hồi nhỏ tôi thường chơi tắm mưa vật lộn ở đây, chỗ kế bên hồ nuôi rùa để thả ký ức về thời quá khứ. Sân chùa gần thế kỷ có lẽ, thênh thang phủ lớp gạch Tàu đỏ au phẳng phui và không một chút rêu xanh. Nơi đây có một lần duy nhứt tôi và con Teng đứng chen chưn coi hát Tiều.
Chúng tôi không có nhiều kỷ niệm nhưng một hai sự kiện xưa cũng đủ nhói tim khi nhớ về. Chiều hôm đó khi tiệm bán đường đậu của nó dọn hàng đóng cửa xong thì đằng chùa Bà vang dội tiếng ò-e của gánh hát diễn cúng Bà. Thấy tôi lơn tơn đi tới, con nhỏ nói trỏng: Hát vui lắm. Rồi không rủ rê gì hết, nó đi thẳng về phía có tiếng đờn và tiếng chập chõa vang rền. Tôi như bị nam châm thu hút lẻo đẻo đi theo. Cũng chẳng nói gì với nhau, đi là đi vậy thôi, đứa trước đứa sau. Tới nơi, người chật cứng, hai đứa phải đi xát vô nhau. Tôi lần đầu tiên có cảm giác bay hồn về hơi nóng của người trang lứa khác phái. Con nhỏ mê hay làm bộ mê mà mắt chăm bẳm ngó lên sân khấu nghe đào kép Tiều i-ê. Tôi thì chẳng mê ca hát cù lần kiểu nầy, chẳng hiểu gì hết mê sao nỗi! Nhưng tôi phân tích thái độ của nó, chịu đứng trước mặt, gần xát đến nỗi truyền thân nhiệt vô bụng tôi, chắc là rồi đây tôi phải chịu nhục thêm nữa về những cái nhìn ác cảm của a-má nó. Bà ta hễ gặp tôi là phóng một tia mắt bén như dao cau vừa khinh khi vừa ghét bỏ rồi ngó qua chỗ khác liền. Nếu có nó ở gần đó thế nào bà ta cũng chưởi nó bằng mấy tràng tiếng Tiều khiến con nhỏ chù ụ mặt. Tính trong bụng nầy nọ như vậy tôi nắm một bàn tay buông thỏng của nó hồi nào không hay một hồi không biết bao lâu mê mẩn. Thằng Mắc hiện ra kêu em nó về, nói nhỏ với tôi giọng không có gì là mất thiện cảm: ‘A Chệt thì không sao, nhưng a-má không ưa mầy.’
Tôi gần như thẩn thờ cả tháng vì đi qua lại nhiều lần trước tiệm của nó đều không bao giờ thấy mặt, mà cũng chẳng còn thấy nó lượn qua cửa hàng của cô tôi để đi qua chợ hàng bông như thông thường.
Biết được tôi mê conTeng mà bị a-má nó làm kỳ đà cản mũi, thằng Mẹo chọc tôi: Thôi, bỏ qua đi Tám, để tao vô cho, nhà tao giàu hơn nhà mầy nhiều. Tôi tức mình muốn gây sự nhưng thấy bộ dạng dềnh dàng của nó thì nuốt nước miếng nhịn thua.
Tuổi mới lớn cũng dễ quên. Với lại kỳ thi Tú Tài I trước mắt mới bắt đầu mà những bài Toán Lượng Giác thì không phải dễ nuốt, tôi quên lững con nhỏ một thời gian dài.
Cho tới sau ngày tôi thi đậu đâu chừng một tháng thì thằng Mắc kêu tôi qua nhà nó chơi. Cũng là chuyện bình thường. Bạn mời thì đi. Đường quận Tư, Xóm Bến Tàu. Ngoài mặt tiền thì cũng nhà lầu nền đúc, nhưng vô trong sâu thì lầy lội trơn trợt, nhà cửa cất trên đất ruộng, tôi lần đầu tiên đi vô, sình dính vô đế giày ‘san đan’ trĩu nặng như dính keo, chẳng khác có ai kéo trì xuống. Tôi vô cùng cảm động khi nó hiện ra với cái thau nước kêu tôi rửa cẳng, đưa dếp của ai đó nhỏ hí cho mang đỡ rồi tự tay nó rửa giày tôi đem phơi. Con nhỏ nói sau nầy giàu nó sẽ không cất tiền trong nhà mà sẽ đắp đường sạch sẽ cho thiên hạ khỏi khổ. Tôi chịu cái lòng từ thiện của nó và nói bây giờ có tiền ít mà Teng có cho người nghèo không? Thằng Mắc cướp lời rằng trên đường từ chợ về lần nào nó cũng cho tiền ba bốn người ăn mày, trong xóm nầy ai cũng biết nó ưa bố thí.
Tôi ngólên, trộm nhìn gương mặt nó. Tròn trịa và rực rỡ như tiên nữ. Nó vừa xối nước rửa tay tôi vừa hỏi nho nhỏ: Đẹp hơn con Tuyết, cháu ngoại bà bán nhang không?
Những đứa bán giấy số rượt đuổi nhau kéo tôi về thực tại. Chộp ực ly đá chanh nhưng sao thấy nhạt phèo. Quá khứ là ký ức, là đời sống ảo, không hiện hữu. Ngay cả nhớ về quá khứ còn không thể làm được hoàn toàn huống gì đi tìm một chút gì đó mong còn lưu tồn của quá khứ. Tôi bỏ hẳn ý định khi trở lại Mỹ sẽ lái xe xuống San Jose gặp Teng mặc dầu từ thành phố Fresno xuống đó cũng chẳng bao xa. Tôi tưởng tượng ra mình và Teng như hai con kiến bò theo xương sống của một loài cá có xương tua tủa. Teng đã rẽ vô một xương rẽ nào đó, rồi gặp ngã rẽ nữa, ngã rẽ nữa…, còn tôi bò tới một nhánh nào khác rồi cũng rẽ và rẽ, và rẽ…. Làm sao hai đứa có thể găp nhau khi ở trên những nhánh xương khác nhau. Như hai phân tử máu chạy trong mạch của thân thể, khó gặp nhau vô cùng. Gặp nhau thì cả hai đã cũng đổi hình thay dạng quá nhiều, không còn ‘vô vướng bận’ và thanh khiết như ngày trước…
Tôi nghĩ điều khiến mình rười rượi buồn là vì thâm tâm biết không thể nhảy vô quá khứ để tìm lại những gì thời gian đã làm cho biến mất. Điều làm tôi xiêu bồng là tiếc một lòng nhân hậu không được phát triển, cũng như cảm thấy bi thương cho người xưa cũ nay đắm chìm trong những tính toán lợi lộc lừa đảo nên sẽ chẳng bao giờ tìm thấy hạnh phúc, trong tâm hồn cũng như trong thực tế.
Tôi hỏi một em bán giấy số có bộ mặt thông minh nhứt khi thấy nó cầm tập giấy số xòe rẽ quạt phất phất trước mặt - như mấy bà xòe bài tứ sắc dùng bài quạt khi quá nực - một câu làm em ngơ ngác: Có vé trúng đường về quá khứ không? Nó trả lời bằng bộ mặt thiểu não của người buôn bán ế ẩm, nảy giờ chú ngồi đây lâu quá, con đi qua lại ba vòng mà chú vẫn còn ngồi. Thôi mua cho con mấy tờ đi, biết đâu lại trúng độc đắc.
Thằng nhỏ an ủi để tôi vui lòng mua thôi. Trúng độc đắc bằng tiền khó nhưng cũng còn có thể trúng chứ gặp được di vật mình ưa thích thời quá khứ xa xưacả nửa thế kỷ trước, khó dàng trời mây! Dễ gì!
Đừng có mơ, bỏ đi Tám!
(Victorville, CA, Dec. 15, 2015)
Giọng Ngâm Ngậm Ngùi
Đưa tới cửa chị Thục còn dặn: ‘Mi coi mà giải quyết đi, tau coi bộ hắn đeo đẳng mi mấy chục năm nay đó. Ghen tương, theo phá phách hạnh phúc mi nên mi lận đận tình duyên.’
Nghe mà xót xa đời mình. Tôi cũng có trách nhiệm phần nào về cái chết bi đát xảy ra cho Nghiêm. Tôi nói ‘Tội nghiệp Nghiêm, em từ chối anh ấy đã khổ, biết em có người yêu anh ấy liền buông thả đời, đến nỗi vướng vào chuyện đua xe tốc độ để gánh lấy tai nạn.’ Tôi bá vai chị Thục, nước mắt đầy mi. Hai người đàn bà cùng thông cảm về phần số của một nhân vật đã đi khỏi thế gian nầy hơn ba thập niên rồi.
Lâu lắm chị Thục mới nói: ‘Để linh hồn hắn siêu thoát, mi quyết tâm ngay nha, thẳng đến chùa, vái vong linh hắn thông cảm. Mi tâm thành, hắn sẽ ngộ rằng theo đuổi cũng chẳng ích lợi gì. Hồn ma bóng quế! Hắn bỏ đi thì mi mới hanh thông đời.’ Tôi nghe như có tiếng nói phải đấy nhẹ như gió thoảng bên tai, cảm giác xa xăm lúc Nghiêm rù rì trên tóc tôi nói lời yêu đương mật ngọt. Như có luồng hơi lạnh chạy từ đỉnh đầu tới cuối sóng lưng, tôi chợt rùng mình.
Tôi nói : ‘Em chẳng còn muốn về nhà nữa! Đuổi mãi mà Thông chẳng chịu dọn đi. Cả năm rồi em đuổi như đuổi tà mà không được. Chán ghê! Về thấy mặt người hai lòng đã phản bội mình thì chỉ muốn đi mãi, đi mãi.”
Chị Thục có vẽ chưa muốn để tôi về, lại hỏi về Hợp. Tôi đứng lại trên ngạch cửa thở dài: ‘Ông tướng ấy còn ghê gớm hơn nữa, ly dị cả 7, 8 năm rồi vẫn còn kêu điện thoại trách móc về chuyện xa xưa cũ kỷ khiến mình mặc cảm như có tội trong khi cách sống gia trưởng đàn áp của ông ta hơn hai mươi năm qua và những ghen tương vô lý trong cuộc sống mới là nguồn gốc của sự gãy đổ.’
Thục nói: ‘Cũng là sự xui giục gián tiếp của Nghiêm thôi! Vỵ nhớ không, hôm đó Nghiêm cầm tay em nói câu cuối trong nước mắt và đớn đau: “Lấy nhau chẳng đặng, thương hoài ngàn năm”. Vỵ càng nên vái van cho Nghiêm hiểu mà siêu thoát.’
Và tôi xăn xái ghé chùa Ngọc Hoàng. Ngày Tết, thiên hạ nườm nượp. Không có chỗ đậu xe, đành đánh liều đậu nghênh ngang trước cổng chùa, xuống đứng day vào chánh điện xá xá vái van Phật Tổ độ Nghiêm vãn sanh tĩnh thổ. Thế thôi, chẳng van xin gì ở Nghiêm cho mình.
Tôi về nhà, lòng nhẹ nhỏm, mở cửa, càng khoan khái hơn khi thấy nhà trống trơn. Người tôi không muốn thấy mặt đã dọn đi. Tất cả đồ đạc của ông ta biến khỏi mắt tôi, tấm note gắn trên tủ lạnh hôm giao thừa khuyên ông ta nên ra khỏi nhà vì tôi đã hết yêu, lãnh cảm, nằm lăn lóc bên máy điện thoại. Máy có tin nhắn, tôi bấm nút. Hợp chúc tôi được hạnh phúc cuối đời, ra Giêng anh lập gia đình mới. Lập gia đình có nghĩa là sẽ không còn có thể gọi điện thoại quấy rầy tôi nữa.
Tôi hạ bức ảnh Nghiêm xuống. Không còn cần thiết nữa, mắt ảnh bây giờ cũng không liếc theo dõi từng bước chân tôi. Tôi nói: ‘Vỵ cám ơn Nghiêm, chắc anh đã hiểu, chữ ngàn năm nên lý giải là một đời người, không nên hiểu cách khác.’
Tết tuy chưa có pháo, nhưng lòng tôi rộn rã vô bờ. Biết chắc trong các chương trình mua vui sắp tới cho cộng đồng tôi sẽ ngâm thơ xúc cảm nhưng hữu lý hơn giọng ngậm ngùi thê lương không cần thiết trong suốt bao nhiêu năm nay tôi cố tránh mà không được.
(Victorville, CA June 12-21-2011)
Hương Cỏ
Viết cho một giọng ngâm mê hồn ở Huoston từ thập niên 80 đến giờ…
Và chị Cỏ buông tôi ra, giọng nghẹn ngào, Tuấn qua bên đó sống vui, ráng học, dùng thời giờ cho đúng, khi nào thật rảnh rang hãy viết thơ cho chị.
Tôi tức mình cho chính tôi vì những thói quen lâu ngày không sửa được. Qua đây gần nửa năm rồi mà vẫn còn chửi thề nhoi trời đất. Giận là nhiều khi có người lớn đứng gần mà mấy tiếng Đức của thời gian bụi đời cũng nhảy vô đầu câu, ngang nhiên bước vào chỗ lên giọng, nằm chình ình hớ hênh tại mỗi dấu chấm câu. Tùm lum. Có lần xắp hàng đi ăn ở nhà ăn, vì vẫn còn tức mình một thằng đen về chuyện gì đó khi nãy trong lớp, tôi hằn học kể lại cho mấy thằng bạn đồng hương ở lớp khác mà quên có một bà cô Việt Nam làm ở đây đương đứng làm việc phía trong quày. Tới chừng cảm nhận những ngôn từ “phóng khoáng” không kiểm soát được, thoát ra khỏi miệng, trở lại đập vô tai mình, tôi đỏ mặt muốn chắp cánh bay về phòng trùm kín mít luôn trong đó không cho ai thấy dạng nữa. Tội nghiệp bà cô Việt Nam nầy chỉ nhìn tôi bằng cặp mắt vừa trách móc vừa thông cảm rồi khuyên lơn mấy lời nhẹ nhàng. Tôi nói lúng búng trong miệng, cháu xin lỗi, biết nói lời nhảm nhưng mà quen miệng rồi, nói mà đâu biết mình nói.... để cháu tiếp thu từ từ. Bà nghe tôi nói, gật nhè nhẹ đầu đồng ý, múc cho nhiều đồ ăn hơn bình thường, gần ngập cả mâm. Mấy đứa xếp hàng phía sau thấy chuyện nầy chắc là lạ lùng lắm.
Tôi lại thích ăn da gà. Bao nhiêu lần đọc báo chợ, thấy cắt nghĩa da loài vật nào cũng vậy, chứa nhiều mỡ, ăn không tốt cho sức khỏe, về lâu về dài chất mỡ sẽ đọng trong máu làm nghẽn mạch, hại tim, bây giờ còn trẻ bịnh chưa xuất hiện, khi lớn tuổi thì sẽ có vấn đề. Biết chuyện nầy tôi định bụng chừa, nhưng mà gì thì gì, bữa nào có gà chiên, bao nhiêu da mấy mâm kế cận đều dồn hết về mâm tôi. Thầu ráo nạo. Tới đâu tới! Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ. Mấy tháng trước một tí tẹo cũng không có mà ăn, bây giờ làm sao bỏ vô thùng rác cả đống như vậy cho đành? Lòng ham hố về một thức ăn từng thèm khát lâu dài đã vô trong máu rồi, đâu dễ một sớm một chiều bỏ ngang.
Tôi lại cũng thích nhâm nhi ly cà phê đen và rít điếu thuốc ba con năm. Sáng ra ông già tôi nhận một ly phin thì tôi cũng được má pha sẵn cho một ly y chang như vậy. Có điều ổng ngang nhiên hút thuốc ngay tại bàn ăn, thở phì phào khói lên từng cụm, phà cả vô mặt má và các em gái tôi, còn tôi thì phải lén lút rít từng rít nhỏ ngắn ngoài sân sau hay trong phòng tắm. Thỉnh thoảng lắm mới có dịp tất cả mọi người cùng đi vắng, tôi được tự do rít hơi thật dài, thật sâu, ém hơi lâu trong phổi, phun ra rồi hít vô ngay lại bằng lỗ mũi. Những lúc nầy thì đã tận mạng. Đã không có cách nào mô tả được. Hút lén khoái hơn hút tự do ở sân trường hay trên đường đi-về, hoặc trong mấy cái quán cà-phê tối om nhan nhản ở đây.... Có điều tốt là tôi không ưa uống bia và không thích nghe chuyện người lớn. Tôi ghét tận mạng ba cái chuyện nói xấu người vắng mặt và mấy câu nói tục tĩu về đàn bà con gái của những tay tùng tụ chén chú ly anh.
Nhà chú tôi cuối tuần nào cũng bạn bè nhậu nhẹt ồn ào ruồi nhặng. Bia khui lốp bốp phung phí vung vãi, bia để đầy trong góc nhà bếp gọi mời nhưng tôi không hề đụng tới. Chuyện om xòm, vui nhộn của họ tôi cũng để ngoài tai luôn. Khác với những đứa bạn cùng lứa và mới qua như tôi, bia đưa bao nhiêu cũng tu, chuyện người lớn nói lúc nào cũng hóng mỏ nghiêng đầu nghe cho rõ - nghe để chép trong bụng sau đó đi kể lại với bạn bè cùng lứa - nhiều khi hứng chí còn mở miệng cười hùn, bàn góp.
Bữa hôm đó lại có tiệc, không phải cuối tuần nhưng là ngày lễ. Cũng vậy thôi. Họ nghỉ và có cớ tụ tập nhậu nhẹt la lối. Là người lớn nên họ có quyền làm những chuyện mà chính họ cấm bọn người trẻ tuổi như tôi. Ồn ào quá, tôi đang muốn xỏ áo đi ra quán cà-phê ngồi thì cửa mở, một người nữa tới. Nhìn mặt ông ta tôi bỗng rùng mình ngang. Người xấu xí, cục mịch nhưng trông quen quen, đã vậy khi mới nhìn ông ta, tôi lại cảm giác thoang thoảng bên mình một mùi hương con gái mà tôi không thể nào tả được. Tôi hít hơi thật dài. Mùi khói thuốc hăng hăng và mùi thức ăn thơm thơm kiểu Việt Nam bình thường vẫn quyện đâu đây trong không khí đã tan biến mất nhường chỗ cho một thoảng nhè nhẹ hơi hương, dìu dịu thơm của đóa hoa nhân sinh mới nở. Không thể nào là thứ dầu thơm đặc biệt. Đặc biệt cách mấy cũng là do tay phàm sản xuất. Đây là thứ hương trời, mùi tinh khiết mà chính tay tạo hóa cũng phải mất mười mấy năm mới tinh luyện được trên thân hình một đóa băng trinh.
