Mỗi tuần một nhân vật văn học: ​​​​​​​HÀ THƯỢNG NHÂN

Mỗi tuần một nhân vật văn học

HÀ THƯỢNG NHÂN


 
Tiểu sử
Sinh năm 1919, tại Hà Thượng, Thanh Hóa.
Mất ngày 11.10.2011 tại San Jose, California.

Tác phẩm
Thơ Hà Thượng Nhân.

Ông quê ở làng Hà Thượng, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Ông từng dạy học ở trường Dũng Lạc (Hà Nội) và trường Thiếu sinh quân (Liên khu IV) rồi theo Kháng chiến nhưng đến năm 1952 thì ông về thành rồi di cư vào Nam. Ông gia nhập Quân đội Quốc gia Việt Nam, thăng đến cấp trung tá.
Dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa ông soạn tập Sơ thảo lý thuyết chiến tranh tâm lý và đảm nhiệm Nha Chiến tranh Tâm lý. Cơ quan này sau phát triển thành Tổng cục Chiến tranh Chính trị của Việt Nam Cộng hòa.
 
Đóng góp văn học
Ông làm giám đốc Đài Phát thanh Quốc gia, chủ bút rồi chủ nhiệm nhật báo Tiền tuyến lúc đầu do Cục Tâm lý chiến đảm nhiệm, sau của Quân lực Việt Nam Cộng hòa.[Với nhật báo Tự do ông thường góp bài dưới bút hiệu Tiểu Nhã và phụ trách mục thơ châm biếm “Đàn ngang cung”. Bút hiệu khác của ông là Nam Phương Sóc trên báo Ngôn luận. Ông là thành viên của Trung tâm Văn bút Việt Nam.[1]

Về tài văn thơ, ông có biệt tài làm thơ trào lộng nhưng khi còn trẻ tuổi ông cũng sính thơ Đường. Khi vào Huế trong một cuộc chơi thơ, ông có ứng khẩu một bài thơ vịnh “trăng thu” mà được cụ Ưng Bình chấm là hay nhất và khen:
“Trăm mặt thẹn thua chàng tuổi trẻ
“Một bài cũng đủ gọi Thi-ông.”

Ông từng được Phủ Quốc vụ khanh Văn hóa của Việt Nam Cộng hòa đề cử làm giám khảo Giải Văn học Nghệ thuật toàn quốc, bộ môn Thơ.
Sau năm 1975 ông bị  cộng sản bắt đi tù cho đến năm 1983 mới được thả và sang định cư ở Hoa Kỳ năm 1990 dưới diện H.O. Ông mất năm 2011 tại San Jose, California, thọ 91 tuổi. (theo Wikipedia tiếng Việt)
 
Những bài viết về nhà thơ Hà Thượng Nhân

Hà Thượng Nhân

LÃNG NHÂN-PHÙNG TẤT ĐẮC


Nhà thơ Phạm xuân Ninh, vốn quê làng Hà thượng, thuộc huyện Hậu lộc, tỉnh Thanh hóa, nên, lấy tên làm bút hiệu.  Lấy tên cảnh thổ nơi mình làm bút hiệu, như  Tản Đà, Tô Giang, Hương Bình, Đông Hồ, Kỳ Xuyên, để, nhắc nhở gốc gác của mình, có ý kiêu trong khiêm tốn.  Không ngờ sau này, khi lưu lạc tha phương, những bút hiệu ấy đã mở  lại trong tâm hồn chúng ta bao nhiêu nhớ thương về đất cũ.

 Viết đến  2 chữ Hà thượng, tôi nhớ ngay đến một buổi  hội hữu, tôi gặp Hà thượng Nhân lần đầu tiên, từ khi di cư vào Sài thành.  Nhà thơ nổi danh này, nguyên là một [trung] * tá, bấy giờ giữ trọng trách ở tòa báo Tiền tuyến, thường viết những nhận xét xác đáng về tình hình chính trị, nhưng, cái sở trường lại về thi ca.
----
*  [...] chữ của người biên tập [BT]

Thấy vẻ người phong nhã, cử chỉ đàng hoàng, tôi có cảm tình ngay.   Huống chi lại mẫn tiệp, chẳng thua gì người  ‘ bảy bước xong bài thơ ‘ khi xưa.  Trong khói thuốc, hương trà, ông vừa tiếp chuyện vừa loay hoay bút giấy, một lúc sau đưa tặng tôi bài thơ dài tựa đề là :