Cảm giác nầy tôi bắt gặp lại nhiều lần mỗi khi thấy mặt ông ta. Mùi hương mất đi vài phút sau đó. Có một lần lạ lùng hơn, chuông điện thoại reo, tôi nhắc ống lên, vừa mới nghe ông ta xưng tên thì tôi đã cảm thấy mùi hương trời dễ chịu đó bay lượn trong phòng. Tôi nói với ông ta bằng giọng ngọt ngào chưa từng có. Và tôi nghe bên mũi mình hương trời lãng đãng của hàng ngàn thứ hoa thơm Diêu Trì phối hợp cùng hương mộc ngàn năm trên vùng tuyệt lãnh. Mùi lá đào gieo rắc chốn Thiên Thai, mùi mộc hương nhè nhẹ đăng đắng, mùi trầm hương phất phất ngòn ngọt quyện trong khói, mùi những thớ thịt cây giáng hương mới đốn còn tươm tinh dầu. Tất cả đều nhè nhẹ, lâng lâng vừa nâng hồn tôi lên chỗ phiêu bồng lãng đãng vừa bóp thắt tim tôi lại vì cảm giác thất vọng thấy được rằng sau vài phút nữa mùi đó sẽ không còn, bay mất hút tuyệt cùng trong không gian. Tôi ngạc nhiên thiệt tình. Ông nầy là một thứ thần linh xuống trần hay một thứ ma quỷ gì hiện hình mà có khả năng siêu phàm như vậy. Tôi thẫn thờ hàng giờ để phân tích mùi hương đã đành, tôi còn lạc ra ngoài không gian cả buổi vì bận bịu đi tìm cho mình một cách giải thích hiện tượng kỳ bí đó. Mọi giả thuyết đều không ổn. Đã đành là mùi hương, nhưng nhè nhẹ và ngòn ngọt. Cái tươi mát của buổi sáng lành lạnh phơi phới sương giăng mù và một chút móc đậu ơ hờ trên nhánh cỏ đìu hiu. Cái dịu dàng thân thiết của không gian rộng khoáng sau một cơn mưa chiều phất phới. Tôi liên tưởng đến một chút mật ong chúa đã được tinh luyện với hương thơm thiếu nữ, sấy khô rồi thổi vào trong không trung bằng luồng gió sớm của buổi sáng mồng một Tết lành lạnh heo may. Dầu sao tôi vẫn bất năng không thể nói được chính xác phẩm tính của mùi hương ảo huyền đó. Có thể là cái nhẹ nhàng của hương trời kỳ bí bao bọc một vùng không gian nhỏ nhỏ mà ông ta có khả năng làm cho nó di chuyển theo bước chân mình.
Tôi ôm trong lòng cái bí mật của mình để vừa mong mỏi ông già tôi dọn nhà ra riêng để mình không bao giờ gặp lại con người lạ lùng nầy nữa, con người đã mang cho tôi cảm giác thất vọng đặc biệt - tôi không thể nào tôi chịu được cái cảm giác khoái thích ôm ấp mình vài phút rồi sau đó là mấy giờ một tình cảm hụt hẫng vì tiếc nuối, thất vọng của một sự mất mát bao la không lường tưởng được - lại vừa mong mỏi thấy gặp ông ta để được sống trong một hương trời không dễ có, một kinh nghiệm chắc chắn sau nầy hết đời tôi cũng không thể hưởng. Vậy mà ông già tôi vẫn chưa tìm được một công việc tốt, vậy mà má tôi vẫn hằng ngày nuôi hi vọng bằng những hứa hẹn hảo huyền của vài người chung quanh về những công việc mà bà có thể được mướn trong một tương lai gần. Chúng tôi phải ở trong nhà chú để mỗi cuối tuần tôi vừa thích thú vừa đau khổ trong cảm giác về mùi thơm bí ẩn từ một người đàn ông cục mịch quá tuổi trung niên đó.
Có lần tôi bỏ thói quen của mình, lắng nghe chuyện họ trao đổi ngay từ khi ông ta mới bước vào nhà với mùi thơm đặc biệt tôi đã nói ở trên.
“Lâu quá không thấy, cả tháng rồi, bộ mới từ Việt Nam qua hả, sao coi bộ rệu rạo vậy cha nội?”
“Ở bên nầy không chứ có đi đâu đâu. Chuyện làm ăn xuống quá nên không đi lại bạn bè thường xuyên như lúc trước!”
“Cũng hết về Việt Nam như ăn cơm bữa rồi hả?”
“Tiền bạc không ngon ăn như trước nữa nên cũng hơi co vòi. Giản một chút. Để coi công chuyện ra sao rồi tính.”
“Em bỏ cho ai? Mốc sao?”
“Thì cũng ở đó chờ mình qua giũa một hai tuần cho khỏi mốc như mọi khi.”
Có nhiều tiếng cười hềnh hệch từ tất cả mọi người có mặt, kể cả ông già tôi. Tiếng cười khó chịu lỗ tai làm tôi bực mình. Tôi cố tình lắng nghe kỹ hơn phần đối thoại kế tiếp. Càng nghe họ nói chuyện thì mùi hương đặc biệt cảm nhận do mũi tôi, do lòng tôi càng từ từ phai nhạt, khói sương.
“Dường như em vừa mới bị đem từ quê lên cho Đài Loan phá rồi sang tay ông phải không? Làm nước nhì còn mới tinh ha! Hang tiên chật hẹp gợi tình, động trời nhỏ nhoi kỳ ảo, đào trinh chửa bén tay phàm bao nhiêu. Thích nhe”.
“Gì mà văn chương dữ vậy ông trời? à! Cho em ngự làm bà chủ một căn nhà mình mướn trả liền ba năm ở khu Trương Minh Giảng, sau chùa Miên. Em ở đó chờ chừng nào mình kiếm được kha khá tiền qua thì vui thôi. Nắng hạn mưa rào!”
Tôi giựt mình. Xóm Chùa Miên là chỗ tôi sống từ lúc mới đẻ tới khi qua đây. Xóm Chùa Miên là chỗ tôi gánh chịu những hẩm hiu lúc nhỏ và những ngọt ngào khi mới lớn. Ba tiếng Xóm Chùa Miên kéo sự chú ý của tôi hơn.
“Người Việt Nam lạ lùng thiệt tình, con gái người ta mà đặt tên cái điệu gì kỳ cục quá: Nguyễn thị Cỏ Thơm. Tôi phải sửa lại là Phương Thảo khi giới thiệu với người quen. Phương Thảo đi tới đâu cũng thơm tho, sang trọng, Cỏ Thơm làm sao bằng! Quê chết mẹ!”
Tôi giật mình. Ồ! Té ra ông nội có mùi hương con gái nầy là thằng cha Việt kiều “già dịch” mà chị Cỏ thường nói tới bằng một giọng buồn buồn khinh khinh bấy lâu nay. Tôi thoáng thấy ông một lần năm ngoái, khi ông ta trửng giỡn trớt nhã với chị Cỏ và chị đã biểu lộ cái bất bình bằng cử chỉ nhăn nhăn mặt. Sao mới đây mà thay đổi dữ tợn vậy, khác quá. Hom hem. Đen xấu. Trán lại rụng hói quá đáng. Đôi mắt không còn tinh anh như lúc trước, cử chỉ lại cũng chậm chạp nhiều.
Vô buồng mình, tôi đóng ập cửa lại thiệt mạnh cho đã giận.
Đã tìm ra câu đáp cho cái thai đố hóc búa quần vật tôi gần ba tháng nay. Mùi hương kia là hương thơm con gái của chị Cỏ khi ôm tôi trong ngày từ giã, em rán học, sống vui. Tội nghiệp thằng Rơm em của chị bằng tuổi em mà không được học và bây giờ không được sống nữa. Nó mất cả mấy năm nay rồi. Lội xuống vũng lượm bao ny-lông mà đạp nhằm lon sửa bò cũ. Thấy Tuấn là chị nhớ tới thằng Rơm. Nhớ quá.
Tôi biết chắc lòng mình là khi được chị ôm, tôi không mảy mai chút tư tưởng bợn nhơ nào. Cái tay dịu dàng và mát rượi chị quàng ra sau lưng tôi, tôi cũng có cảm giác đó, nhưng rất trong sạch! Cả nhục cảm êm ấm của đầu tôi khi bị ôm ấn thương yêu vào trước ngực mềm mềm và âm ấm của chị tôi vẫn cảm nhận nhưng mà là một thứ nhục cảm thật chị em và trung tính.
Vậy thì mùi thơm đặc biệt mà tôi gọi là hương trời kia từ đâu mà có? Thật tình tôi không thể giải thích nổi. Mới mười ba tuổi, tôi chưa đủ sức và chưa đủ chữ để giải mã một hiện tượng kỳ lạ như vậy bằng những từ ngữ trừu tượng. Phải bỏ qua những thắc mắc vô ích đối với lứa tuổi mình để có thể sống vui và học hành như chị Cỏ đã căn dặn trước lúc tôi lên đường.
Và từ đó mỗi lần gặp lại ông “già dịch” nầy tôi không còn nghe mùi hương khuê nữ kia nữa. Mất tuyệt, cho đến nỗi tôi ước ao một lần thôi được nghe lại cũng không có. May là mũi tôi không thế vào đó bằng cái mùi khó chịu tôi có cảm tưởng bất cứ lúc nào cũng có thể hình thành do cách ăn nói, hình thù và lối hành xử của ông ta. Có điều là từ đó tôi không còn buông tiếng chửi thề vào giữa câu nữa. Từ ngữ phóng khoáng nầy tôi chỉ sử dụng những khi thật cần thiết phải chửi cha cuộc đời mà thôi. Viết thơ thăm chị Cỏ, tôi không hề đá động gì tới chuyện mùi hương Cỏ nầy, dĩ nhiên là không có hình ảnh ông ta trong đó, dầu là một chữ.
(Port Arthur, Texas, 9-9-1995)
Kẻ thua Cuộc
Kể Chuyện Ngày Xưa
Tôi phơi phới ngồi phía sau cóp chiếc xe lô Minh Chánh nhìn thiên hạ ngược xuôi. Tất cả nếu không biểu lộ nét chán chường thời thế thì mang vết hằn của năm tháng lo âu. Sao nỡ ra đi bỏ thành phố thân yêu không thương tiếc? — Hơn hai mươi năm chung tình rồi còn gì. Em Sàigòn biến chất chớ không phải tôi tình phụ bỏ bê. Trong phong ba của bom đạn Ðồng Minh cuối thế chiến, tôi chỉ theo cha mẹ về quê vùng Chợ Ðệm náu nương một thời gian ngắn rồi lại lục tục trở lên Sàigòn sống đời thơ ấu cho đến lúc bước những bước rụt rè chánh thức vào đời như một người trưởng thành. Tôi từng đứng nhìn không mỏi mắt đàn kiến người đưa đám tang anh học sinh họ Trần, đám tang lớn nhứt thế kỷ cho một thanh niên trẻ tuổi nằm xuống vì tiếng nói đối kháng chế độ thực dân. Tôi từng theo chân đoàn người thật dài và yên lặng tiễn đưa nhà văn độc nhất đang sống ở Miền Nam của văn đoàn Tự Lực, nằm xuống để phản đối không cho người khác xử án mình. Tôi đi tìm một thành phố hiền hòa nào đó, trốn tránh sự ngột ngạt của những dao động lúc nào cũng có thể xảy ra cho thủ đô thần tượng. Vị Giáo Sư ngành Triết dạy môn Ðạo Ðức tại trường Ðại Học tôi đang theo, lúc đó phụ trách ngành Trung Học, thể theo lời yêu cầu phụ giúp của người bạn thân vừa tham chánh trong một chánh phủ gọi là của dân nghèo, ký giấy cho tôi được về dạy giờ tại ngôi trường mang tên vị văn hào mù lòa nhưng tượng trưng cho hào khí của miền Nam khả ái. Tôi chưa có một hình ảnh gì rõ rệt về ngôi trường mình sắp đến. Tất cả đều là những cảm giác mù mờ đựa trên các dữ kiện thiếu cơ sở. Không thể nào trường nầy cựu trào hơn ngôi trường tôi từng theo mười năm trước, mang tên nhà văn bác-ngữ-học danh tiếng cuối thế kỷ vừa qua. Không thể nào trường nầy tọa lạc trên vùng đất khang trang như ngôi trường của tôi. Không thể nào trường có phong vị học hành như ngôi trường đã cho tôi niềm hãnh diện trong thời niên thiếu... Không thể, và biết bao nhiêu cái không thể khác hiện ra trong trí.
Các ý nghĩ đó thay đổi khi tôi đến trước ngôi trường nhiệm sở. Cổng sắt to lớn, uy nghi. Cột cổng bằng xi măng, bề thế. Ngôi nhà chức vụ của ông Giám Học như căn biệt thự nho nhỏ, xinh xinh. Trường rộng rãi, nguyên cái sân thôi cũng đã to hơn toàn thể khu đất của nhiều trường ở Sàigòn. Kiến trúc trường cổ kính theo hình chữ U, dãi lầu ngang tôi còn nhìn thấy lan can và nhiều thanh sắt uốn nắn hay chạm hoa văn đặc biệt của mô thức kiến trúc kiểu Pháp đầu thế kỷ. Trường nằm lọt trong lòng một khu vừa thị tứ vừa thơ mộng. Con đường me phía trước sao mà vừa rộng thênh thang vừa đẹp đẽ đến kỳ thú, gợi tình. Chắc hàng me đã trơ gan cùng tuế nguyệt hàng bảy tám chục năm nay. Thân me to lớn, cành lá xum xuê, tạo nên con đường me bay ngay thơ mộng trong ký ức tôi ngay từ lần đầu tiên được biết. Cảm giác đó vẫn còn giữ cho đến ngày hôm nay dầu đoạn đường đời đã bước vài bước sang chặng cuối. Con đường Ngô Quyền bên hông trải dài bằng dãi nhà sang trọng, biết bao nhiêu căn lầu kiến trúc đẹp đẽ, kín cổng cao tường, nói lên sự hiện dịện của mình chỉ bằng mùi bông sứ bông trang thơm ngát. Con đường phía sau là khu chợ, nơi mà sau nầy là chỗ thầy trò chúng tôi nhiều tối ra ngồi trước tô bò viên và ly rượu thuốc Vĩnh Tồn Tâm nhìn sinh hoạt buổi chiều ồn ào của tỉnh lỵ mà bàn chuyện đội đá vá trời. Hình ảnh ngôi trường trong trí khác với hình ảnh thật sự bên ngoài đã thay đổi tình cảm của một thầy giáo mới vào đời là tôi. Tôi cười làm quen với những cậu học sinh áo trắng quần dài xanh, huy hiệu bằng vải thêu chữ xanh may luôn trên áo. Qua họ tôi nhìn thấy hình ảnh mình năm ba năm trước, tự hào với đàn em các lớp nhỏ nhưng chính mình lại bỡ ngỡ với quá nhiều ngã đường kỳ bí trước mặt của những ngành nghề. Những cái gật đầu chào ngỡ ngàng đồng thời chứa đựng một sự kính trọng cùng thân thiện đến ấm lòng. Tôi đi về phía văn phòng. Dãi lầu bên trái đối với cổng lớn, dựa lưng vào đường Ngô Quyền. Một vị giáo sư đứng tuổi, người rắn chắc, thấp, dáng thể tháo gia, tóc hớt cao, sau này tôi mới biết là thầy Tổng Giám Thị có cùng tên với mình, kêu hai học sinh bê bối mà nãy giờ ông đang giảng luân lý, đứng qua một bên, đón tôi lại, hỏi rồi niềm nở chỉ văn phòng hiệu trưởng. Tôi cảm thấy ấm áp nhờ sự chào đón đầu tiên đó. Ngay từ phút nầy tôi biết rằng Sàigòn đã thật sự vắng mặt trong tôi, từ đây mình là một phần tử không thể tách rời của ngôi trường tại vùng đất của mận hồng đào thơm ngọt. Ðời mình rồi sẽ gắn bó với nó nếu những trở ngại đừng quá lớn lao.
Phút trình diện thân mật và dễ dàng hơn tôi nghĩ. Nhìn ra ông Hiệu Trưởng, tôi gọi ông bằng Thầy và nói rằng mình xuất thân từ ngôi trường nhiệm sở tiền nhiệm của ông. Ông xưng Thầy và gọi tôi bằng con, tiếng con thân thiết khiến tôi cảm động thật sự dầu mình đang ở trong tuổi tự cho đã lớn và phải kềm chế những xúc cảm không hợp với phái tính. Ông nói sơ qua về sinh hoạt của trường, khuyên tôi nên học thêm năm chót để hoàn tất học trình cần thiết của một giáo sư trung học. Ông nói về bổn phận của người thầy ở đây và bổn phận đối với chính mình khi tôi có dịp về Sàigòn. Giọng nói của ông ấm áp, từ tốn, tỏa ra sự thân yêu đùm bọc trong từng lời một của một người đi trước lo lắng cho với lớp trẻ đi sau. Tôi cảm thấy được che chở ở nhiệm sở đầu tiên trong đời qua lời khuyên nhủ chân thành của ông. Giờ phút nhậm chức sao mà giống như những phút tâm tình của hai người với tương giao sư đệ!
Theo lời chỉ dẫn của thầy Hiệu Trưởng, tôi vào văn phòng Giám Học để xin được xếp thời khóa biểu. Thật sự tôi là thành viên của ngôi trường từ đó. Ðấy là những ngày đầu của năm 64.
Thằng Ðất thường bối rối khi tôi kêu lên hỏi bài. Cả lớp ồn ào khi thấy nó khó nhọc lách mình giữa khoảng cách quá hẹp của cái ghế dài và bàn viết. Cử chỉ cùng điệu bộ của nó không phù hợp với một học sinh Ðệ Ngũ chút nào. Ðó là thân hình của một người trưởng thành, to lớn, mạnh khoẻ. Nó cao hơn tôi nguyên một cái đầu mà lại cố tình đứng xáp vô tôi để bạn bè thấy ngay được sự cách biệt hình dáng của hai thầy trò. Tôi lùi lại, bước lên bục giảng, nó biết thân không dám bước theo lên. Bây giờ nó vừa khoanh tay hếch mặt lên trời vừa ưởng ngực hít thở óp bụng làm Thần Ðèn lực lưỡng trong tuồng Ấn Ðộ Ali Baba. Cả lớp cười nghiêng ngửa, có đứa được dịp đấm thình thịch vào thằng bạn kế bên. Lớp học thật sự mất vẻ nghiêm trang cần có. Tôi bối rối thiệt tình. Ðã ra thân dạy giờ mà không nắm vững được lớp thì chuyện gì sẽ xảy ra. Tôi làm mặt nghiêm, lấy thước bảng gõ xuống bàn kịt kịt rồi ra luật rằng từ bây giờ trò Ðất muốn làm gì cứ việc làm nhưng trò nào cười sẽ bị phạt. Chưa biết hình phạt là gì nhưng nghe tiếng phạt đứa nào cũng nín im. Tội nghiệp thằng Ðất, nó kềnh kàng nhưng vẫn là một đứa học trò vừa qua khỏi Tiểu học không bao lâu, kiến thức mọi môn đều kém. Thế mà tôi lại bắt nó trả lời những câu hỏi hơi quá sức, ngay cả đứa học trò thông minh nhứt của tôi, con của một nhà văn chuyên tả cảnh sinh hoạt đồng quê Tr. Gi. được tiếng là có cơ hội đọc khá nhiều sách, cũng không trả lời được. Sự giải thích của tôi về hình ảnh quá hoàn hảo của anh chàng Vân Tiên khoan khoan ngồi đó chớ ra bằng phản ứng do cảm thức thất bại của tác giả trong đời sống bình thường cũng là một giải thích quá tầm thâu hoạch đối với thằng Ðất và nhiều học sinh khác. Vậy là nó lãnh đủ những hờn giận của một thầy giáo chưa có kinh nghiệm và chưa phân định được chuyện học hành và cảm xúc không kềm chế của một người thầy. Thằng Ðất tiu nghỉu khi xách tập về với một cặp số không màu đỏ và lằn gạch dưới đậm dài như ngọn roi mây quất vào lòng. Lớp học êm thật êm, tôi nghe cả tiếng một con ruồi vo vo đằng cuối lớp. Tôi nhận được tiếng thở dài của những đứa học trò nhỏ hiền. Những cái nhìn lấm lét làm chùn lòng tôi. Miệng cắt nghĩa bài nhưng hồn tôi như đi trên than hồng của sự hối hận, nghe tiếng mình sao mà vô vị, bất xứng và đáng ghét.
Chú hỏi sau nầy tôi có xin lỗi hay nói phải quấy với thằng Ðất cho nó mát dạ không hả? Cái bậy nầy dẫn tới cái bậy kia chú ơi. Tôi lờ đi với lý do mình là thầy, chỉ tỏ ra săn sóc nó hơn, ngọt ngào với nó hơn chớ tuyệt nhiên không nói gì đến cơn giận nắng mưa vô lý của mình. Cho tới bây giờ gần bốn chục năm qua, tôi vẫn còn mường tượng vẻ mặt cười cười trong khổ sở và bắp tay cuồn cuộn của nó khi tôi đánh quẹt lọ vô đó vì những câu nó trả lời không hợp ý mình. Chú biết không, thằng dễ thương vậy mà năm sau phải bỏ học ngang, chưa kịp thi cả bằng Trung Học Ðệ Nhứt Cấp. Bạn bè của Ðất cho tôi biết nó vô Dân Vệ ở xã nhà để được gần gũi gia đình. Ðời bận rộn quay mòng trong cơn lốc thời gian và cuộc sống bon chen khiến tôi quên bửng nó, không biết về sao Ðất như thế nào nữa. Chiến tranh thời nầy đã nuốt chửng vô vàn thanh niên, không biết người học trò đặc biệt đó của tôi thoát khỏi chăng nanh vuốt của con quái vật gọi là cuộc chiến?
Chú muốn nghe nữa?Toàn chuyện buồn không à! Chuyện vui bay thoát mất tiêu trong tâm trí, chuyện buồn man mác mới tồn tại trong hồn ta chú không biết điều nầy sao? Lúc đó tôi tạm trọ trong nhà nọ. Nhà lầu ba từng ở đường Ngô Quyền, chủ nhà là một bà bác độ chừng hơn năm mươi, quả phụ của một thầy giáo. Nhà rân rác lắm, trước kia nghe đâu có mở tiệm cầm đồ, thầy giáo mất, bà bác cho học sinh ở trọ để vui cửa vui nhà. Bà sắp xếp cho tôi ăn riêng theo khẩu phần và giá biểu của giáo sư. Ðộ một thời gian, sau khi đã quen với đám học trò cùng nhà, thấy các em ăn uống kham khổ tôi nghĩ rằng ăn chung với tụi nó tốt hơn. Kết cuộc là nhiều bữa tôi đói, phải ra chợ ăn thêm vì sức học trò ăn quá mạnh, loáng một cái trên mâm đã không còn gì. Cũng nhờ ăn chung mà tôi chơi thân với những đứa học trò lớp Ðệ Nhứt, khoảng cách giữa thầy trò chỉ vài ba tuổi thôi. Chúng rành sáu câu mọi chuyện xảy ra trong vùng. Chúng nhứt quỷ nhì ma, biết nhà nào có con gái xuân thì, biết trái cây bà bác cúng rồi để đâu, biết thức ăn nào còn để dành lại. Một bữa kia vào lúc bảy giờ tối văng vẳng đưa tới nhà trọ tiếng kèn đám ma tò te từ xóm bà giám thị Ðẹp. Tôi đưa mắt hỏi thằng Thượng, nó trả lời trong tiếng thở dài, thầy Th. đó. 'ng bị bắn sẻ trên đường về trường. Rồi nó kể tiếp, ổng đi tác chiến đâu chừng được một năm, mới có giấy biệt phái về lại nhiệm sở cũ, vừa bàn giao đại đội đi về thì bị. Tài xế cũng không biết, chỉ thấy ông gục đầu qua một bên rất lâu, tưởng là ổng ngủ. Tội nghiệp cô Th. còn rất trẻ, con của cô thầy đâu chừng hai tuổi thôi.
Tôi rùng mình, trong túi tôi hai ngày nay có tờ giấy kêu trình diện Bộ Quốc Phòng do Chuẩn Tướng Giám Ðốc Nha Ðộng Viên họ Bùi ký. Tôi chưa biết phải đối phó cách nào với lịnh gọi. Tờ giấy bây giờ nghe như đương vương mấy ngón tay móng dài ra cào cào bắp vế tôi nói rằng mình có mặt. Ðêm hôm đó và liên tiếp hai ba ngày sau tiếng kèn u uất kia là nỗi ám ảnh không rời. Tôi chưa từng biết Th., đám tang anh tôi cũng không đi dự, thế mà lòng nghe xót xa cho anh, cho những người cùng trang lứa. Chắc anh khi cầm tờ giấy biệt phái đã xây biết bao nhiêu mộng, đã vẽ ra nhiều chuyện mình phải làm cho tương lai. Thùy vô tử nhưng đây là lần đầu tiên tôi nghe chi tiết về cái chết của một đồng nghiệp bất hạnh. Tiếng kèn và tấm giấy gọi nhập ngũ đã tạo cho tôi nhiều ác mộng. Tội nghiệp cho người hay nghĩ đến chuyện có thể xảy ra cho mình trong tương lai? Không có thì giờ phân tích lòng mình, tôi chỉ biết rằng mình sợ trò chơi binh nghiệp ngay từ khi nghe chuyện bất tường xảy ra vào Giờ Thứ Hai Mươi Lăm của Th.
Chú muốn nghe nữa? — Ðược. Tôi có một đứa học trò ưa cùng tôi bàn luận chuyện văn chương thi phú. Ðệ Ngũ thôi, nhưng nó thuộc thơ văn nhiều hơn tôi tưởng. Lắm lúc nhận xét của nó quá khích đến lạ lùng. Thằng Thiện bữa nọ đưa tôi tập thơ Từ Ấy in trong vùng Giải Phóng ở Bến Tre. Tập thơ khổ nhỏ, in đẹp, giấy trắng tốt. Tôi cầm mà tay run run. Không phải đùa, lớn chuyện rồi đây. Thằng Thiện theo bên nầy hay bên kia mình đều kẹt cứng. Khuyên bỏ hay khuyên giữ tập thơ đều khó, đều có thể có phản ứng ngược. Tôi hỏi ở đâu em có, nó trả lời là của anh em, anh ấy lớn hơn em một tuổi, thi vô Ðệ Thất không đậu, ở nhà. Bây giờ anh ấy theo phe bên kia. Vùng xôi đậu mười bốn mười lăm là phải theo họ hay chạy ra thành phố. Ảnh chọn ở lại vì em còn mẹ già và hai em gái nhỏ. Thỉnh thoảng tối ảnh còn được về nhà thăm má em giúp bửa củi, đắp mương, đào ao, đập lúa. Ði lính Cộng Hòa không biết bao giờ mới được thăm gia đình. Tôi nói nhưng mà Thiện đừng cầm tập thơ đó khơi khơi như vậy, nguy hiểm cho em. Nó là một thứ quốc cấm. Thà em hiểu, em chọn phe thì có lý, đàng nầy em chỉ thích thơ và tò mò muốn biết nội dung trong đó. Cái hại không bù với cái lợi trong trường hợp nầy. Thằng Thiện thở dài, xếp tập thơ lại, đút túi. Từ đó nó không bàn gì đến chuyện thơ phú với tôi nữa. Tôi quên đi Từ Ấy, chỉ nhớ đến chuyện hai anh em Thiện. Rồi đây sẽ có lúc hai đứa cầm súng bắn nhau mà mọi sự bắt đầu bằng chuyện thi đậu hay thi rớt vào Ðệ Thất của trường tôi đang theo dạy. Ước gì trường tôi có đủ chỗ học cho tất cả học sinh vào Ðệ Thất. Ước gì đất nước chúng ta không có những vùng xôi đậu. Chú hỏi về sau hả? Thằng Thiện tôi gặp lại ở Sàigòn sau đó, đang theo học trường Chiến Tranh Chánh Trị. Nó nhắc đến những đứa học trò cùng trọ với chúng tôi bây giờ hầu hết đã thành nhân chi mỹ bằng một giọng thiệt vui. Tụi em gặp nhau là nhắc tới thầy hoài, nhắc tới sư tổ nữa. Tôi chận ngang, nói rằng mình hãnh diện khi thấy các em thành tài, đất nước mình nghèo, quê hương mình chìm trong đại nạn chiến tranh nhưng trường học đã làm tròn nhiệm vụ đào tạo, và học sinh đã sống xứng đáng đời học sinh. Chú biết không, không gì thiệt thòi cho trẻ em bằng cắp sách đến trường mà không tin những gì thầy cô giảng. Không gì dễ làm hư trẻ em bằng sự đối nghịch giữa trường học và trường đời. Chú có thể chê thế hệ tôi có nhiều cái bê bối nhưng chú không thể chê tình thầy trò và sự giáo dục mà các em đón nhận của thời nầy...
Tôi từ giả nhà trọ để khỏi đi sâu vào những chuyện khó xử về sau, chuyển tới ở chung trong chuồng cu phía sau trường với người thầy cũ mà học trò tôi thường gọi là sư tổ. Như đã nói với chú, chiều chiều tôi cùng với một anh bạn giáo sư gốc võ sĩ cùng hộ tống thầy mình ra ngồi sau chợ, nhâm nhi ly rượu thuốc để quên đời và bàn chuyện lớn. Tôi thật sự làm quen với các đồng nghiệp là lúc nầy. Anh Lê, Toán Lý, cờ hạng cao, anh Quách, vua cờ, Giám học Lâm vui tánh, anh Ðại, Sử Ðịa, bạn học với tôi, anh Sáng râu, triết gia, tuyên bố không thèm cưới vợ. Anh Phẩm Bá, Pháp văn, nhiều tham vọng, anh Tam, Triết, vận động hăng hái để có Ðại Học Tiền Giang, anh Nghĩa Trung, Vạn Vật đang chuyển sang Luật... Còn biết bao nhiêu người khác nữa không thể kể hết như các anh Mai, Thứ, Kiến, Long, Nhơn, Thế V... Tất cả đều dễ thương với bạn bè và hết lòng với đám môn sinh, lúc nào cũng muốn học trò mình thành đạt, đem lại rạng rỡ cho trường. Sau nầy trong dòng đời xuôi ngược, có dịp gặp lại họ hay không tôi đều có hình ảnh tốt về những con người tận tụy đó, những con người một lòng đem đời mình đấp xây cho thế hệ sau. Giờ đây tất cả đã tan tác bốn phương, người chết, người bệnh, người nghèo, người lưu lạc nhưng tôi biết chắc rằng ngày xưa họ đã làm quá hơn nhiệm vụ của mình mà không đòi hỏi một sự báo đền nào...
Xin đọc cho chú một ý thơ mới hiện ra trong trí già nầy. Không phải do sáng tác mà là phóng dịch từ một bài hài cú của Kishu, nhà thơ thiền danh tiếng của Nhật Bản:
Bốn mươi năm đây đó,
Về lại trước trường xưa,
Tôi chưa từng đi một bước nào.
Phải, bằng tấm lòng, người ta gắng bó với xứ sở, quê hương hay một địa phương nào đó. Trở về lại nơi chốn kỷ niệm xưa là tiếp nối ngay với thời điểm lúc mình bỏ ra đi. Khoảng thời gian tôi không có mặt ở trường nầy bây giờ đây bị xoá tan hoàn toàn trong trí nhớ như là chưa bao giờ hiện hữu. Tĩnh giấc kê vàng đó chú. Tôi thấy mình trở lại những tháng ngày trẻ trung đứng trước đám học sinh, chăm chú nghe thầy giảng mặc dầu trong trí họ mới vài phút trước còn đầy những ưu tư về nghèo túng, quân trường, tình phụ, áp lực của vùng xôi đậu mà họ đang ở.... Chú thấy đó, tôi sẵn sàng mở rộng nội tâm mình ra ráp vào hiện trường nhưng khung cảnh không sẵn sàng. Nét thay đổi vật chất về hình thể ngôi trường, sự dững dưng của học trò không biết tôi là ai, cái nhìn dò xét của người điều hành khi tôi xin phép được một mình đi vòng vòng phía bên trong.... đều là chuyện thường, chuyện nhỏ, không đáng kể. Ðiều tôi không chịu được là thấy người ta đua nhau lấn chiếm, đành đoạn giành giựt đoạt xé từng mãnh thịt xương của ngôi trường. Căn nhà Giám Học không còn nữa, nhiều phần đất chung quanh đã bị tướt lột, bán lại sang qua không biết bao tay người. Chú thấy đó, hàng rào sắt chung quanh trường tượng trưng cho sự bảo vệ học sinh đối với xã hội đảo điên đã bị bứng lên đem đâu mất. Người ta thi nhau đổ rác, phóng uế phía sau nhà mình, có biết đâu phía đó quay về các lớp học. Ðau đớn nhứt là diễn trường cho những sinh hoạt phi giáo dục lại xảy ra tại chỗ này. Tất cả đều có từ ôm đi sau. Chú có thấy thiệt là vô lý hay không trong khi thầy cô giảng bài học trò chỉ cần nhìn ra cửa sổ sẽ thấy, sẽ tưởng tượng được rõ ràng cảnh kề vai cọ vế? Vị vĩ nhân mà trường mang tên có nói câu nầy rất tuyệt 'Thà đui mà giữ đạo nhà'. Ðạo nhà đây không gì khác hơn là nhân luân đó chú. Bây giờ thì tang thương đến cả từng mảnh nhỏ của ngôi trường vì người ta không làm tròn nhân luân. Chú thấy các thông cáo đóng hàng chục thứ tiền dán trên bảng kia không? Trẻ con làm sao còn tin tưởng được những gì người lớn nói?
Mà thôi, kể chuyện cổ tích với chú bao nhiêu đó đã đủ, trách móc rồi cũng dư lời, nói nhiều thêm nước mắt lại đoanh tròng. Già rồi không ai muốn điều đó, trẻ con chung quanh chúng cười cho. Lão đại hồi luôn luôn là phút bẽ bàng. Mục đồng tá vấn vẫn là cảnh đau lòng đứt ruột. Tôi nói cái gì vậy cà? Thôi! Chú ở lại mà chứng kiến cảnh hí trường thấm thoát. Mai ngày biết đâu sẽ có những thầy, những trò khác về đây ngồi kể chuyện sang đàng với chú như tôi hôm nay. Rán mà nghe tâm sự họ với tất cả cõi lòng rộng mở nhe chú!
Cây me to xào xạc cành khi người ngồi dựa gốc nó bây giờ đứng dậy chệnh choạng bước đi. Dáng ông coi bộ còn mạnh khỏe nhưng sao bước chân lại xiêu xiêu như người say rượu băng xiêng? Lá me vàng úa bay lả tả, lượn lờ trong không gian, như xúc động bùi ngùi đưa tiễn, rớt lấm tấm trên cái đầu bạc trắng của người thầy giáo già mất quê hương và mất luôn cả kỷ niệm.
(Nhớ về trường cũ)
Khói thuốc cả
Truyện ngắn là bài viết ít sự thực
kế đó là hồi ký, trên cùng là bài viết về lịch sử.
Sự thực làm nguồn cho truyện ngắn,
bị bóp méo ít nhiều trong hồi ký,
được đào xới, phân tích, giải thích
trong các bài về lịch sử.... NVS.
1. Lời thầm thì của cậu học trò trường con trai.
Kể từ 1946 vùng Chợ Đệm quê ngoại cưu mang gia đình chúng tôi không còn yên lành chút nào nữa. Mấy lò gạch bự xộn, những ruộng lúa minh mông, chục đám mía Tây ngon ngọt, con sông rộng bát ngát... của vùng nhà quê một thời hiền hòa nầy bị tôi bỏ lại. Chiến tranh khiến cha mẹ tôi kéo bầy con lếch thếch bốn đứa từ chỗ nầy qua chỗ khác một năm vài ba bận đi lần về Sàigòn lánh nạn. Chợ Đệm-Sàigòn, khoảng cách nay chỉ bằng một chuyến xe buýt ngoại thành sao mà ngày trước thấy muôn trùng vời vợi. Tôi xẹt vô trường nầy chừng năm ba tháng, ghé vô trường kia một vài tuần. Cái hay ho của thời đó là tới đâu cũng có trường cho con nít học không bị đòi hỏi chứng minh giấy tờ gì. Không có khai sanh hả? Cứ khai danh dự, khai sanh hay Giấy Thế Vì Khai Sanh đưa cho trường sau cũng được. Dễ vô dễ ra nên ba tôi cho mấy con nhập học trường nầy trường nọ tự nhiên, không thắc mắc. Tuổi trẻ dễ nhớ, vậy mà chưa kịp nhẵn mặt hết mấy đứa cùng lớp thì đã bị lôi tuột qua trường khác. Nhớ đầu tiên là cái trường chỉ ọp ẹp có ba lớp, nguyên là căn nhà rộng của vợ thầy Ba y tá chích dạo trong xóm theo toa Bác Sĩ được ngăn phòng. Cô Ba mở ra để giúp cha mẹ học trò cầm chưn mấy đứa nhỏ khỏi lang thang lâu ngày do không thể đi học hơi xa. Trường nghèo, băng ghế cái nầy xọ cái kia đóng bằng đủ thứ cây của người thợ vụng về, nhám ồ và dăm nhỏ thường đâm vô tay học trò nhiều khi làm độc, thành mủ.
Năm đó lúc tôi học lớp Tư (lớp 2 ngày nay), không nhớ gì nhiều, chỉ nhớ là học được chừng non hai tháng thì thằng bán cà lem cục trước cửa trường vô học chung lớp. Nó ngồi cùng bàn với tôi, tên nó hơi lạ nên tới giờ vẫn còn nhớ: Trần Doãn Nhàn. Chúng bạn cùng lớp chưa ý thức về sự tôn trọng người khác nên cứ kêu Nhàn bằng cái biệt danh ‘thằng bán cà lem cục’, nói chuyện về nó thường ra dấu với nhau bắt chước cử chỉ hai tay nó lẹ làng đè cắt cục cà lem và rút cái tăm tre ghim vô trao cho người mua một cách điệu nghệ. Nhàn học giỏi vô cùng, bỏ xa các bạn vô trước. Tôi nhớ là mình từng làm anh hùng can thiệp để cứu bạn bớt bị chế ngạo hay ăn hiếp. Vốn là dân lội ruộng từ nhỏ, lớn con hơn mấy đứa dân thành thị, lại là tay lăn chai nên tôi bảo vệ nó hữu hiệu. Nó có vẻ cảm động lắm, tâm sự về gia đình với tôi nhiều điều. Tôi có rộng thời giờ thắc mắc ngó cái miệng bự xộn của nó với cặp môi vảnh tròn vì phải rao bán cà lem lâu ngày khi còn quá nhỏ.
Rồi ba tôi xách con tạt qua học trường mới. Đi mà tôi vẫn nhớ dai dẵng cái thằng có tên Trần Doãn Nhàn. Tiếc là dòng đời vô tình đẩy con người ta đi vào nhiều lối, từ đó đến giờ tôi vẫn mang trong trí cái tên đó nhưng chưa bao giờ gặp lại hay nghe tin về người bạn từng cùng ngồi chung một băng ghế lỏng chỏng ngày chiến tranh xa xưa.
Trường mới tên chánh thức là gì không còn nhớ, hình như là Trường Ngã Sáu Sàigòn, nhưng cha mẹ học trò đều kêu là trường Hãng Đinh. Tên nầy có là do trường dùng dãy nhà của cái hãng sản xuất đinh của ai đó bị Tây tịch thâu. Ở trường Hãng Đinh tôi quen với thằng Cửu. Sau nầy còn gặp nó ở Mỹ, nói chuyện xưa râm ran khiến cho nhiều lần người trong nhà chế ngạo ‘Tám’ quá, coi chừng tăng hormone nữ. Trường nầy có thằng Phơi và chị nó học cùng lớp. Hai chị em học giỏi tất cả các môn. Tôi mắc cở thầm khi thấy mình thua họ cả một trời một vực. Lúc nhỏ cũng có lúc chơi chung, tiếc là lớn lên gặp lại không còn thân thiết cũ. Chỉ chào nhau, nói chuyện ngày xưa năm ba phút rồi mạnh ai nấy đi, lòng cảm thấy có gì hụt hẫng vì những trao đổi nhạt phèo mà mình tưởng rằng sẽ rất sinh thú. Chắc thời gian làm mờ ký ức trong khi thực tế chiếm chỗ trong trí ta bằng những lo âu tính toán cho hiện tại và tương lai khiến con người lơ là với hình bóng cũ.