NGÂM CHƠI
Ờ trong lúc phùng trường tắc hỉ
Dễ khôn kia dám ví dại này ! 
Trăm năm rũ áo trắng tay
Ngựa xa ,một nước cờ bày oái oăm
Xưa lừng lẫy tiếng tăm Vương Bột
Gác đằng Vương lạnh một vùng trăng
Bản sinh phong cốt lăng tằng,
Ai rằng dật sĩ, ai rằng lãng nhân?
Nghĩ chi đến chữ ‘ bạch vân thương cẩu’
Chút lợi danh bôn tẩu hoài công
Cái ta với cái vô cùng 
Biết đâu ? Mà có, mà không, mà tìm ?
Đem hiện tại nhận chìm dĩ vãng 
Lấy tương lai xóa  ván bài thua... 
Cớ sao những lúc vui đùa
Chẳng đem rốc túi mà mua trận cười ?
Năm với tháng, nào người nhân thế
Máy thời gian có nể nang mình ?
Hát ngao lạc điệu vong tình 
Trong ly rượu chát thoáng hình phù du !!! 
 HÀ THƯỢNG NHÂN

    Mấy ngày sau, tôi bị cảm mạo khá nặng, phải vào điểu trị  trong bệnh viện Grall.  Lúc tỉnh táo, tôi gửi mấy câu phúc đáp bạn :

PHÚC ĐÁP BÀI  ‘NGÂM CHƠI’ *
Đem khối lỗi theo đà phóng lãng
Lớp bi hoan, đắc táng ... nhởn nhơ
Còn đương xem dở ván cờ
Bỗng nghe lọt mấy đường tơ dặt dìu
Trạnh nhớ thuả gió chiều mây sớm
Trăng đầu ghềnh, hoa chớm hơi sương
Biết bao hứng dật ngâm cuồng
Những là hờn giận xót thương nỗi đời
Vòng hình dịch cuộc người cô lữ
Lấy hạo nhiên mà giữ tấm thân
Một cơn kịch bệnh bất thần
Trông ra bóng đã vân vân xế mành,
Sinh, lão tử đã đành mộng ảo
Mộng chưa tàn ai bán đừng chơi !
Cổ kim cũng một tiếng cười
Cười đi, cười đến lệ rơi mới là...
Tỉnh say, ta vẫn là ta ...
                                         LÃNG NHÂN
         -----
            *   tựa bài của người biên tập . (BT)

Một tuần,  sau ngày 30 tối thui, tôi đạp xe lên phía Nam Hà, tìm bạn Lê xuân Giáo.  Đến nơi, thì,  cửa đóng then cài.  Hàng xóm nói ông già đi ra nước ngoài, vợ con thì trở lại quê cũ Nha trang.  Tôi chán ngán quay về, vừa đi được một quãng, gặp ngay Hà thượng [quân]. đang thẩn thơ tản bộ : nhìn nhau mà thở dài.   Không ngờ sau đó, bạn bị ‘ học tập’.  Rồi ở hải ngoại, nghe bạn được ‘cởi trói’, còn lưu lại Sài gòn.

Một bạn ở Mỹ có chép cho bài thơ mà Hà thượng quân tâm sự, trong thời gian đau buồn :
Kĩu kịt đôi thùng nước
Sá chi cuộc phong trần
Ngày trước chỉ cầm bút
Bây giờ đi chăn trâu
Ngày trước rộng bốn bể
Bây giờ hẹp góc sân
Rộng hẹp tuy có khác
Trăng gió vẫn ân cần
Hình dáng tuy thay đổi
Vẫn là Hà thượng nhân
Trò bách vân thương cẩu
Tại làm sao quan tâm ?
Hát ngao gửi thiên cổ
Trăm năm cáy bụi lầm ...
                     
Ta vẫn ca khúc ca nhân ái
Vẫn ung dung phóng thái người thơ
Ở tù, hay chẳng ở tù
 Xưa kia Ủy viên, bây giờ là ai ?
 Địa vị khác, mắt tai chẳng khác
Khói thuốc lào ngây ngất vẫn say
 Bao năm , ừ nhỉ, đổi thay
Tóc này bạc trắng, lòng này bạc chăng ?
 