Năm sau thì qua trường Nguyễn Tri Phương, nay trường lớn lên sau hơn nửa thế kỷ, khang trang hơn và mang một cái tên mới lạ hoắc và đầy máu lửa. Lúc mới thành lập, trường còn cả khu đất trống phía sau, chúng tôi làm sân đá banh bằng lá chuối cột lại tuy đau chưn nhưng cũng hào hứng tận mây xanh. Điều đáng nhớ là toàn khu nầy nhà cửa thơ thớt, chiều tan trường nếu lơ mơ về trễ là bị bạn bè nhát ma, có lần tôi bị hù chụp, đã chạy vắt giò lên cổ, về tới nhà mặt xanh như tàu lá chuối. Lớp Ba của tôi có anh Thạnh là đặc biệt. Kêu bằng anh vì Thạnh lớn hơn tụi cùng lớp chúng tôi ít nhứt là 4 tuổi và là người rất chững chạc. Không biết cha mẹ anh làm giấy tờ sao đó mà anh học cùng với lũ nhỏ chúng tôi. Thạnh có tài đá cầu vảy cá mỗi mạng cả ngàn cái, chúng tôi đứa nào cũng mê mẩn theo coi anh đá lần lần tới nhà mỗi khi tan học. Thạnh dường như cưới vợ một hai năm sau đó khi chúng bạn còn đương học lớp Nhứt (Lớp 5 ngày nay). Tôi nhớ có lần sau nầy nghĩa là 2, 3 năm sau ngày thi Tiểu học, tôi tò mò ghé lại tiệm may của Thạnh lúc anh đã có con 2 tuổi. Tôi nhắc lại chuyện cũ, anh lơ lãng như nghe chuyện của ai đâu, anh trở thành kẻ ngoại cuộc, đã quên hết – quên cả cái tài đá cầu của mình ngày trước. Vì bận bịu mưu sinh con người bị biến đổi tới như vậy sao?
Rồi tôi qua trường Trương Minh Ký trên đường Galléini (nay là trường Nguyễn Thái Học trên đường Trần Hưng Đạo) lớp Nhì tôi học có thằng Thức Georges với tên Tây đáng nhớ, thằng Bửu Đăng ưa khoe rằng mình là chú vua Bảo Đại. Lớp Nhứt có hai thằng bạn nhỏ con, mặt mày như tiểu thơ các bạn thường chọc là con gái cha mẹ đặt lộn tên rồi cho đi học lộn trường. Trời xui đất khiến tôi gặp lại một đứa cùng chung lớp ở trường Petrus Ký. Sau nầy ở hải ngoại nó mạnh khỏe, lớn con, lừng danh là người biết nhiều về chuyện môi trường, đất đai dòng nước nhiễm độc.... Còn thằng tiểu thơ kia, tên cúng cơm là Lê Huyền Trang, con của ông chủ tiệm vàng Lê Văn Sự ở đường Quai de Belgique mà tụi nhóc chúng tôi thường hát chọc: Thằng Lê Huyền Trang, Là ông Tam Tạng, Cha nó bán vàng, mà nó lang thang. Nghe chọc, nó cung tay rượt tụi tui chạy có cờ. Rượt thì rượt, chọc thì vẫn chọc, lớp chúng tôi năm đó nổi tiếng là lộn xộn trong giờ ra chơi nhứt trường. Tôi gặp Trang lần cuối khi nó là Trung Úy nhảy dù, bị đạn thù xuyên bụng tại chiến trường đương trong thời gian nghỉ phép dưỡng thương.
Năm đó có cuộc di cư từ Bắc vô Nam theo hiệp định Genève. Đậu được vô Petrus Ký nhưng chưa tựu trường, tôi lợi dụng lúc nghỉ Hè rủ bạn lơn tơn vô thăm trường cũ, nơi tôi theo học gần hai năm, thời gian lâu nhứt trong đời làm học trò Tiểu học. Ngôi trường có cái sân rộng mà tụi chúng tôi hằng ngày xếp hàng trước lớp dự chào cờ và nghe ông Hiệu Trưởng Phác giảng dạy luân lý năm ba phút về những cách cư xử của học trò khi ra đường cũng như lúc ở nhà. Trường đặc biệt có ba tác giả cuốn sách Khoa Học Quan Sát lừng danh: Huỳnh Văn Đó, Nguyến Hữu Thông, Tăng Văn Chương mà học trò đứa nào được học với bất cứ thầy nào cũng lấy làm hãnh diện.
Sân trường bây giờ la liệt đó đây là những túp liều, những lu vại, bếp núc. Quần áo treo, giắt lủng lẳng khắp nơi cả trên lan can và trên các nhánh cây trứng cá. Một số bàn ghế đã bị khiêng ra làm chỗ ngủ hay đã bị chẻ ra làm củi chụm bếp. Tôi ngạc nhiên trong đau xót khi thấy sân trường mình hoang tàn một cách thảm hại. Lác đác có những bếp lò làm bằng ba cục gạch như là được cạy xới lên ở đâu đó. Trên lò thường có nồi niêu soong chảo đen đúa khói ám, nhiều lò lửa còn đương cháy, củi tàn ngã cả ra ngoài. Kế bên thường là bãi nước lầy của chỗ làm cá thịt và giặc gỵa...
Tôi tò mò nhìn những bà cụ dân quê đặc, tóc chải thành lọn dài, quấn bằng tấm vải thâm, cuốn vòng trên đầu. Điều khiến cho tôi và thằng bạn lối xóm đi chung tò mò là các bà đều có răng đen, mặc áo thâm với hai vạt dài, cái ruột tượng luôn luôn quấn ngang bụng, nói chuyện bằng giọng mà cố gắng lắm chúng tôi mới hiểu lõm bõm.
Có tiếng trẻ coi rượt đuổi ca hát. Thằng Thôn bạn cùng xóm, đi chung, thách tôi lập lại coi các bé hát gì. Lấy hết trí thông minh đương có, tôi lập lại khi kết nối với hình ảnh người Chà Và đương đội mâm bán bánh rế bánh cay cũng mới bước vô cửa trường: Ông Tây đen nằm trong cái bồ. Đánh cái rắm thành bánh ga tô... Ông Tây đen nằm trong cái bồ. Đánh cái rắm thành bánh ga tô...
Thằng trời đánh Thôn, đập lên vai tôi một cái đau điếng chỉ một bé gái chừng bốn năm tuổi coi mũm mĩm dễ thương nói theo kiểu dân chợ búa:
‘Thưởng cho mầy con nhỏ bốn năm tuổi đó, đem về nuôi một trăm tạ gạo nữa là vừa. Tao chịu con chị, nó chừng mười tuổi trổ mã tới nơi’.
Tôi mắc cở lãng mắt ra khỏi đám con gái hát hò, hướng về phía đám con trai đương hát bằng một điệu mà tôi chưa từng nghe:
Dưới trời kỳ quái sao cùng/ Chân đâu còn vết ở trong đá này/ Ví đem sắc tướng tin đây/ Như Lai chưa dễ thấy ngay được ngài.
Tụi nhỏ vừa hát vừa ịn chưn mình trên mấy dấu chưn có sẵn trên nền đất ẩm. Chúng kéo nhau rồng rắn đi một vòng rồi hát tiếp, rồi lại ịn chưn:
Bể oan lai láng trên đời/ Xưa nay ai vớt hết người trầm luân/ Mong cho ngọn nước chảy lần/ Lòng mê ta rửa dần dần tỉnh ra.
Trò chơi kéo dài. Tôi đứng vảnh tai nghe, chíp trong bụng mấy câu hát chưa từng nghe trong Nam. Thằng Thôn trố mắt ra ngó. Cái miệng nó tròn vo. Độ chừng mười lăm phút, thằng nầy đố tôi là nếu tôi thuộc hai bài đó thì nó bao tôi đi đổ xí ngầu ăn bò vò viên trên đường Hamelin bên hông trường... Hai bài hát vì vậy in vô trí tôi để sau nầy tôi được cái cơ duyên nói chuyện với Ngoạn Nguyệt dễ dàng và ôm em thiệt lâu trong tình thương mến...
2. Lời thì thầm của một học sinh trường con gái.
Bà Nội tôi là con một vị túc nho đã đỗ Tú Tài trong kỳ thi Hương ngày trước. Nội thấm nhuần nhiều điều thuộc về Nho giáo và thuộc nằm lòng lắm bài thơ Nôm mà Nội nói không sách quốc ngữ nào có. Lúc nhỏ nhà tôi ở khu buôn bán Phố hàng Buồm, cũng thuộc hàng khá giả. Trẻ con trong phố thường xuống vệ đường ca hát ngông nghênh chọc ông Tây đen bán bánh. Nghe mãi nên tôi nhập tâm lắm bài kỳ hoặc mà nếu Nội nghe cháu gái u ơ thế nào cũng mắng. Chẳng hạn như bài ông Tây đen nằm trong cái bồ... nhưng mà thôi không dám kể tiếp đâu.
Lúc tôi năm tuổi, theo gia đình vào Nam, mấy tháng đầu tạm cư trong một ngôi trường sau này tôi mới biết là trường Trương Minh Ký, cũng là tên một nhà văn miền Nam như trường tôi học những năm đầu tiên ở Miền Nam. Mẹ dặn không nên bước ra khỏi cổng, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng ren rén theo một người lớn nào đó ra ngoài ngắm nghía mấy chiếc tàu điện chạy qua mà trên đầu nẹt lửa thật đáng ngạc nhiên.
Không nhớ gì nhiều về thời gian ở đây ngoài việc mẹ bảo chăm sóc hai cây cà chua bỗng nhiên mọc dại, trổ trái xum xuê cạnh nơi gia đình tôi dùng làm sàn nước. Hằng ngày tôi ra ngắm hai cây cà của mình, sờ nắn để thấy từng trái lớn lên theo thời gian. Và rồi tới lúc mọi người phải dọn đi, trả trường lại cho học sinh. Tôi thắc mắc không biết phải làm sao với hai cây cà. Mẹ bảo cứ để vậy, có thể ai đấy sẽ hưởng những quả kia... Ngày rời khỏi sân trường tôi khóc hết nước mắt khi những tên con trai lém lỉnh đã nhổ phăng cả hai, vất lăn lóc và dẫm nát những quả tròn mịn, bóng nhẩy mới lớn bằng ngón chân mà tôi từng nâng niu.
Nhà mới chúng tôi ở khu Tân Định, trên đường Paul Blanchy, tôi học Tiểu học ở trường Huỳnh Tịnh Của, chị Ngoạn Thư học tiếp trường Trưng Vương.
Năm tôi học lớp Nhất thì chị Thư cho theo các chị đi bán báo Xuân ở mấy trường con giai. Các bà ý ngại nên cần người theo cho đỡ sợ.
Lần đấy, năm 1959, kể cả tôi là năm người, chúng tôi đi bán ở trường Chu Văn An. Chẳng nhớ trường tọa lạc nơi nào, các bà ấy bảo đi đâu thì mình đi đấy. Vào một lớp nọ, hình như là Đệ Nhất B6, chị Ngoạn Thư lí nhí xin phép giáo sư cho các em bán báo. Thầy Ngà, sau nầy tôi mới biết tên thầy, đặt viên phấn lên bàn, lui ngồi vào ghế, nhìn chúng tôi. Các chị quíu chân. Tôi rất tự nhiên, khuân cả hai chồng báo to kềnh vào. Có anh kia đứng lên xin phép thầy cho phụ với các cô. Được phép thầy và không đợi chúng tôi đồng ý, anh đem phát cho mỗi người một quyển nói là các bạn xem trong năm phút, thấy thích thì giả tiền, không thích thì giả báo lại. Lần đấy chúng tôi bán quá hơn mình mong đợi nhiều. Lớp ấy tiêu thụ bằng cả ba bốn lớp cộng lại.
Bán xong, khi thấy bọn nữ sinh chúng tôi phải khuân vác nặng xuống cầu thang có anh kia xin xung phong ra giúp. Khi đi gần tôi anh ấy nói, giọng Nam:
Nữ sinh Trưng Vương sao bé bằng cái kẹo thế này?
Các bà ý quay lại ngó tôi cười trêu. Tôi đáp tự nhiên:
Em chưa phải là nữ sinh Trưng Vương. Em là học sinh trường Tiểu học Huỳnh Tịnh Của, Tân Định.
Chị Ngoạn Thư đi cạnh anh nhanh nhẩu khi nãy. Sau này tôi mới biết anh tên Cần, Lê Mộng Cần. Anh chị quen nhau từ đấy. Những lần đầu tiên đến nhà chúng tôi, anh Cần thường đi với anh Sảnh, người đã nói tôi bé như cái kẹo. Thân thiết tôi xem hai anh như người thân trong gia đình. Tiếc là anh Cần năm sau phải đi du học Nhật Bản, bỏ chị Ngoạn Thư tôi lại nhà chúi đầu vào sách vở với nỗi buồn thâm quần hốc mắt sâu.
3. Khói thuốc cả.
Tôi ra trường được bổ nhậm về tỉnh ba năm sau mới được chuyển về Sàigòn. Trường lớn, nổi tiếng học sinh giỏi và ngoan. Dạy môn Triết dầu không thích vì phải soạn bài thật cẩn thận. Năm nọ, kỳ thi Tú Tài 2, khóa 1, lớp tôi chỉ có một cậu rớt phải thi lại khóa 2. Vài trò được phép du học cùng nhau tổ chức một tối liên hoan có ăn uống và khiêu vũ. Được mời, tôi từ chối nhiều lần nhưng các em khẫn khoản quá nói rằng Thầy phải tới cho các em vui, thầy trò mình biết bao giờ mới được gặp lại. Phải nhận rằng em ấy nói hay và tha thiết...
Tiệc thiệt tưng bừng, vui nhộn, sang trọng hơn tôi tưởng. Người tham dự toàn là học sinh nam nữ trang lứa nhưng sành điệu và chững chạc khác với hình ảnh của các em lúc còn đi học chỉ mới cách nay chưa đầy một tháng.
Lúc bắt đầu màn khiêu vũ, tôi bị bắt buộc phải nhảy một bản slow khai mạc. Các em dẫn đến cho tôi một cô thật đẹp, trong ánh sáng lờ mờ tôi có cảm tưởng là cô ta quen quen. Mùi nước hoa thơm ngát, giọng Bắc ngọt ngào, cô ôm tôi thân thiện và xưng em kêu tôi bằng thày. Cô nói mình học Trưng Vương, mới đỗ Tú Tài 1, ban C. Cô nói chuyện có duyên, từ chuyện nầy dẫn sang chuyện kia, rằng ngày xưa có người nói mình học Trưng Vương sao mà bé như cái kẹo. Tôi cười vui, bớt đi phần nào bỡ ngỡ khi khiêu vũ trước mắt bao nhiêu học trò.
Cô nói thày dạy trường Pétrus Ký mà thày có biết ở Sàgòn có một trường cũng tên có chữ Ký không. Tôi nói lúc nhỏ tôi học ở đó, còn lạ gì. Cô nói em có kỷ niệm ở đấy vì ngày mới di cư vào Nam gia đình tạm trú trong trường.
Tôi nhớ lại lúc mình đi thăm trường cũ bảy tám năm về trước. Tôi hát nho nhỏ: Ông Tây đen nằm trong cái bồ...rồi ngừng lại vì mắc cở. Ai đời làm giáo sư, đang khiêu vũ với một cô đẹp mà hát bậy. Tôi chuyển sang : Dưới trời kỳ quái sao cùng/ Chân đâu còn vết ở trong đá này.... Tôi bàng hoàng khi thấy cả hai chúng tôi cùng ngâm nga hết cả hai bài. Tới đây thì tôi tịt, cô bé còn hát thêm vài ba bài nữa rồi hỏi sao thầy biết mấy bài ấy. Tôi nói tình cờ thôi. Lúc xưa trước khi nhập trường Trung học, tôi đi thăm trường cũ, được nghe trẻ con hát. Cô ta nói có thể là trong số trẻ đấy có em.
Nhạc khiêu vũ chấm dứt bài, chuyển sang Tango. Cô ta vẫn ôm tôi sát hơn, nói nhỏ:
Ta tiếp tục bài này. Rồi ngước lên nhìn tôi: Anh không nhận ra em sao? Bé Ngoạn Nguyệt đây. Té ra cô ta đã nhận ra tôi ngay từ đầu nhưng không nói ra. Mới có chừng ấy năm mà cái kẹo ngày xưa đã thành thiếu nữ đương độ. Nhớ tới câu nói của thằng Thôn ngày trước, tôi bạo dạn:
Ngoạn Nguyệt dùng nước hoa gì mà hương thơm lạ? Soir de Paris?
Không, Rêve d’or.
Giá đừng dùng nước hoa thì hơn, vẫn.... sang trọng như thường. Tôi dùng từ sang trọng vì không dám dùng từ đang có trong trí.
Vòng tay đang ôm ngang hông tôi xiết mạnh. Tôi bạo dạng hơn vì hoàn cảnh và bóng tối:
Ngoạn Nguyệt cho anh hôn lên tóc nha.
Là tình anh em như anh Cần ngày trước hay khác?
Khác.
Anh có người yêu chưa?
Đã, nhưng sẽ tính lại sau này.
Thế thì không được.
Cho tới khi bản nhạc dứt chúng tôi về bàn, không nói gì thêm. Từ đấy Ngoạn Nguyệt sang ngồi với tôi luôn, chắc cô bé có ý muốn nói gì đấy. Cô nói sang đàng từ chuyện nầy sang chuyện kia như là đương bối rối...
...Em học ở Trưng Vương sáu năm rồi, Giáo sư em thương kính nhất là bà Hồng Điệp, giám thị thì thích bà Từ Nguyên... Trường cho em tinh thần học hỏi nghiêm túc, tình thương bè bạn, nghĩa thầy trò. Xin lỗi, đáng lý em gọi anh bằng thày nhưng vì chúng ta đã là anh em trước cho nên em mạn phép xưng hô như thế.
Sở dĩ em nói không là vì em học được rằng ở đời phải biết việc gì quan trọng việc gì không. Nói chung tất cả mọi chuyện rồi sẽ tan biến như khói thuốc. Biến thành không. Nhưng cùng lúc đó mọi chuyện cũng quan trọng, nó làm cho con người mình trở nên có giá trị hay tồi tệ....
Tôi lấy hết can đảm đặt tay mình lên trên bàn tay đẹp của Ngoạn Nguyệt như cho em một điểm mười.
Ngoạn Nguyệt đọc khẽ cho tôi bài thơ em nói là mới học thuộc khi xem Giai Phẩm Xuân của trường Trung Học Hoàng Diệu năm nay. Em nói:
Bài thơ buồn quá. Em coi mà như thấy vận vào đời thanh niên thiếu nữ ngày nay.
Trong tiếng nhạc nhẹ, lẫn với âm thanh ồn ào của buổi vui chơi đông người, tôi nuốt từng lời giọng đọc buồn của em. Như có tiếng nấc nghẹn ngào lạc lõng:
Khi ánh trăng xếp hàng nằm ngủ.
Tôi hỏi rằng mình đứng đợi ai đây,
Trời vào Thu, trời lớp lớp mưa bay,
Tôi 16 tôi vào đời con gái,
16 tuổi yêu không ngần ngại,
Người yêu tôi anh thiếu úy không quân.
Ngoạn Nguyệt cần ly rượu chát của tôi san nửa qua cái ly không trên bàn, đọc tiếp:
.......Tôi đứng nơi nầy trông ngóng trời Tây,
Để thầm nhủ người yêu tôi ở đó…
…Có người yêu thời chiến tranh thật khổ.
Lúc gần nhau ngắn ngủi làm sao,
Lúc giã từ cũng không kịp hôn nhau,’
tôi đã khóc sợ người yêu vào lịch sử,’
…Trời có buồn đâu sao trời ủ r,
Mây có buồn đâu sao mây rũ khăn tang,
Trời vào thu trời tiếc thương chàng,
Tôi 19 tôi vào đời quả phụ..
Tôi nói mà như nói với mình:
Thời chiến mọi người đều có hay sẽ có những đau buồn. Người đi đối diện với chết chóc, người ở nhà chìm ngập trong lo âu hay chờ đợi cái tang nát ruột xé gan.
Lơ đãng nhìn những hạt khói được rọi sáng thành những làn khói mỏng khi ánh đèn lướt qua, Ngoạn Nguyệt nói trong tiếng thở dài:
Khói thuốc cả.
4. Thơ buồn không địa chỉ.
Hai năm sau một chiều gần lễ Noel, một bức thư màu xám được ai đó đem tới trường cho tôi, không địa chỉ người gởi nhưng nhìn cách trình bầy và chữ viết ngoài phong bì tôi run run linh cảm có tin gì đó không lành từ Ngoạn Nguyệt. Thơ rất đặc biệt khiến nửa thế kỷ qua như vẫn còn hiện hiện trước mắt:
Sàigòn, ngày buồn không nước mắt 1970
Anh S.
‘Tôi mười chín tôi vào đời quả phụ.’
Khói thuốc cả.
Em: NN.
Từ đó đến nay tôi không được tin tức gì của Ngoạn Nguyệt. Biết mình vô lý, nhưng mỗi lần nhớ về thời trai trẻ tôi đều thầm van vái người em gái Trưng Vương thông minh và dễ thương đó không có thân phận của khói thuốc dầu cuộc đời đã vốn dĩ phù du mà lại luôn tác quái lên mọi người. Chẳng chừa một ai. Van vái chỉ vì thương cảm và sự yếu lòng. Khói thuốc nào rồi chẳng biến tiêu? Câu than của em đã ảnh hưởng nhiều trên hành trạng của tôi cũng như đã hướng dẫn nhiều phản ứng trước cuộc đời. Em có biết không Ngoạn Nguyệt?
Khởi thảo: Victorville, CA, 15 tháng 11, 2016
Hoàn tất: Alfortville, ngoại ô Paris, 02 tháng 12, 2016
Màu thời gian
Sau thời gian địa ngục đằng đẵng, tôi trở về với cái xách tay rách và tờ giấy trả về nguyên quán in trên giấy đen cáu bẩn. Tấm giấy quỷ quái nhiều người mòn mỏi đợi chờ đến biến tánh và biến thể. Bầu trời xanh trong vắt như pha lê trên đầu. Chim rừng líu lo ca hát tiễn đưa người vừa trả xong món nợ lạ lùng nhất thời đại. Món nợ chồng lên đầu dân tộc bất ngờ như trận mưa xối xả tưới ào xuống thành phố không một dấu hiệu báo trước. Mấy năm vô lý trong trại mỗi ngày qua như một thế kỷ đè nặng lên tâm hồn khô cằn vì căm hờn tủi nhục rồi cũng qua. Tôi thở dài. Thoát nợ. Trong sự rộn rã của một con chim chùn chân đã lâu khi thấy bàn tay nào đó sắp mở cửa lồng, tôi đè nén sự xúc động bằng cách chậm rãi xếp những đồ nhật dụng đã tẩn mẩn tỉ mỉ chế tạo trong những ngày nghỉ ngơi suốt khoảng thời gian đày ải, mắt cố tìm một vài người bạn xấu số hơn để nói lời từ biệt hoặc giả lén nhận chuyển giùm tin tức cho gia đình. Họ đã đi lao động hết trơn...Tôi muốn chửi thề. Tụi nầy mánh thiệt. Cho về mà không báo trước để chuẩn bị, giấu như mèo giấu cứt. Thế là có lẽ tôi sẽ rời nơi nầy, nơi chôn một phần tuổi thanh xuân của mình - mà không gặp được những người bạn đã cùng mình chia lao xẻ khổ.
Buổi sáng đó lúc anh em sửa soạn đi rừng lao động tôi được gọi lên văn phòng quản giáo trình diện. Mặt hắn lạnh như phiến đá phủ đày sương trong góc rừng mỗi sáng tôi đi qua thèm được dừng chân trên đó. Cặp môi dầy, đen, chúm lại như cố đậy bớt đi phần thịt thừa thãi đã từ lâu tạo một sự bất cân xứng trên gương mặt. Hàm răng hô tuy thường được che một cách vụng về ít khi có dịp phô bày nhưng cũng nói lên sự có mặt bắng cái mỏ nhọn vẩu. Ðôi mắt vàng khè vì bệnh sốt rét qua biến chứng gan nhìn tôi như cặp mắt đỏ tròng vàng của một con vật trong thần thoại Ðông Phương. Hắn không nhìn lên mặc dầu biết tôi đã đứng trước bàn từ lâu, chăm chú, giơ qua giơ lại chồng hồ sơ nhầu nát cáu bẩn mất bìa được cột lại bằng những sợi dây chuối khô. Trò quan liêu làm dáng đó thường được lập lại bằng cách nầy hay cách khác, chúng tôi đã quá quen. Thời gian ở đây có nghĩa lý gì đâu mà bực mình? Tất cả bọn tôi đều tự thức rằng trong hoàn cảnh nầy càng cố thu lại cái tôi càng tốt. Dửng dưng trước mọi trò lố lăng, đa cuội của chúng. Vô ngã - vô chấp. Cứ coi như mình từ một hành tinh nào không may lạc xuống. Vấn đề là bảo vệ mạng sống mà không hèn. Không cần phải làm người hùng. Tôi lơ đãng nhìn bức ảnh lão già treo trên đầu hắn. Lão già phương phi no tròn với hàm râu có vẻ tiên phong đạo cốt nhưng đôi mắt toát ra tính chất tinh quái lọc lừa. Ðôi mắt của một loài chồn loài cú. Ðôi mắt nói nhiều điều ngược lại với khuôn mặt và chòm râu. Cũng bức hình đó, có lần một đứa bạn ngắm nghía rồi lật ngược lại chỉ cho anh em hình của một con quỷ mặt xanh nanh vàng mắt đỏ. Hắn ngồi dưới bức hình đó, nét tự mãn ứa ra trong cử chỉ khệnh khạng của một người thuộc vào bộ tộc cai trị. Mâu thuẫn. Người già mập mạp phương phi; trung niên như hắn, trẻ như tôi lại gầy còm, ốm yếu, bệnh hoạn. Tôi hiểu tại sao có sự kiện đó, tôi tức giận, nhưng tôi biết dầu cho hắn sống hết đời hắn, chết, đầu thai, chết, mười lần như vậy nữa - nếu chế độ phi nhân vô lý nầy có thể tồn tại đến chừng đó, hắn cũng không thể có sự tức giận đó. Ðây là điều cấm kỵ của bộ tộc mà hắn được uốn nắn để không bao giờ suy nghĩ đến.
Có lẽ thấy chừng tạm đủ hắn từ từ ngước mặt lên chiếu thẳng vào mắt tôi; lạnh lẽo dọa nạt. Tôi không cảm giác gì trước tia mắt uống máu chuyên nghiệp đó, từ lâu tôi luyện tập để dửng dưng đón nhận những bất trắc chợt đến. Trời khi mưa khi nắng. Người lúc vui lúc buồn. Huống chi bọn hắn. Một bọn người kém cỏi, cô độc, luôn luôn cố vùng vẫy ra khỏi yếu tính của mình bắng cách nạt nộ, hành hạ tụi tôi. Vậy tại sao lại sợ, lại lo? Sợ, lo càng làm cho chúng thích thú, càng hành hạ thêm. Tôi nói với mình ‘Bình tĩnh! Bình tĩnh...!’
Hắn nói, lời nói khó nhọc mới lòn lỏi được qua kẽ răng :
‘Chắc hẳn anh đã biết anh được cách mạng giáo dục bao lâu rồi chứ?’
Câu hỏi coi tầm thường nhưng thật quan trọng. Tôi lục lọi trong trí để xem gần đây mình có làm gì sai trái đối với trại và bọn hắn không. Tuyệt nhiên không. Dĩ nhiên là cũng muốn lắm. Muốn giết tụi hắn. Muốn trốn về. Muốn nói rằng tụi bây cướp sức lao động của bọn tao, cố nhét vào óc chúng tao những điều láo khoét. Nhưng hoàn cảnh chưa chín mùi, chưa muốn vọng động nên chưa làm thôi. Tôi trả lời phân hai:
‘Thưa anh - tôi thù tiếng nầy nhất nhưng nó thuộc về kỷ luật trại nên đành phải có - vì mải mê với cuộc sống ở đây nên tôi không chú ý lắm thời gian, dường như năm sáu năm gì đó.’
Câu nói chính tôi còn thấy trơ trẽn. Hắn trái lại gật gù:
‘Ừ! Cũng không sai lắm. Sáu năm, tám tháng, mười bốn ngày.’ Chừng đó cũng đủ để một cái dĩa cũ nhừa nhựa bên tai tôi độ hơn nửa giờ, cũng bao nhiêu đó, cũng một điệp khúc nghe câu trước đoán được mười câu kế tiếp. Một điệp khúc nhàm chán, thừa mứa. Mắt hắn sáng và linh động. Lắm lúc hắn ngưng nói, ngừng hẳn thật lâu để bắt mạch cường độ thẩm thấu những lời cơm gạo đó vào trí óc tôi. Hắn bình thường, thiếu linh động, chậm hiểu trong các vấn đề hằng ngày, nhất là những lời đối thoại xỏ ngọt, chanh chua, lúc này trở nên tinh anh sắc sảo. Hắn nói say mê, nồng nhiệt như người tình si thuyết phục người yêu trong tuổi dậy thì. Tôi sợ cái nhìn như thấu ruột gan người trước mặt đó. Nếu hắn biết mình không muốn nghe thì mệt. Tôi trấn tĩnh mình ngay. Sợ gì! Mình đã đóng kịch gần bảy năm qua. Vở tuồng quá nằm lòng. Tôi nhìn thẳng vào mặt hắn gật gù. Thỉnh thoảng tỏ vẻ suy nghĩ. Tôi thường sống khoảnh khắc nầy hoàn toàn bằng mộng du và phân ý thức ra làm hai, một đối phó với hắn, một suy nghĩ cho mình. Tôi thấy mình lái xe Jeep trở về buổi trưa nắng cháy. Rồi mẹ tôi cười lo lắng cho sức khỏe thằng con trai chưa vợ. Rồi nụ cười thèn thẹn nửa dửng dưng nửa tinh quái của nàng mỗi khi tôi bước xuống xe. Hôm nay nàng ôm chầm lấy tôi, rạng rõ như ứng viên kỳ thi hoa hậu ở rạp Rex độ nào. Tôi giơ hai tay lên trời, hình chữ V, mỉm cười như nói ‘Cuối cùng rồi anh cũng về được với em.’
Cơn mộng du chấm dứt đột nhiên với câu nói của hắn. ‘Hôm nay cách mạng cho anh về.’
Bao nhiêu đó đủ rồi. Tôi rộng lượng tiếp tục chịu đựng hơn hai giờ nữa cái dĩa hát rè rè đó. ‘Bình thản, bình thản’, tôi nói với tôi. ‘Mọi việc sẽ tiến hành, như vậy. Vui buồn không thay đổi khá hơn, chỉ có thể trở thành tệ hơn thôi.’
Tôi được phép từ giã hắn để về sửa soạn vật dụng khi hắn đổi nét mặt, bọt mồm trắng xóa hai bên mép. Tròng mắt vàng ố không còn linh động nữa. Ðã tới giờ cơm. Bây giờ là lúc tôi trở về với tôi và với cuộc đời trước mặt. Bảy năm nay bay qua như một giấc mộng quái ác rút ngắn cuộc đời bằng cách nối hai thời điểm trước và sau khi ở trại. Như một cuốn phim hai hồi, bắt đầu hồi thứ nhì bằng chữ ‘...bảy năm sau’ và người kép chánh được một tài tử khác già hơn thủ vai thế. Tôi sẽ trở về đón nhận những gì cuộc đời dành sẵn ở ngoài....
Giờ đây sau một tuần chờ đợi ở sân ga hôi hám, chật chội và mấy ngày ngủ gà ngủ gật trên toa xe lửa đầy ắp, dơ bẩn bao trùm những bất an, tôi đã đứng trước căn nhà nàng. Mẹ tôi hẳn sẽ mừng lắm khi thấy con trở về, nhưng tình yêu đã hướng dẫn bước chân tôi. Tôi yêu nàng và người con gái đó chắc cũng có tình cảm tương tợ đáp ứng. Tôi thường đến nhà nàng mượn cớ nầy nọ để trao đổi những câu không đâu về mưa nắng. Chưa đủ can đảm để đi xa hơn. Chiến tranh và những bất trắc của cuộc chơi thời chiến đã chận đứng lời tỏ tình. Bây giờ thì có gì ngăn chặn được đâu? Cuộc đời bắt đầu ngay chính giây phút nầy. Tôi trình diện ngay từ phút trở về để tùy nàng quyết định. Chắc cũng không gì lạ đâu. Cũng là Anh....Em... Rồi ôm nhau, rồi những giọt nước mắt, rồi cùng nhau vững tâm gầy dựng tương lai. Tình yêu sẽ vô thể hóa tất cả huống hồ gì sự gầy gò ốm yếu của một người mới ra tù. Tội nghiệp nàng. Chắc nàng bây giờ khô héo. Bảy năm trời còn gì? Gái ba mươi tuổi như chình mắm nêm. Thời gian có thể đã bốc nước khô cằn sự tươi mát của người con gái đôi mươi khổ công đợi chờ người yêu trở về. Nhưng rồi tình yêu sẽ tưới mát thân thể héo úa đó. Nàng sẽ trẻ ra, dòn tan, mũm mĩm trở lại. Tình yêu sẽ ngăn chặn bước tiến của thời gian, cũng như tình yêu đã nuôi tôi sống sót qua giai đoạn hồng hoang của đời mình.
Căn nhà vẫn vậy, tuy khung cảnh hơi khác. Mấy chậu kiểng xác xơ khô héo. Góc trái nơi xưa kia là vườn hồng, cẩm hồng, thỉnh thoảng nở rộ những đóa đỏ thẩm mịn như nhung, giờ đang uốn éo theo gió mấy hàng mì èo uột. Một đứa con gái nhỏ độ hai tuổi, mắt đen nháy tròn xoe, đang vọc cát dưới mái hiên ngó tôi sợ hãi rồi vụt chạy vào nhà trong. Tôi thẫn thờ nhìn chung quanh. Cảnh cũ khác chăng ở những biểu tượng của sự sa sút, sơn loang lổ tróc, hàng cột hiên mối mọt, cái lu bể lăn lóc, những gốc cây điêu tàn. Như tôi vẫn là tôi ngày trước nhưng tàn tạ, uể oải. Thế thôi. Trong khoảng không gian im lặng cảm giác hân hoan của thời gian cũ trước học tập và sự thơ thới của những lần đón nhận cái cười rạng rỡ của nàng mười ngày trước chồng chất làm một bên giác thức tôi. Một lâng lâng mơ hồ của sự pha trộn quá khứ hiện tại và giấc mơ khiến tôi như một người từ cõi tiên bồng nào đó bước một chân vào cõi trần. Cõi của tôi, nàng và của tương lai tuổi hồng trước mặt. Bóng người đàn bà dắt đứa nhỏ trở ra, tay che bóng nắng, ngỡ ngàng. Tôi như muốn đứng tim. Tuy đã dự trù sẵn một thái độ đối với tác dụng quái ác của thời gian, tôi vẫn bàng hoàng trước thực tế. Nàng giống như căn nhà trước mặt, vẫn còn đó nhưng đầy vết tích biểu hiện một sự đi xuống thê thảm.
Ðứa nhỏ, thấy người lạ, tiến tới ôm quíu chân thiếu phụ. Nàng cúi xuống thân mật ‘Con của mẹ ngoan nào! Ông cười cho!’ Ðứa bé được dỗ dạn dỉ hơn nhưng vẫn không thôi lấm lét nhìn tôi. Nàng ngó lên về phía tôi, tiếng đục hơn, nghiêm trang và chững chạc:
‘Thưa ông hỏi ai?’
‘Tôi ở trại Quảng Ninh mới được thả về... Anh Nguyễn Văn X. nhờ tôi đến đây báo tin anh ấy...’ Tôi nói dối trơn tru và ngạc nhiên tại sao mình đặt ra điều nầy!’
‘Mời ông vào nhà... X. là người yêu tôi dạo trước. Nhưng mà... Biết bao đổi thay...’ Có tiếng sụt sùi trước mặt và cái thắt mạnh ở tim tôi...
Tôi từ giã căn nhà đó không biết vui hay buồn về chuyện mất người yêu. Yên nơi chốn, ít ra nàng cũng sẽ không khổ vì vướng vào một gánh nợ có quá nhiều bất trắc. Nhưng tôi, những điều xây đắp trước khi tới đây bị cuốn tan theo nước lũ. Tình yêu giúp tôi sống sót qua những cường bạo của nhà giam, nhưng cũng chính tình yêu sẽ đem tôi vào sự trống vắng những tháng ngày sắp tới. Tôi đã để cho nàng yên lòng rằng người trước mặt không từng là người yêu của nàng. Lỗi là lỗi với một người nào đó, em sẽ quỳ trước mặt anh ấy để chịu lỗi, nhưng không thể chịu đựng ngày này qua ngày khác một sự nhớ nhung vô vọng. ‘Lấy chồng ngoài những lý do thực tế của cuộc sống còn có điểm quan trọng: Có điều kiện để bỏ qua một bên sự nhớ nhung quái quắc gậm nhấm hình hài mỗi ngày.’ Tôi hài lòng với lời biện hộ đó. Tôi xót xa trước những giọt nước mắt của nàng. Quân tử khả dĩ kỳ phương. Ðem chuyện có lý mà dối người trí thức thì dối được, như thầy Tử Sản trước đây có dạy. Tôi, tôi đi xa hơn, tôi cho điều nàng nói là hoàn toàn thật. Tôi đã chẳng từng mong mỏi ngày đêm là nàng quên tôi để gầy dựng cuộc đời sao?
Tôi bước những bước bâng quơ trên đường phố thưa thớt không một chút giận hờn. Tôi đã đổi thay đến độ nàng không còn nhận ra thì tại sao tôi lại bắt nàng chung tình với một người nay đã trở thành trừu tượng?
Cánh cửa thời gian đã nhốt tôi lại, đã tàn ác chém chặt gọt đẽo hình hài tôi, đã quăng ra đời một xác héo úa khô cằn, khác hẳn con người sống động tươi mát nó đã ngoạm lúc trước. Nhiệm vụ hoàn hảo đến nỗi chính người thân thiết của tôi cũng không nhận ra. Bi hài ở chỗ đó. Cầu mong màu thời gian xanh xanh mãi mãi với nàng. Riêng tôi màu tím ngắc chắc sẽ theo đuổi lâu dài sau mấy năm đọa đày từ ấy. Bài thơ tình của một tác giả ưa thích nhảy vào trong trong tôi, biến thể một cách đáng thương và phù hợp.
Tôi gục mặt
Trên mảnh đất quê hương.
Một năm
Hai năm
Sáu năm
Lúc ngẩng đầu lên
Màu thời gian tím ngắt chung quanh.
Trời chiều, trên đầu những cụm mây xanh đậm tê tái phủ che thành phố vắng.
(San Antonio, TX, 1981 Hơn một năm sau ngày tới Mỹ.)
Ngôi chùa trong tâm tưởng.