 HÀ THƯỢNG NHÂN

    Quả là người thơ vẫn phong thái ung dung.  Tuổi tôi trọng rồi, không biết có còn cơ duyên gặp lại nhau chăng ?    thì, một ngày nào đó, được tin bạn đã tới Mỹ ngày 14 tháng 12 năm 1990, định cư tại San Jose. 
...    và, 15 năm ấy bây giờ...- [rồi] -  bạn với tôi, lại có dịp thư từ trao đổi, vấn an, khuyến khích cùng là an ủi lẫn nhau.

Một hôm bạn gửi tặng tôi 1 bài thơ :

Biển đâu nghĩ lại biết bao lần
Ôi ! nghĩa tri giao giữa cõi trần!
Bảy chục có ai ngờ tuổi thọ
Muôn ngàn đâu dễ phụ tình xuân
Cổ kim góp lại bao trang sách
Sau trước quy vào một chữ ‘Nhân’
Sắp tết bỗng dưng thư bác đến
Bạc đầu, lòng vẫn cứ thanh tân ...
HÀ THƯỢNG NHÂN

  mà, tôi phụng họa như sau :

Tản cư đồng lứa lại đồng lần,
Hậm hụi cùng nhau giữa bụi trần
Tết gặp thứ Ba hòng nghỉ tết ?
Xuân đeo thu tứ hết mừng xuân
Cho rằng tớ lãng mình không lãng
Há lẽ mình nhân tớ chẳng nhân
Tuổi đầu cổ hi còn tiếc rẻ
Cựu chưa đành tống, hãy nghênh tân...
  LÃNG NHÂN .

       *
 

Hai thi sĩ

Nguyễn Nhược Pháp và Hà Thượng Nhân

Bình Nguyên Lộc

Kẻ viết bài nầy chưa có thì giờ để thảo hồi ký. Và có thể chẳng bao giờ thảo ra cũng nên, vì tử thần có thể mau chơn hơn. Mặc dầu vậy, những bài sau đây, cũng cứ là hồi ký phần nào, nhưng chỉ được hạn chế trong vòng liên hệ giữa thuật giả và làng văn nghệ với lại làng báo mà thôi. Nếu may ra không chết gắp, thuật giả sẽ cứ viết mãi, và bấy giờ sẽ nói đến những chuyện ở ngoài làng, chuyên từ lên sáu cho đến ngày nay, và tập hồi ký đó sẽ mang tên khác là “Nếu tôi nhớ kỹ”.
Hồi còn thanh xuân, tôi chuyên môn viết thơ cho các nhà văn, nhà thơ mà tôi phục tài. Viết lu bù, viết tối ngày không biết mõi. Tôi cứ tưởng chỉ có một mình tôi là làm như vậy thôi. Không dè lớn lên, tôi làm văn thì cũng nhận được lu bù thơ, đa số cũng là của tuổi trẻ viết. Cuộc đời cứ vần xoay, lớp sau, chẳng khác lớp trước đáng kể.

Viết thì nhiều, mà nhận được chẳng bao nhiêu. Mình viết một bức thơ thường, chưa ra hồn, thì ai thèm phúc đáp thơ mình. Tôi chỉ nhớ có ba người mà tôi gởi thơ dai dẳng. Người thứ nhứt là Nguyễn Tuân. Ông ấy không bao giờ trả lời tôi cả. Người thứ nhì là Nhất Linh. Ông chỉ đáp có một bức thôi, mà lời lẽ có vẻ đùa cợt, chế giễu tôi. Không dè bao nhiêu năm sau, chính ông ấy lại phải viết thơ cho tôi trước. Người thứ ba thì trả lời đều đều, ban đầu chỉ đủ lịch sự thôi, nhưng càng ngày càng thân mật, mặc dầu thuở ấy tôi vẫn cứ còn ở trong bóng tối của đời công chức tập sự. Người nầy cùng tuổi với tôi, chớ không phải cao nièn hơn tôi như Nguyễn Tuân và Nhất Linh. Có lẽ vì thế mà anh ấy dễ thông cảm với tôi chăng ? Mặc dầu còn trẻ như tôi, nhưng anh ấy đã vang danh rồi. Đó là nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp, tác giả tập thơ bất hủ “Ngày xưa”.
Một nhà thơ đã nổi danh mà bằng lòng làm bạn hàm thụ với một ký toán-viên tối tăm của Ngân Khố Sài Gòn thì thật là chuyện hy hữu vậy. Trong thời thơ từ qua lại, thì tôi nỗ lực tập viết văn xuôi và làm thơ, thường thì là thơ hơi hơi tự do mà tôi chạy theo phong trào Phong Hóa. Thản hoặc vì bị nhiễm thơ luật, tôi cũng làm thơ luật, nhưng sẵn sàng bất kể niêm luật, mãi cho đến già, khiến anh Bàng Bá Lân rất lấy làm bực mình. Nhưng tôi cứ mặc kệ họ Bàng. Tôi có quyết tâm làm thơ luật hồi nào đâu kia chớ ? Tại rủi ro bị nhiễm thơ luật, tôi buột tay viết ra hơi giông giống thơ luật vậy thôi, bắt bẻ tôi sao được.