Bửu Ốc Tiêu vừa đi vừa đá trái cầu thằng Đạt mới cho. Cầu vừa chưn ghê, chỉ có ba miếng vảy cá còn bao nhiêu là da cắt tròn vanh thiệt khéo, da thiệt, đá êm mà đầm vô cùng, không bao giờ xẹt bậy, mới thử có mấy cái mà thằng Bửu đã cảm thấy điều khiển cầu nầy dễ dàng, đá mộ ngàn cái coi như dễ ẹt. Bốn cái lông gà thuộc loại đẹp, mới, không biết thằng Đạt kiếm ở đâu mà đầy đủ lông tơ, chưa thấy chỗ nào xước ngược. Đá đâu độ chừng năm chục cái, và di chuyển khoảng đường chừng bằng một hơi u mọi nó đá hất trái cầu lên vai, lấy vai huých xẹt ngang trước mặt thằng Đạt, tuyên bố dõng dạc:
‘Tao chịu cầu nầy quá, từ bây giờ trở đi thằng Đạt, thằng Oanh, thằng Nhàn được quyền chép Toán của tao, chỉ cần tụi bây chép khác khác một chút thì được, ổng không thể nào biết đâu. Bữa nào có Toán cần nộp bài tụi bây nhớ tới trường sớm, tao đưa bài và chỉ mánh lới cho chép…’
Cả bọn hoan hô nó còn hơn anh hùng thắng trận trở về sau một thời gian dài gian khổ chống ngoại xâm.
Thằng Bửu Ốc Tiêu tiếp tục đá tiếp, giữ trái cầu trên không cho đến khi tới trước nhà mình mới ngừng lại chụp trái bỏ gọn vô túi, mỉm cười tự thưởng.
Thằng Đạt nảy giờ vẫn lẻo đẻo theo sau, nói nhỏ với Bửu:
‘Tao cho mầy hai chục mai ăn hủ tíu, mỗi tháng cũng đều có như vậy, nhưng mà từ nay mầy không được cho thằng nào coi bài nữa ngoài mấy đứa tụi tao. Ai cũng làm bài được thì còn ai học dỡ, phải có đứa đội sổ mới được, tụi tao đội nhiều rồi, bây giờ phải thế vai.’
Thằng Bửu nhớ tới thằng Phan, ông già thằng nầy tháng trước năn nỉ nó cắt nghĩa bài giùm giúp vì nhà nghèo thằng con nghỉ học nhiều nên bị mất căn bản. Nếu nó học dỡ không lên lớp được năm nay thì bị đuổi phải ở nhà thôi. ‘Cháu mà giúp nhà bác thì như là cháu cất được năm bảy kiễng chùa…’ Ông nói giọng tha thiết, mắt rưng rưng.
Thằng Đạt còn nhấn mạnh: ‘Nếu mầy giúp nó thì mỗi tháng không có hai chục, lúc tụi tao đi chơi không cho mầy theo, tụi tao ăn gì mới cho mầy ké chút đỉnh thôi…’
Thằng Bửu đắn đo một chút rồi gật đầu. Không giúp thằng nầy thì giúp thằng khác, có chuyện gì đâu. Mình nhà nghèo cần tiền. Nó chào thằng Đạt, một tay mân mê trái cầu một tay cho vào túi cảm nhận xấp tiền, vừa bước vô nhà vừa hút gió một cách vô tư.
Tôi có người bác ruột, bác Ba, tu ở cái cốc trong khuôn viên nhà vốn là một khu vườn dừa rộng rãi. Hằng ngày tôi được đánh thức dậy bằng tiếng mõ lốc cốc, tiếng kệ kinh ê a của sư bác khi trời mới vừa hừng sáng. Má tôi nói sư bác trước dạy học cũng nổi tiếng trong vùng, bỗng nhiên từ nhiệm về đây dựng cốc tu hành, chắc có tâm sự gì đó. Má còn nói kệ kinh công phu sáng của sư ít nhứt cũng đánh thức người chung quanh dậy đúng giờ, đó là chưa kể gương kiên nhẫn của sư là một bài học quí giá nên theo. Buổi chiều, trời mới chạng vạng là sư đã có thời kinh tối, chăm chỉ, không ngày nào mệt mõi. Cái cốc của sư bác là nơi tôi thăm viếng khi thiếu lũ bạn cùng lứa để rong chơi ngoài đồng hay tắm sông, bẻ mía, lặt dừa, tát đìa, mò cá... Lần nào sư bác cũng cho trái cây cam quít, chuối, đu đủ… chín rục có những dấu tích đổi màu do chưng hơi lâu trên bàn Phật. Nhiều khi qua cốc lúc sư đương thời kinh, tôi tự nhiên ngồi ở một mép chiếu để lắng nghe cái âm thanh huyền bí có sức ru ngủ mình với tất cả sự thích thú và lòng kiên nhẫn đợi chờ được sư bác vò đầu nói vài ba câu chuyện đời rồi cho ê hề bánh trái.
Lần nào cũng vậy trong khi chờ đợi, tôi tò mò nhìn mấy tấm tứ thời treo trên vách lá vẽ hình ông Phật ngồi nhắm mắt tham thiền hay ngắm nghía hình quỹ dữ mặt xanh nanh vàng, đầu u nần năm bảy cục đang lấy chỉa ba đâm người hay kéo lưởi cắt họng thiên hạ. Lúc rảnh rang sư bác thường cắt nghĩa về những bức tứ bình đó và thường nhấn mạnh bây giờ là đời mạt pháp quỷ sứ ma vương tràn đầy ngoài đường, đức Phật Bồ Tát cũng xuống thế độ nhơn nhưng ít thành công hơn thời Thượng Nguơn vì con người bây giờ làm điều xấu quá nhiều.
Tôi thắc mắc là sao ngoài đường không bao giờ thấy quỉ sứ, ma vương gì hết. Sư bác cười, vò đầu tôi hỏi: ‘Con có bao giờ thấy thằng ăn trộm, thằng đâm thuê giết mướn không? Nó trộm đồ mà người ta đổ biết bao nhiêu công khó mới có, nó nhận tiền người nầy để chém giết người kia… nhưng mặt mày nó ngoài đời cũng bình thường như chúng ta mà thôi. Đó là quỷ sứ nhập thân hay là ma vương hiện hình đó con. Thợ vẽ vẽ mặt mày ma vương có nanh vút là để cho dễ thấy dễ biết mà thôi, chớ thật sự quỷ sứ ma vương không khác gì người thường hết đâu con. Vậy nó mới sống chung lộn với người đời, mới hại người ta được.’
‘Còn Phật thì sao sư bác? Phật có hào quang trên đầu. Phật chỉ ngồi tham thiền thôi phải không sư bác?.
‘Đó là Phật ngày xưa lâu lắm rồi. Thời mạt pháp nầy Phật xuống thế gian ở mọi nơi, lúc nào chung quanh ta cũng có Phật, cũng có Bồ Tát giúp ta tranh đấu chống ma vương. Chỉ tại lòng ta không đủ tín thành để chấp nhận đó là Bồ Tát mà thôi.’
‘Sư bác nói khó quá con không hiểu.’
‘Nầy nhe! Phật không xuống thế bằng một nhân thân, mà xuống thế thành muôn vạn người vô hình hay hữu hình ở kế bên mỗi người chúng ta. Phật trợ duyên từng người để biến người đó thành Bồ Tát trong một thời khoản ngắn. Nếu người nào thành Bồ Tát nhiều lần, thành Bồ Tát lâu dài thì sau nầy khi chết sẽ được siêu độ. Nhưng bên cạnh người đó cũng có quỷ sứ, ma vương hiện diện. Nó xúi giục làm bậy như trộm cắp, láo xược, ngoại tình, gian dối, ức hiếp để dành giựt ruộng vườn nhà cửa của kẻ cô thế… nếu người nào nghe theo chúng thì biến thành ma vương một thời gian. Biến thành ma vương nhiều lần thì khi chết sẽ bị đọa địa ngục đời đời chịu khổ hình dưới âm ty không thể đầu thai.’
Tôi vùng ôm mặt khóc lớn, nức nở:
‘Vậy con sẽ bị đọa địa ngục. Sư bác cứu con với. Con ăn cắp hết ba trái xoài của bà nội vú trong khạp gạo rồi đổ thừa cho thằng em con. Lần trước nảy chuối sứ cũng vậy. Con cũng lén cạy ống heo của đứa em gái nữa, mỗi ngày cạy lấy một chút, con cũng bẻ trộm mía của hàng xóm, con cũng ăn hiếp thằng Tửng nhà xóm trên vì nó nhỏ hơn con.’
Sư bác tôi từ tốn giải thích:
‘Những lúc làm điều xấu như vậy con đã biến thành ma vương thời gian đó. Nếu con biết mình 1àm xấu mà chừa đi, mà ăn năn làm lành trở lại thì ma vương không thể dụ dỗ con để làm nô lệ cho nó nữa. Lâu ngày nó chán bỏ đi kiếm người khác dễ dụ dỗ hơn. Làm điều tốt thì con đã hóa thân thành Bồ Tát lúc đó. Bồ Tát hay ma vương là những trạng thái ngắn hạn trong lòng mỗi con người, không phải là trạng thái hằng cữu. Lúc làm Bồ Tát thì người ta sung sướng thơ thới lòng, mặt mày sáng sủa rạng rỡ như có hào quang tỏa ra. Lúc làm ma vương thì lòng nóng như bị thiêu đốt, khó chịu, mặt mày đăm chiêu buồn lo. Đó là lửa dục thiêu đốt lòng, đó là những u nần mọc ngược vào trong tâm não, đâm vào phía bên trong của người con.’
Tôi lý sự trả treo:
‘Vậy thì con người đồng thời là Bồ Tát và ma vương?’
‘Đúng vậy! Khi hành động vì người khác, mình là Bồ Tát, khi hành động có hại cho người khác để lợi cho mình, ta là ma vương. Nói là nói đơn giản như vậy, chứ hành còn hạnh nữa. Hành vi Bồ Tát nhưng tâm hạnh ma vương thì cũng là ma vương thôi. Mà thôi! Con buồn ngủ rồi, ta sẽ nói chuyện hành và hạnh trong dịp khác.
Tôi buồn ngủ thiệt tình, mấy từ ngữ khó nuốt trôi như hóa thân, trạng thái ngắn hạn, trạng thái hằng cữu, lửa dục hào quang mà không thấy được, u nần mọc vào bên trong tâm não nhảy múa loạn xạ trong trí tôi…. Tôi cũng ngán ngẫm khi nghe đến các khái niệm hành và hạnh. Chúng không hấp dẫn bằng nãi chuối thâm kim, mấy trái quít và hai chén chè trên bàn Phật trước mặt đang cười cười mời gọi.
Sư bác tôi nhìn thấy ánh mắt ước muốn của cháu mình, nói trong nụ cười hiền từ:
‘Con đương bị ma vương dụ dỗ đó. Bây giờ còn nhỏ thì chẳng sao đâu, ma vương chỉ dụ được những việc xấu nhỏ, nhưng đừng để ma vương có dịp lớn lên trong tâm hồn mình. Quan trọng là phải chống lại những cám dỗ của ma vương.’
Sư bác tôi đứng dậy nhón chưn hạ dĩa trái cây xuống, hào phóng đưa cho đứa cháu trần tục cùa mình thiệt nhiều quà của Phật.
Chỉ đợi có vậy, tôi kéo banh vạt áo trước ra đựng, hai tay ôm chặt, chạy u ra tuốt mé mương ngoài rìa vườn nhà nơi thường có mấy thằng bạn trang lứa tụ tập trững giởn, phá phách…
‘Xuống xe qua bac bà con cô bác ơi!’ Người lơ xe vừa nhảy xuống, xe vẫn còn trờ bánh tới nhè nhẹ, đã ca bài ca xưa cũ. ‘ Chỉ có ông bà già là được ngồi lại trên xe, còn ai thanh niên thì xuống đi bộ qua bac nhe! Tới trước kia mà nhận giấy qua bac.’
Mọi người lục tục xuống xe, người lếch thếch đi tìm chỗ tiểu tiện, kẻ xăm xăm vô quán kiếm chút gì đó dằn bụng, giáo Bửu theo đám đông bước về phía trước, chỗ xét giấy, nơi đây thằng lơ xe đã đợi sẵn chìa cho khách của xe mình tấm giấy trả tiền qua bac. Giáo Bửu nhìn đoàn xe nhà binh rồi lắc đầu ngao ngán: ‘Điệu nầy hai ba giờ đồng hồ nữa biết xe mình nhúc nhích được chưa. Xe nhà binh ưu tiên mà đi hành quân dài sọc như thế nầy qua tới bao giờ xe dân sự mới được qua.’
Anh bước vô đám đông để nghe điệu ca vọng cổ mùi tận mạng do một nghệ nhân lỡ thời đương xuống giọng xề. Nghệ nhân cụt hết hai tay tới cùi chõ, chỉ còn lại lủng lẳng hai cánh trước. Anh ta mang trước ngực một cái lon sửa bò là chỗ đựng tiền do khách bộ hành mũi lòng thương hại bố thí cho. Cái micro được cột vô một cánh tay cụt, khi nghệ nhân cất giọng ca thì giơ lên, người cột đã canh vừa đủ tầm cho âm thanh có thể bắt được.
Giáo Bửu hờ hững nghe, cũng bâng quơ ngó người đàn bà già trước tuổi đi sau nghệ nhân, ôm cây đàn. Bỗng anh như nhảy nhổm lên hỏi lớn:
‘Phải mầy đó không Phan?’
‘Phải! Bửu còn nhìn tôi sao? Tưởng giả bộ quên tôi rồi!’
Giáo Bửu ứa nước mắt, hai tay choàng qua ôn bạn:
‘Hơn chục năm rồi mình không gặp nhau. Cuối năm học đó mình không bao giờ gặp lại bạn nữa.’
Người chung quanh tò mò nhìn sự tương phùng của hai người bạn. Người đàn bà của Phan lãnh đạm ngó bạn của chồng.
Giáo Bửu xăng xái mời hai người ghé vào quán gần đó…
Bên ly trà đá người nghệ nhân kể lại đời mình với một giọng thiệt bình thường nhưng Giáo Bửu nghe như kim đâm vô tim từng cái từng cái đau điếng hồn:
‘Tôi mất căn bản về Toán và Sinh ngữ, anh chỉ giùm thì biết chút chút vậy thôi, Khi anh quá bận thì tôi đành chịu. Cuối năm đó thi lên lớp rớt, phải về quê làm ruộng với ông già.Anh cũng biết vùng xôi đậu mà, ban ngày bên quốc gia, ban đêm họ về, tuyên truyền, bắt lính…. Họ bắt mình theo vô bưng. Thời chiến tranh mà! Vướng vô vòng thì không chuyện nầy cũng chuyện khác.Trong một trận chống càn, tôi bị pháo trúng....tàn phế nên được tản cư ra chợ đã năm sáu năm nay. Còn sống là may. Có người vợ chịu thương chịu khó theo mình cũng là một cái may nữa. Gặp anh, anh không sợ mất thể diện mà nhìn bạn, tôi sung sướng vô hồi. Mấy năm nay tôi sống trong bi thiết chán chường lúc nào cũng muốn rũ sạch bụi trần để ra đi. Đời mình còn gì nữa đâu để ham hố níu kéo. Chưa làm được vì còn một mụn con thơ và người đàn bà tri kỷ.’ Giọng Phan nhỏ dần như tiếng thở dài hiu hắt. Giáo Bửu nghẹn ngào ray rức trong tâm, thấy dường như mình có lỗi .
Tôi đi trả nợ cho nửa quê hương thất trận hơn mười năm trở về, ngơ ngác giữa dòng đời bon chen xào xáo nhưng hiếm hoi chân tình với người chung quanh gần gũi. Cha tôi đã mất, sư bác cũng đã siêu linh tịnh độ hơn bảy tám năm nay rồi. Những buổi chiều buồn, tôi lang thang vô cái cốc đóng kín cửa hoang phế, phủ bụi từ ấy để tìm chút dư vị tuổi thơ. Một lần tôi tò mò mở một gói giấy dầu đặt ở cuối góc trang thờ Phật, ngoài có đề mấy chữ nắn nót: Kinh Phật Di Di Đà. Tôi mở ra, ngoài hai gói kinh còn có một gói tiền toàn giấy nhỏ một trăm, hai trăm, năm trăm, một ngàn, hai ngàn .. và một bức thơ gởi cho tôi.
Phong Điền, ngày tháng năm vô vọng.
Tuấn con,
Tiền nầy sư bác chắt mót kỳ khu hơn hai chục năm mới có được. Đổi đi đổi lại thì ra thế nầy, đủ để mua mười lượng vàng hay cất một kiểng chùa nho nhỏ cho Phật tử có nơi đến chiêm bái đấng Từ Phụ. Đủ tiền thì sư bác thỏa mãn ước vọng xây chùa đồng thời thất vọng về chính mình, té ra bao nhiêu năm nay mình lặn lội cực nhọc, mình dè xẻn khiêm tốn vì một số tiền, mình cười với tín hữu nầy, vâng dạ với tín hữu kia vì số tiền đó.
Ngôi chùa phát họa trong tâm tưởng hướng dẫn cái hành Bồ Tát, còn cái hạnh Bồ Tát của sư bác nằm ở đâu? Cất chùa lớn rồi thì sư bác phải dính vô chuyện duy trì chùa, bão vệ chùa, sư bác sẽ sinh hoạt chùa chớ còn đâu tâm trí để tu hành kệ kinh, sư bác sẽ làm chuyên chùa sự chứ đâu phải làm chuyện Phật sự. Cái hạnh Bồ Tát suốt đời sư bác nhắm về coi như mỗi lúc càng chạy ra xa.
Khám phá ra điều nầy, sư bác thấy bao nhiêu năm nay tưởng rằng mình làm đúng hóa ra sai. Sư bác tạ lỗi với chư Phật bằng cách tuyệt thực từ từ cho đến ngày được về chầu Phật tổ. Số tiền nầy con có toàn quyền sử dụng theo ý muốn, có ích cho con hay cho người khác đều được.
Nhưng con nên nhớ cái hạnh đáng quí gấp mấy lần cái hành.
Cầu nguyện ơn trên gia hộ cho con.
Thích Giác Nguyện.
Chỗ ký tên thế danh lâu ngày mực nhòe nhoẹt không đọc được, cố gắng lắm mới nhìn ra là Nguyễn văn Bửu.
Số tiền đó má tôi chép miệng than rằng với thời giá, mua chưa đầy ba chỉ vàng, một cái chùa bình thường nho nhỏ ở vùng quê lúc nầy cũng phải tốn gấp trăm lần số đó. Ngồi nhìn gói tiền lâu ngày ẩm mốc, bốc mùi tanh tanh từ những bàn tay dính đầy dầu mở, cát đất, cá thịt của chúng sanh nghèo khổ khi cúng dường cho sư, tôi quyết định đem đốt bỏ để giải thoát hương linh sư khỏi vướng víu với nó nữa. Nơi chốn thiêng liêng kia chắc sư không còn thắc mắc về hành hạnh, theo tôi hai khái niệm nầy hòa quyện lẫn nhau không có lằn ranh phân biệt, càng biện biệt ta càng bị bủa vây không lối thoát…
Xếp bằng chỗ ngày xưa sư bác đặt bồ đoàn ngồi gõ mõ tụng kinh, tôi đốt từ tờ những tấm giấy bạc thiệt như người ta đốt giấy tiền vàng mã. Ngọn lửa xanh lân tinh từ tốn ngún cháy, liếm từ chút từ chút, mấy cái hình trên giấy bạc bỗng chốc trở nên méo mó dị dạng. Tôi chợt mơ hồ thấy nụ cười hiền từ của sư bác quanh quẩn đâu đây.
‘Mong sư bác siêu thăng, hành và hạnh Bồ Tát chẳng qua là những điều dạy đạo lý giúp người đời sống từ bi vị tha, sư bác đã hành thiện, đã sống xứng đáng là một con người khi cố gắng thực hành một ước vọng không vì mình. Sư bác đáng được về cõi tĩnh hằng miên viễn như một Bồ Tát….’
(Victorville, CA 12/09 Sau khi đi thăm một ngôi chùa đồ sộ ở CA.)