Nhưng Nguyễn Nhược Pháp bỗng thình lình qua đời. Thật là quá sớm. Và tôi mất một người bạn. Anh ấy qua đời chưa được bao lâu thì tôi có văn xuôi xuất hiện trên mặt báo ở Sài Gòn. Khi đọc lại bài văn đầu tay, được in trên giấy, tôi bùi ngùi nhớ đến người bạn vắn số, người ấy đã khuyên tôi nỗ lực. Tôi đã nỗ lực, giờ có chút ít kết quả rồi thì người ấy lại không còn nữa, để mà thấy tôi không phụ lòng ai ? Tôi xúc động quá, lấy bút viết ra ngay bài thơ dưới đây, bị bỏ quên từ 43 năm nay, trong tủ của tôi mà giấy má chồng chất vô trật tự.

Trong cái tháng mà tôi đoán biết rằng tôi sắp lên đường ly hương, tôi xốc xáo tất cả giấy tờ cũ, vì nhiều mục đích. Tôi gặp lại bài thơ bỏ quên nầy, khiến tôi ngồi đó mà hồn đi vắng hằng giờ. Những hồn ma cũ lũ lượt lướt qua trong trí tôi, trong lòng tôi. Một thời quá khứ, một thời xuân trẻ đã qua, chẳng bao giờ trở lại cả. Hồn người xưa đâu rồi ? Nhưng tại sao tôi lại bỏ quên bài thơ nầy ? Tôi rất ít cho đăng thơ trên các báo Sài Gòn. Thỉnh thoảng, có dịp gởi Bách Khoa và Văn vài bài lấy lệ thôi. Bài thơ nầy, lại chẳng hay, mặc dầu tôi quí nó lắm. Tôi cất nó thật kỹ, kỹ quá, đến đỗi quên mất nó. Và trước khi đốt bỏ vì không mang theo được, tôi học thuộc lòng, nay chép lại đây, gọi là tưởng nhớ linh hồn một thi hữu vắn số vậy:

VỚI HỒN NGUYỄN NHƯỢC PHÁP

Anh và tôi đều sanh cùng răm
Ta trưởng thành, anh nổi tiếng tăm,
Tôi thì chỉ bắt đầu tập viết,
Thỉnh thoảng làm gan gởi thơ thăm.

Đồng niên, tôi mặc cảm học trò,
Ham chường mặt báo, lại cứ lo...
Anh cười, anh chế văn thơ dở,
Tác phẩm xong rồi, giữ bo bo.

Sao anh vụt chết ? Dốt lý do...
... Tôi đành cởi bỏ áo học trò,
Múa lia ngòi bút cùn công chức,
Mơ hão tiếp lời thi sĩ to.
°
Rồi những gì xảy ra sau đó
Chúng đi qua, anh không được rõ
Nơi nơi, chiến tranh bắt đầu nổ
Hơn Đông Chu thịt rơi máu đổ.
°
Tôi làm văn thơ, anh chẳng hay
Tôi qua trăm đắng với ngàn cay
Anh thảnh thơi, Niết Bàn, tiên cảnh
Tôi khóc thì anh lại cười dài.
°
Ngày nay và mãi mãi về sau,
Người đời ngâm vịnh, hát nghêu ngao:
Chùa Hương cô gái nhiều mơ mộng 1
Với chuyện Thủy Tinh hụt vợ giàu 2

Nếu có linh hồn anh ở đâu ?
Xin về báo mộng kẻ đi sau.
Đi xa ? Đi ngắn ? Xin cho biết
Để tớ dừng chơn hoặc vụt lao.

Anh chỉ làm một lập thơ thôi
Sợ tủi lòng ai đã lánh đời
Tôi xin cũng một tập thơ nhé
Để dành chất xám hiến văn xuôi.