Người Bí Mật Chiêm Ngưỡng
Thức dậy trong căn phòng lạ, tôi đã bàng hoàng rồi. Chỗ giữa hai chân ướt ướt, đau đau tôi càng khủng hoảng hơn. Len lén đưa tay xuống, cảm giác ghê sợ càng tăng thập bội. Rút tay ra tôi không biết phải làm gì với mấy ngón tay tội lỗi nhơ nhớp của mình. Mùi hôi hôi tanh tanh mà tôi mới gặp lần đầu bật lóe lên một tia chớp đánh lủng tim tôi. Tôi nhắm mắt kêu gào lớn trong trí bằng trạng thái tuyệt vọng vô bờ, cha mẹ ơi con muốn chết, cha mẹ ơi con muốn chết.
***
Chuyện bắt đầu bằng bữa hôm đó. Bữa hôm như mọi khi, tôi thơ thẩn trong nhà. Cha mẹ tôi ngày nào như ngày nấy, ở ngoài tiệm, tới hơn mười một giờ tối mới lục đục trở về, phần nhiều đứa con gái duy nhất của họ không được thấy mặt. Từ lúc đi học về tới giờ ngủ, khoảng thời gian đó tôi mặc tình khám phá vũ trụ của cuộc đời qua những phương tiện kỹ thuật có sẵn trong tay. Không ai ngoài tôi trong căn nhà rộng thinh thang ngoài những thứ lỉnh kỉnh như dàn âm thanh stereo, máy game, tivi, điện thoại, dàn computer, cái keyboard lúc trước tôi đòi mua cho được bây giờ không thích nữa đang nằm hứng bụi trong một góc tôi chán tới nỗi không buồn đậy bụi. Dĩ nhiên là không kể thức ăn với đủ thứ trái cây ấp lẫm trong nhà bếp và nước ngọt, thuốc hút, dầu nhớt, giấy lau tay, các gói cà-phê.. chất đầy trong nhà xe mà cha mẹ tôi tha về để dành như công việc làm của mấy chú pack rat. Một mình với cả thời gian rộng dài, tôi tha hồ coi tuồng tích trong truyền hình, hết tuồng hay ở các đài địa phương thì qua phim cấm kỵ không cho con nít trong cable. Nhiều phim giết người ghê sợ đến rởn tóc gáy, nhiều cảnh nhục thể gái trai kỳ kỳ, ghê ghê. Với loại thứ hai nầy, tôi coi mà thấy một chút thèn thẹn pha trộn cảm thức tội lỗi mặc dầu không có ai chung quanh. Vậy mà không biết động lực nào thúc đẩy bên trong, tôi vẫn thường vặn lên, coi để khám phá ra cái thế giới gái trai vợ chồng và những sinh hoạt của yêu đương mà tôi biết rằng mình chưa tới tuổi. Những chuyện lạ lẫm trong phim ở trường tôi chỉ nghe mấy con bạn Mỹ lớn xác nói bóng gió xa gần với cặp mắt rất là ranh mãnh nheo nheo trao đổi. Coi thét rồi, tôi cho chuyện trai gái ôm nhau hôn hút cò cạ cũng bình thường thôi, không có gì ghê gớm như ba tôi cố gắng diễn tả trong những bữa ăn hiếm hoi của gia đình. Bình thường như trâu bò ăn cỏ, thành ngữ má tôi thường nói. Tuy nhiên tôi không thích gì mấy các hình ảnh nhiều khi quá lộ liễu trong phim, dơ dáy và sao sao ấy. Kỳ cục lắm. Mấy cô con gái trong đó thân hình họ có quá nhiều quà cáp của Thượng Đế. Tôi nhìn xuống ngực mình, mới nhu nhú như trái chanh nhỏ, chưa có gì đáng kể. Chứng tích con gái đến thật chậm ở mọi nơi, muộn màng nữa là đàng khác. Mười bốn tuổi, tôi đã là một teen từ lâu rồi. Thế giới con trai chung quanh đã nhìn tôi bằng cặp mắt khác, kính trọng, nễ vì, bối rối, thích thú được làm quen. Nghĩa là tôi đã trở thành một thực thể đặc biệt của đời, không phải một đứa con gái nhỏ nhít như trước đây một hai năm. Cũng không phải là cái con nhỏ ngu si đầy sai lầm cần phải bị rầy la mỗi khi cha mẹ thấy mặt. Nhiều khi tôi ước ao mình được phiêu lưu trong những cuộc tình lãng mạn, đẹp nhẹ nhàng trong những truyện phim. Có một Mr. Right đến làm đẹp cuộc đời mình. Có một chàng thanh niên đến để đánh thức dậy cô công chúa ngủ trong rừng là tôi. Nụ hôn đầu chắc chắn sẽ ngọt ngào rung động tưới mát quả tim non tôi đang sẵn sàng chào đón cuộc tình. Cuộc đời bên ngoài cái máy truyền hình nhàm chán đến nỗi tôi không thấy thiết tha gì tới mấy năm về sau nữa, cho tới ngày ra khỏi trung học. Tôi là công chúa bị chính cha mẹ đẻ của mình đặt một lời nguyền để giam tôi và tuổi mới lớn của tôi trong căn nhà thinh thang nầy. Bốn năm trước mười tám nghe thì xa thăm thẳm mà tôi biết chắc chắn là đời thì cũng vậy vậy thôi: đi học, về nhà lẩn quẩn như chim bị nhốt trong lồng, không có ai nói chuyện hay tỏ chút gì lo lắng đến mình. Thứ Bảy khỏi đi học, ngủ có dài hơn ra, coi phim và nghe nhạc có nhiều hơn gấp đôi nhưng đại khái cũng không khác gì là bao. Chúa Nhựt thì hơi thay đổi một chút. Hoặc có ba, hoặc có má. Ngày nầy họ chịu mướn người coi phụ tiệm để có nhiều thời giờ lo chuyện nầy nọ trong nhà. Họ có ở nhà hay không, cũng không khác bao nhiêu vì ai lo chuyện nấy. Tôi vẫn cắm đầu vô máy truyền hình. Lúc nầy thì coi những tuồng xây dựng hơn, hoặc núp trong phòng ôm cái điện thoại tán dóc, kể lể với mấy đứa bạn cùng lứa, trai cũng như gái. Thỉnh thoảng ngoài phòng khách, điện thoại bị dở lên, không biết họ cần liên lạc đâu đó hay muốn kiểm soát gì tôi mà cứ chốc chốc dở lên hoài trong lúc mình mải mê nói chuyện. Mất hết hứng thú và bực cả mình. Tôi muốn tự do hơn. Khỏi ai bận rộn tới mình. Và tôi thơ thẩn như vậy một mình sáu bảy giờ mỗi ngày, sau khi mệt mỏi vì bài vở và những mắng rầy của cô thầy. Tôi thèm được nói chuyện, được chứng tỏ rằng mình cũng biết suy luận, có nhận xét, được trang bị bằng óc phê bình và tôi biết những gì đang xảy ra chung quanh. Nói chung là tôi thích được nói và thích được nghe giọng nói, tiếng cười của chính mình.
Và hôm ấy khởi đầu một hướng khác cho cuộc đời tôi thiệt tình. Bill gọi điện thoại cho ai không biết, lộn số sao đó mà nhằm ngay nhà tôi. Sau nầy nhiều lần Bill nói, lúc đó Teresa có giọng nói ngọt ngào quá, tôi không thể nào cưỡng mình để không gọi lại cái số lộn đó những lần sau nữa, hi vọng sẽ được làm quen, được nói chuyện với Teresa. Nghe lời khen như vậy lần nào tôi cũng thích trong lòng nhưng bên ngoài thì nói xạo quá Bill.
Rồi Bill gọi cho tôi hình như hằng ngày sau khi tôi ở trường về. Tôi chỉ lúng túng trả lời trong mấy ngày đầu thôi. Được năn nỉ để xin hầu chuyện, được van lơn để nghe ‘cái giọng mà nằm chiêm bao người ta cũng nghe’ của mình thì làm sao từ chối được khi chính tôi cũng cần có người để nghe và nói cho qua thời giờ. Những lần sau thì chuyện nổ như bắp rang, chuyện thời tiết, chuyện màn ảnh, nhạc hít và mấy cuốn tiểu thuyết tình bán trong tiệm K-Mart mà hai đứa đều có coi. Không gì khoái cho bằng hai đứa tranh nhau kể các chuyện xảy ra trong mấy cuốn tiểu thuyết cả hai đứa đều thích. Rồi tài tử, ca sĩ nữa, Tom Cruise,.... Madonna.. Ôi thôi nhớ không hết. Nghe giọng nói của Bill, tôi biết anh ta đã già rồi. Cở tuổi ba tôi không chừng. Nhưng mà có hề gì. Bạn để chuyện trò thì tuổi đâu thành vấn đề. Với lại Bill cũng có lý khi nói ‘tuổi chỉ là một con số ghi lại thời điểm lúc mình ra đời, người mang tuổi đó có hợp với người kia trong tương giao mà hai bên cần hay không mới quan trọng.’ Ba tôi cũng tuổi đó, đã nuôi tôi bao nhiêu năm nay, đã lo lắng chăm sóc cho tôi biết bao nhiêu chuyện mà tôi sợ và xa cách, còn cái ông nầy mới quen nhau chưa thấy mặt mà tôi đã cảm thấy gần gũi, thân thiết. Ông ta hiểu tôi và biết được lúc nào tôi vui lúc nào tôi giận. Nói chuyện với ông ta tôi thấy mình bỗng nhiên cổi lớp thành người lớn, quan trọng hẵn ra. Trước mặt ba tôi, tôi là con bé ngu ngốc, vô tích sự, cả mấy bài toán bình thường của lớp Tám mà làm cũng không xong.
Trong trường bao nhiêu năm nay thầy cô nhấn mạnh rằng đừng trả lời người lạ ngoài đường, đừng tin tưởng người khác phái khi họ lân la đến làm quen. Tôi biết điều đó, nhưng mà tôi có cho Bill gặp mặt đâu. Bill nói với tôi nhiều lần là anh ta không muốn biết nhà tôi, cũng không cần gặp mặt tôi, nói chuyện xuông là đủ. Bill muốn là người-bí-mật chiêm ngưỡng tôi. Tôi cũng thích như vậy. Và tôi tin những gì Bill nói.
***
Ba tát tay một cái đau điếng về chuyện học xuống hạng, giấy trường gởi về mét chuyện không làm bài làm ở nhà nhiều lần, lơ lảng để trí bay xa trong lúc thầy cô giảng bài. Đã vậy mà còn cãi tay đôi với ổng. Đau thì cũng chịu được, nhưng cái tức giận thì không biết để đâu. Sông biển nào chứa hết cái giận hờn to hơn núi nầy. Tôi, ngoài căn nhà nầy thì được khen, được trọng, được năn nỉ, được nói ngọt ngào, được đối xử như công chúa vậy mà bị tát tay và bị mắng như một người nô lệ bất hạnh đang sống dưới sự hành hạ của một ông chủ ác độc. Ổng còn biểu tôi phải bắt chước người nầy người kia. Phải như thế nầy, phải như thế nọ. Lung tung. Tôi không muốn nghe, không muốn nhớ những gì ba nói. Tôi muốn tôi là tôi, không bắt chước ai hết. Không sống đời mình theo kiểu của ai hết. Tại sao tôi phải nói tiếng Việt Nam khi mà giọng tôi không giống giọng Việt Nam, khi mà mỗi lần nói chuyện gì đó tôi phải cố gắng tập trung thiệt nhiều tư tưởng mà vẫn còn khó khăn tìm lời diễn ý. Tại sao tôi phải đóng vai trò con gái ngoan ngoãn ra chào lễ phép các bạn bè của cha mẹ tôi khi tôi không biết họ là ai, không biết xưng hô như thế nào mới đúng cách Việt Nam. Từ lâu rồi má đánh chửi tôi hoài. Khi thì ký lên đầu, khi thì đánh lên cánh tay trong khi mắt trừng trừng, miệng chửi những gì tôi không biết rõ lắm nhưng mà biết đó là mấy câu chửi. Quen rồi.
Ba tôi gần đây mới đánh lần đầu. Nhưng từ đó, như là ba quen tay, đánh chửi tôi nhiều lần kế tiếp. Cũng vậy thôi, nhưng mà tôi thấy mình càng lúc càng xa ba. Bây giờ thì đã thăm thẳm ngàn trùng. Càng ngày tôi càng mong cho giờ học mau hết để về nhà nói chuyện với Bill. Càng về sau tôi càng thấy anh ta có duyên và hiểu biết rộng chớ không như ba tôi chuyện gì cũng không biết, đọc tiếng Anh thì trật giọng, nói thì sai, lập lại hai ba lần người ta mới hiểu. Chuyện đọc thì càng tệ hơn nữa, biết bao nhiêu giấy tờ ba phải nhờ tôi cắt nghĩa đi cắt nghĩa lại nhiều lần.
Bị đánh tôi bỗng nhiên muốn làm cho cha mẹ sợ chơi. Bỏ nhà đi một hai ngày cho họ biết mặt. Đi lại nhà con nhỏ bạn ở tạm, ở tạm rồi về. Tôi không dám nghĩ chuyện đi luôn hay đến nhà Bill. Anh ta sống độc thân nhưng tôi biết mình không thể đến đó được mặc dầu chỉ một buổi ban ngày. Tôi trốn trong phòng con bạn. Thức ăn đã có nó lén đem vô. Nó đi học thì tôi nằm nhà ngủ, nhà cũng không có ai. Hai ngày hai đêm làm nư tôi thấy đủ nên bò về. Ba má tôi đã không mừng vì không mất con thì chớ, ba tôi lại đem tôi ra đánh chửi nặng hơn. Tôi đã có chủ ý ngay từ bữa bị trận đòn bán sống bán chết đó. Tôi muốn tôi là tôi, không ai được hành hạ thân thể tôi bằng những đòn bộng làm mất tư cách của tôi. Tôi muốn nghe lời nói hơn thấy ngọn roi bủa xuống thân thể mình. Sao tôi ghét câu ‘thương con cho roi cho vọt’ đến thế! Sao tôi thù câu ‘dạy con từ thuở còn thơ’ đến như vậy! Thương dạy kiểu Việt Nam nầy đâu còn hợp ở nước Mỹ nữa mà họ cứ nhắc lại hoài để làm khổ thân hình tôi, hành hạ da thịt tôi?
***
Bill mời tôi ra sân sau ngồi trên cỏ nhấm nháp lon bia với ông ta để chờ xem sao chỗi Hale-Bopp. Tôi không biết uống bia nhưng cũng đồng ý vì không muốn ngồi trong nhà ngó mặt ông ta hoài.
‘Sao chổi lúc tám giờ sẽ hiện ra ở phía tây bắc. Không thấy được lần nầy Teresa phải đợi đến bốn ngàn hai trăm năm nữa mới thấy được nó. Lâu lắm.’
Bill có lối nói chuyện như vậy đó, trào phúng nhưng trong trầm tĩnh.
‘Phải mình ngồi được lên đuôi của nó đi chu du vũ trụ thì hơn bốn mươi thế kỷ sau mới trở về lại trái đất nầy. Sướng ha!’
‘Có mấy chục người đã có ý kiến đó trước Teresa rồi. Tự tử tập thể để hồn họ lên phi thuyền ở ngoài đuôi sao chổi đi về phía cổng trời để lên thiên đàng.’
Trong nhà bếp có tiếng dằn mâm xán chén chen lẫn với tiếng ghế bàn xô đẩy biểu lộ những giận hờn. Các câu trao đổi dồn bực tức lên đầu người khác đã không nhỏ hơn lại còn được phát bằng âm thanh gằn xé trong cổ họng. Tôi cố gắng tiếp tục cho xong bữa cơm. Vả lại tôi cũng không muốn bỏ vô phòng. Họ cơm không lành canh không ngọt nhắc nhở chuyện nầy nọ để đay nghiến nhau như vậy không phải là lần dưới số ngàn. Cứ tỉnh tuồng như không. Tôi thầm nói với mình như vậy. Món gumbo hằng ngày tôi thích biết bao nhiêu bây giờ mấy viên thịt nằm lõ mắt nhìn tôi thách đố coi tôi dám ăn chúng hay không.
Tôi bỗng muốn mình được chết lúc nầy, để hồn mình theo đám nước đá của đuôi sao chổi đó đi vào nước sung sướng đời đời. Con người sanh ra có số, bao nhiêu người già cả bịnh hoạn sẽ chết trong tháng Tư nầy vậy mà may mắn hơn tôi. Họ sắp được lên thiên đàng, còn tôi mãi mãi sống trong địa ngục do cha mẹ tôi xây dựng rồi bỏ tôi vô đó, khóa kín lại không biết đến đời nào mới thả ra.
Mấy cộng cỏ mọc cao đang cạ vào đôi bàn chân của mình. Qua làn tơ mỏng của lớp pantyhose, cảm giác nhột nhột vẫn truyền lên xương sống. Nhứt là ánh mắt đắm đuối của Bill. Tôi bứt cộng cỏ đưa lên miệng cắn để đè nén sự sợ hải. Mùi hành hoang dại làm tôi khó chịu.
Bill chồm lên giựt cọng cỏ liệng ra xa, đưa tay thân thiện chùi chùi miệng tôi.
‘Ấy chết, đó là cây hành dại, hôi hành lắm,’ Bill nói dịu dàng. ‘Tôi thấy vào mùa hè mấy người Việt Nam như Teresa đi nhổ cả bịch đem về ăn, thay hành mua ở tiệm.’
Nói gì thì nói, đụng vô miệng, vô mặt tôi thân thiện quá đáng như vậy là không được. Tôi ngồi xích xa ra hơn.
“Tôi bỏ tuổi thanh xuân của tôi theo anh qua đây giờ được gì chớ. Anh còn đem tiền mồ hôi nước mắt của tôi gởi về cho họ. Tôi đâu ngu mà cứ thức khuya dậy sớm còng lưng ra làm mọi vói nuôi họ phè phởn bên đó.”
“Con cái bỏ lại thì phải gởi về cho. Đâu có bao nhiêu đâu. Mình bên đây nào có thiếu thốn gì. Tội vùa giúp cho máu thịt của tôi thiệt thòi ở lại bên đó đâu bằng tội nhận điện thoại của người yêu cũ hoài hoài khi em đã chồng con hơn mười lăm năm nay rồi. Đừng chối, đừng đổ tội cho họ. Em không nhận điện thoại làm sao họ dám gọi lại hoài hoài?”
“Điện thoại nói miệng không thì đi tới đâu chớ, tiền mới là huyết mạch. Tiền đưa ra nối liền với tình cảm muốn gắng bó.”
‘Bông gì ở đâu mà thơm quá,’ Tôi đánh trống lảng chuyển đề tài. ‘Mùi thơm dìu dịu, thích ghê.’
‘Đó là sứ giả của hoa honeysucker đó,’ Bill chỉ mấy bông hoa trắng của một loài dây leo đang đeo lửng lơ trên một cành cây gần ánh đèn. ‘Teresa nhớ nhé, hoa nầy mọc từ chùm, nho nhỏ, thân như dây leo, lúc trổ hoa nhiều thì đẹp không thua bất cứ loài hoa dại nào.’
Tiếp theo đó Bill nói nhiều thêm nữa về tính chất của từng loài hoa, loại cỏ chung quanh, tôi nghe mà miên mang thích thú.
Điệp khúc ganh tỵ, ghen tuông lập lại hằng tuần chung quy cũng vì hình bóng những người vắng mặt đang lởn vởn chung quanh họ. Tôi chưa từng thấy cha mẹ tôi vì xót xa cho tình trạng lạc lõng của tôi trong căn nhà nầy mà gây gổ với nhau bao giờ. Tôi ước ao mình được chú ý một chút để thấy mình ra đời do sự thương yêu của hai người chớ không phải vì những lý do gì khác. Tôi mỏi mòn chờ đợi để cuối cùng khám phá ra rằng mình không giá trị bằng chuyện đóng cửa muộn mở cửa sớm của căn tiệm do ba má tôi làm chủ.
Mấy giọt nước mát bỗng ứa ra rớt xuống dĩa thức ăn trước mặt.
Bill chỉ chùm sao Big-Dipper rồi cắt nghĩa sự tích người con gái cô đơn đi tìm để kết nghĩa anh em với bảy người con trai. ‘ ... Bầy trâu rừng rượt họ chạy mãi, chạy mãi. Người em út cuối cùng phải lấy dây buột vô đuôi tên, bắn bổng lên trời. Tất cả tám người vội vàng leo lên sợi dây đó để tránh đàn trâu đang hùng hổ ào ào tới. Họ leo lên, leo lên, lên tận trên bầu trời. Đó, bảy ngôi sao là bảy người, ngôi sao lu lu là người em út...’
Bill kể từ chuyện nầy sang chuyện khác, tôi nghe mà không thể góp vào lời nào được. Nhưng sao mắt tôi cứ ríu lại. Như là nãy giờ tôi ngồi song hàng cạ vai dụng thịt với Bill và anh chàng đã thân mật nắm tay tôi chỉ lên mấy vì sao. Tôi buồn ngủ đến độ không còn đủ sức để đứng lên quyết liệt bảo Bill đưa tôi về hay gọi điện thoại kêu taxi như đã tính toán trước khi đến đây. Tôi chỉ đủ sức nói rằng giống như cô gái trong truyện Bill kể, tôi muốn được làm anh em ruột thịt với Bill để Bill bảo vệ tôi và tôi may những chiếc áo đẹp cho Bill.
Nụ cười rạng rỡ trên môi, anh ta gật đầu.
‘Trước đây tôi tình nguyện làm người-bí-mật-chiêm ngưỡng, không cần thấy mặt, chỉ muốn được nuốt vào lòng giọng nói ngọt ngào của Teresa, giờ làm người anh để được dịp nghe giọng nói đó nhiều hơn và được thấy mặt nữa thì còn gì bằng.’
Nói như vậy thì tôi yên bụng.
Không biết lúc nào đôi mí mắt tôi đã kéo xuống, nặng như đá, không còn cưỡng lại nỗi.... Trong mơ hồ giữa thực tại và chiêm bao hình như tôi thấy Bill một tay sờ mó vuốt ve tôi, một tay gọi điện thoại lộn số cho những nhà khác. Và hình như hắn đang nói những câu đã nói với tôi cách đây ba bốn tháng trước, xin được làm người-bí-mật chiêm ngưỡng giọng nói của cô con gái đang trả lời điện thoại.
Và tôi đi vào giấc ngủ mê mệt không còn biết trời đất gì nữa cả ...
(Texas, 8-1995)
Người Gìn Giữ Quá Khứ
Tu tập có muôn vạn pháp môn,
chọn đúng pháp môn của mình cần can đảm
vượt qua những khó khăn. (NVS)
1.
“Bình đã đậy nắp, đổ nước hoài cũng không đầy. Tính chất nóng lạnh của nước, mùi vị của trà trong đó cũng không thay đổi được!”
Vị sư trung niên mặc áo dà, đầu cạo trọc sát, một chút tóc vừa mới lú lú ra trên đỉnh đầu hơi dài hơn những chỗ khác chút xíu, ý chừng được dưỡng theo ý của chủ nhơn, đẩy cửa tăng phòng thiệt nhẹ nhàng, nói với chú Tuấn trong khi bước qua ngạch cửa. Nét mặt sư thanh thản, khác với nội dung câu nói, khiến chú để tâm hơn tới ý nghĩa câu nói và chú ý đến quyển sách cũ kỹ, mỏng tanh mà sư đương cầm trên tay.
Tuấn liếc nhìn cái tựa: Bồ Tát Giới Pháp Diễn Âm. Chú nói nho nhỏ với mình: Sách Nôm, một trong số rất hiếm hoi kinh do người Việt Nam viết và khắc in cuối thế kỷ 19. Chuyện Đức Phật sai Bồ Tát A Nan Đà hóa độ một thái tử nọ đắm mê sắc dục. Thái tử chỉ tu hành một ngày trước khi chết thôi mà vẫn được độ sanh vào miền Cực Lạc.
Mình đã bị sách mê hoặc suốt đời, sư Quán Thông đây còn bị mê hoặc hơn mình. Chú Tuấn nghĩ thiệt mau. Rồi không từ chối cái vẫy tay mời của chủ nhơn tăng phòng chú bước theo qua khỏi ngạch cửa. Sư dặn trong khi vói tay bật nút mở đèn.
“Xin kéo cửa lại giùm.” Chủ nhơn thêm cho nhẹ hơn câu sai khiến của mình: “Để cho căn phòng ấm cúng vậy mà.”
Chú đưa mắt chung quanh. Bốn tủ kiếng dựa vách đầy sách. Sách cũ xưa Nôm, Hán, sách kinh kệ khắc bản đầu thế kỷ trước, tất cả đều ngăn nắp, ngay ngắn. Chủ phòng mời trà. Cử chỉ chuyên trà của chủ thiệt đĩnh đạc. Trong khi trịnh trọng đẩy chén trà ra trước mặt khách, sư nói chậm rãi:
“Nói với chú như vậy vì tôi được sư phụ trụ trì khuyên dạy nhiều lần nhưng vẫn chưa bỏ được tánh mê sách, vẫn dùng nhiều thời giờ cho sách vở hơn kinh kệ.”
Khách mỉm cười sau câu nói của chủ, chưa thể góp ý, chỉ đưa mắt theo sự mời gọi của những quyển sách trong tủ.
“Đó là cái duyên, nói lý thuyết hơn đôi chút là cái nghiệp. Tôi cảm thấy đọc một trang sách mới hay vài chục trang từng được đọc đi đọc lại thú vị hơn là tụng một thời kinh. Tội lỗi của tôi nằm ở đó. Nặng lắm mà chưa biết tính sao.”
“Như vậy trong những buổi lễ, trong thời kệ kinh thường nhựt thầy đã không chuyên chú, cái tâm viên ý mã của thầy chạy nhảy lung tung không kềm chế?”
“Cũng không hẳn như vậy.” Thầy Quán Thông nhẹ nhàng vừa xác định vừa phủ nhận. “Chỉ nghĩ về những quyển sách mới vừa trao đổi hay mới thủ đắc, chỉ nghĩ đến những đoạn văn hay những chữ mình vừa mới khám phá cách đọc, những ngữ nghĩa mình mới suy nghiệm, từ đó khám phá ra những ngữ ý mới mà người xưa kèm giấu trong sách. Nói chung, cái tâm mình động vì nội dung sách chứ không vì những thứ khác, kể cả chính quyển sách. Nhiều khi dựa trên đó tôi tự bào chữa mong nhẹ bớt cái tội lỗi mình đã phạm.”
Khách trịnh trọng bưng chén trà lên, đưa cao tận miệng, không cúi đầu xuống, chỉ chu môi húp từ hớp nhỏ, khi trà gần cạn chén, khách đặt lại trên dĩa, thở dài:
“Thầy để lòng mê sách lôi kéo quá xa. Như một cỗ xe để cho tuấn mã chạy vào con đường cấm. Người trần như tôi thì được. Như thầy thì không. Tu hành!” Khách cố tình nhấn mạnh hai chữ tu hành nhưng không lý giải gì thêm.
Cái cười gượng gạo điểm pha chút xấu hổ, thầy Quán Thông nhẹ nhàng:
“Như đã nói với chú, tâm tôi như bình trà đã được đậy nắp rồi, đổ bao nhiêu thêm nữa cũng chẳng vô bình. Bỏ tánh ham quí sách vở để chuyên chú vô kinh kệ nhứt thời tôi đành cáo lỗi không làm được. Người tu hành không ngại hơi thở mình ngừng, nhưng tôi vẫn lo có điều gì thì công việc cho quyển sách lớn đời mình không hoàn thành.” Ngừng chút xíu thầy nói thêm. “Và nhiệm vụ giữ gìn quá khứ không viên mãn.”
Chú Tuấn nói ngay mà không sợ bạn giận. Chú nói trong cái cười nhè nhẹ:
“Coi chừng cái tâm vọng tưởng về danh tiếng núp đâu đó trong hình thức viết lách cống hiến cho đời.”
“Cũng có thể là như vậy, cái tâm muốn có danh tiếng biến hóa khôn lường khiến mình không nhận chân được bản lai diện mục của nó, chỉ thấy được biến tướng của nó là lòng muốn viết và sự cố gắng viết như là một lý tưởng cao đẹp thôi. Mà sư phụ tôi thì không vui gì với những sưu tập sách vở và trang viết của đệ tử, vốn chẳng phải là kinh kệ theo đường truyền thống lâu nay.”
“Thầy nói giữ gìn quá khứ?”
“Vâng! Giữ gìn sách xưa là giữ gìn quá khứ nếu ta chịu đọc, suy nghiệm từ đó rồi lọc ra những điều hay đẹp để thực hành. Nếu chỉ sưu tập rồi giữ sách cho thiệt nhiều thì là chuyện khác.”
Khách đưa mắt trên một quyển sách đóng bằng giấy bản dầy trên có đặt một cây bút lông.
“Đấy cũng là một cách giữ gìn quá khứ của tôi…. Chú biết rồi, một phần triệu triệu của phút giây trước đây là quá khứ, một phần thiệt nhỏ của phút giây sau đây là tương lai. Cái giây phút nhỏ nhít gọi là hiện tại có mà không có bởi vì nó sẽ biến mất ngay. Người đời cứ chăm chăm vào cái hiện tại ảo đó mà bỏ quên quá khứ. Tôi trân trọng nó bằng cách ghi lại những gì xảy ra bây giờ. Dĩ nhiên người đọc từ đó sẽ thấy được quá khứ.”
“Thầy làm công việc của Tư Mã Thiên?”
Có tiếng gõ cửa rụt rè bằng những tiếng nhẹ, rời rạc. Chủ nhơn cất cao giọng nhưng âm thanh vẫn nhẹ nhàng, thân tình:
“Cửa mở, xin mời vào.”
Một thiếu phụ đẩy cửa bước vô. “Con chào thầy, cháu chào Bác!”
Chủ nhân tăng phòng giới thiệu:
“Nguyên Tịnh, chuyên viên Hán Nôm, người rất thích tìm hiểu về những vấn đề cơ bản của Phật đạo.”
Hai người khách chào nhau.
Một áng mây vẩn đục bay qua trong trí chú Tuấn. Người đẹp thanh mảnh, duyên dáng như vậy đến liêu của thầy, chuyện nầy xốn mắt quá, chú Tuấn trầm ngâm ngó người nầy, đảo mắt sang người kia xong rồi ngước nhìn lên bức tượng Bồ Đề Đạt Ma quảy dép sang sông. Người thiếu phụ ý chừng không quan ngại cái nhìn và những diễn biến trong tâm của chú, cứ thảo luận với chủ nhân tăng phòng về chữ tâm mê, về mấy từ khó hiểu trong các hội 5, 6 của bài phú Cư Trần Lạc Đạo.
Chú mơ mơ màng màng nghe như tiếng thiếu phụ:
Tâm mê trần gian coi mọi sự trên đời là thật. Thiệt ra mọi vật trên đời là ảo, chỉ hiện diện một thời gian rồi mất, tan biến vào cõi vĩnh hằng… cũng chẳng có nam nữ, chỉ có linh hồn và tục thân, tục thân hiện ra dưới hình thức nầy kia. Người mạnh kẻ yếu, người kẹp kẻ xấu, người nam kẻ nữ … Chú bừng tỉnh khi tiếng giảng và tiếng hỏi ngừng khá lâu. Chú mở mắt thấy cả hai đương nhìn mình ái ngại. Chú hơi sượng sùng, trở bộ ngồi, tự mình lấy lại chút bình tĩnh bằng cách hớp hớp những hớp nước bự trong tách…
“Chú coi bộ hơi mệt, nên nghỉ ngơi. Mười năm kia ai bị cũng dễ mất sức, bịnh hoạn…. Mấy quyển kinh sách chú hỏi mượn đã được để sẵn trên bàn đằng đó. Cứ yên tâm cầm về xem, đừng ngại. Sách là để đọc, không phải để trưng bày hay làm của.”
Chú Tuấn liếc nhìn vẻ mặt thanh thoát, đẹp đẽ và hai bàn tay thon thả của người thiếu phụ đang chắp trước ngực…
Hình như cái xốn xang trong mắt đời của chú vẫn còn quanh quất, chưa chịu tan biến…..
2.
Tám tháng sau chú Tuấn lại đạp xe đến chùa. Tăng phòng cũ của vị sư bạn đã được giao cho sư khác. Thầy Quán Thông bây giờ ở trong một liêu phòng nhỏ cất tạm xa xa, trước rìa nghĩa địa chùa. Thầy để tóc như người cư sĩ tại gia. Áo nâu sòng nhưng không phải là áo tràng của người xuất thế. Thầy mời chú vào thảo liêu với cái mỉm cười.
“Xin mời vào! Xưa Khổng Minh thanh thản ở mao lư, nay tôi ngự thảo liêu thì cũng như nhau thôi.”
Thầy quay lui, ngó ra ngoài nội, cũng vẫn là câu biểu nhờ nhưng lần nầy nghịch lại:
“Thôi chú cứ đề cửa mở cũng được. Ta hưởng chút khí trời buổi xế chiều.”
Sách vở nhiều hơn và bừa bộn hơn. Nhiều quyển mở ra để trên bàn với những tờ giấy nhỏ ghi chú chằng chịt. Nhiều quyển tự điển nầy nọ dầy cộm mở ra có cây viết đặt vào để làm dấu.
Chủ nhân mở đầu:
“Nay tôi chỉ còn thuần là một phật tử, một cư sĩ tại gia. Sư phụ trụ trì không khuyên tôi hoàn tục, cũng chẳng muốn tôi hoàn tục nhưng người nói tâm tôi đầy sách vở của văn chương chữ nghĩa, tôi lại cứ ghi ghi chép chép nên tâm không có chỗ cho kinh sách nữa, sư phụ không nói tâm tôi như cái bình đầy đậy nắp, nhưng đại khái tương tợ như thế… Tôi hiểu nghiệp mình và nửa năm trước đã xin thầy cho được sống và tu theo lối của mình. Tôi dịch kinh viết bằng chữ Nôm của các thầy mấy thế kỷ trước, tôi nghiền ngẫm những bài phú của vua Trần, những bài thơ của các thiền sư đời Lý. Tôi xa rời kinh Hán tự, Phạn ngữ….”
Ngước nhìn bức tượng Bồ Đề Lạt Ma, chú Tuấn nhớ tới người thiếu phụ trước đây.
“Thưa huynh, người tín nữ tha thiết đến chuyện tâm đạo tâm mê tôi hạnh ngộ lần trước bây giờ vẫn khỏe?”
Huynh Quán Thông sửa lại thế ngồi, đưa tay rót trà cho khách, ngó mông ra cửa. Ngoài nội bao la lửng lơ vài ba cụm mây trắng trên nền trời trong xanh. Gió làm lao xao cành lá những tàng cây trước mặt.
“Tất cả các pháp đều vô thường. Biến đổi không cùng. Đời người như những đám mây kia. Như những cơn gió nọ.”
Chú Tuấn nghe như có luồng điện cao thế chạy xẹt từ chơn cẳng lên tuốt trên đỉnh đầu mình. Chú tròn xoe mắt ngó người đối diện nhưng không dám hỏi. Người cư sĩ đóng lại một cuốn sách đương để lật ra trên bàn, đem xếp chung vô với những cuốn để đứng trong tủ kiếng, đẩy đẩy nhẹ những quyển sách khác lại cho ngay ngắn, nói tiếp:
“Nguyên Tịnh là người chăm chút trau dồi tâm của mình, nhưng cũng không lơ là mấy với tục thân. Nguyên Tịnh khám bác sĩ riêng hằng tháng suốt mấy năm qua vì bác sĩ là người bà con. Vậy mà 7 tháng trước nghe tin mình bị bướu não. Được khuyên mổ óc lấy khối u ra, Nguyên Tịnh từ chối với lý do nếu phải tới lúc hết nghiệp thì chữa chạy cũng vô ích thôi. Đời sống vốn vô thường, cứ để cái vô thường hành sử quyền của nó.”
Lần nữa huynh Quán Thông ngó lên bầu trời. Một vài đám mây khi nãy đã tan, giờ có thêm vài đám mới. Huynh nhớ đến gương mặt của thiếu phụ thông minh có tinh thần tìm học, đã coi nhẹ một trong những nỗi khổ của nhân sinh. Huynh nhắc thêm:
“Nguyên Tịnh xác quyết với tôi rằng con người mang tiếng khóc ban đầu mà ra, không phải vì đau đớn khổ sở mà là phản ứng của cơ thể để có thêm không khí khi mới thay đổi môi trường bên trong cơ thể mẹ sang môi trường bên ngoài đời. Và Nguyên Tịnh sẽ chứng minh rằng cái được gọi là khổ chót đời của nhơn sinh ai nấy đều sợ xem ra cũng không phải là cái khổ. Nó là một giai đoạn của quá trình. Tới giai đoạn nào thì ta chấp nhận giai đoạn đó. Giai đoạn chót là một phút giây cực kỳ ngắn, chủ thể chẳng kịp cảm nhận, vậy thì nó vô tính, sướng khổ hay gì gì thì là do người ngoài gán cho nó mà thôi. Không phải cảm thức của chính chủ thể.
Chú Tuấn gật gù. Đi ngược lại lời dạy căn bản lưu truyền mấy ngàn năm nay của đấng từ phụ sáng suốt ngàn đời không phải điều chú có thể chấp nhận được ngay. Chú nói cho có, vô thưởng vô phạt:
“Nguyên Tịnh thông minh và can đảm. Không phải dễ dàng có được một người như thế trên đời nầy.”
Ngoài kia có tiếng ồn ào cãi cọ của dân chúng và những người gọi là giữ gìn trật tự khu phố. “Mấy vụ kiện cáo khiếu nại xảy ra hà rầm mấy năm nay mà có ai giải quyết được đâu, miếng đất phía sau của Chùa cũng bị hăm he giải tỏa, sư trụ trì cứ chấp tay Mô Phật hoài chớ biết tính sao bây giờ.”
Huynh Quán Thông nói rồi đưa tay lên nhổ những cọng râu vừa mới nhú nhú ra ở dưới cằm. Hai người ngó vô mặt nhau xong cùng liếc mắt ra đường. Không khí bỗng nhiên nặng nề như đông đặc làm cho người ta phải è ạch thở.
Huynh kéo tủ, mở một cuốn sách ghi chú dang dở của mình ra, chấm chấm đầu bút lông vô nghiên mực Tàu, cầm ngang bút rồi nhè nhẹ gạt gạt đầu bút vô nghiên để mực không đọng trên ngọn, viết tiếp theo trang viết dang dở:
Tháng Mười năm nay dân oan thường bị đuổi dạt tan tác, một số nhỏ thoát chạy ngang chùa. Người tín nữ thường đem nước và xôi cúng dường cho họ đã siêu hóa hơn năm tháng nay không còn cúng dường cho họ nữa…
Huynh ngừng viết hỏi người đối diện:
“Mà chú Tuấn nầy, chữ dạt ngày nay viết Nôm sao cho đúng nhỉ? Hài thanh với dật, diệt, đạt hay cát?”
(Victorville, CA, 20 Dec.2013)
[1] Các câu hát trong bài nầy ngoài câu Mẹ mong gả thiếp về vườn. Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh và câu: Rau tập tàng thì ngon. Con tập tàng thì khôn là thiệt của dân gian truyền miệng từ lâu lâu lắm rồi, các câu còn lại là của Tư Trích.