Tập thơ anh mỏng, tôi sẽ dày
Mỏng, dày chẳng phải là thơ hay
Miễn sao tả được lòng hai đứa
Anh mến “Ngày Xưa”, tôi yêu Nay

Đôi ta có khác điều nầy đây
Nhưng cũng gặp nhau cách tỏ bày.
Cả hai hoài cổ rồi khúc khích,
Khóc chơi chốc lát tỉnh mộng ngay

Âm dương đôi ngã hỡi người xa
Nhớ anh tôi quyết viết nhiều ra
Bên kia thế giới dù anh điếc
Anh cũng phải nghe Lộc-ba-hoa.

Vĩnh biệt từ đây thi hữu ma!
Ngậm câm làm việc tới khi già
Diêm đài, anh chắc không thất vọng
Ai hiểu nhau bằng đó với ta.

Khi đốt mấy tờ giấy đã ngã màu vàng, tôi nghe như là mình hủy diệt cả quá khứ của chính mình, mặc dầu bài thơ chỉ xoàng thôi. Chưa chắc gì khi sang tới xứ người, óc của tôi đủ khả năng trả lại cho bút của tôi những gì mà bút ấy cần sao chép lại. Vậy là có thể mất hết, mất luôn cho đến mãi mãi “Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ ? Có giống như mình lưu luyến chăng ?” Bổn mươi ba năm đã qua ra, Nguyễn Nhược Pháp ơi, nhưng sao tớ cứ nghe như là mới hôm qua đây thôi, tớ còn vui mừng cầm một bức thơ Hà nội mà chưa dám xé ra đọc. Đó là thời sung sướng nhứt của chúng ta và của bao người khác. Những ánh tuyết của ngày xưa đã tan hết rồi, nhưng nó biến thành nước và tớ nghe như đâu đây vẳng lên tiếng sơn khê róc rách, reo vui mà cũng hạ giọng trầm buồn. Cái thời thập niên ba mươi mà văn thơ của ta lên cao chưa từng thấy đó, với đông đảo nhà văn nhà thơ trong ấy, mà ngày nay hơn hai phần ba đã ra ma cả rồi, còn sót lại những cây bút già nua, tiếc nhớ người cũ một cách hoài công. Vĩnh biệt dĩ vãng!
 

Bài Thơ nửa bước

Đêm ấy, ông Đinh Văn Khai, chủ nhơn của nhựt báo Tiếng Chuông đãi tiệc. Nói đãi tiệc thì hơi quá đáng, mặc dầu bữa ăn đêm đó, cũng là ăn ở cao lâu to có ca nhạc. Dân miền Nam ham nhậu, thì ai có tiền thì thỉnh thoảng mời bạn hữu và thân hữu nhậu nhẹt, tất cả đều không cần ăn, chỉ ham uống và ham nói thôi. Thằng nào mà không tiền như bọn tôi thì được mời, đôi khi lại bị mời nữa, vào tháng chạp ta là bị mời đấy, vì các ông có tiền họ thay phiên nhau mà mời tất niên từ đầu tháng chạp đến hăm bảy tháng chạp, mãi rồi thằng nào cũng phải trốn hết, vì đã ngấy tới cổ.

Khách không đông lắm, trong bữa ăn đó. Chắc chỉ có bốn mươi tám người thôi. Đây là nói phóng mạng, dựa vào lệ mỗi bàn mười hai người. Bốn bàn ăn, được 48 người. Nhưng chắc cũng có người đau ốm, hay trốn vì lẽ gì đó.

Ông bạn Ch. giữa bữa ăn nói lớn cho cả bốn bàn đều nghe:
- Đêm nay ở đây có một thi sĩ lớn nhứt thế giới, ta nên yêu cầu thi sĩ trổ tài vậy.

Người ta đưa mắt rảo quanh coi nhà thơ to ấy là ai? Rất là khó biết. Đến ba nhà thơ có mặt, nhưng xem ra thì họ chẳng lớn bao nhiêu, không lớn trong nước Việt Nam nữa, mà nói lớn nhứt thế giới thì rất khả nghi. Hơn thế có một nhà thơ bị một số anh em không nhìn nhận là nhà thơ. Đó là ông nhà binh Hà Thượng Nhân. Ông quan quân sự nầy được mời, không phải với tư cách sĩ quan, mà với tư cách nhà thơ. Như vậy thì đã chết ai đâu nào, thế mà có người lại xầm xì. Ông ấy biết làm thơ thì gọi ông ấy là nhà thơ, đâu có sai hồi nào. Tại sao cứ đòi thơ phải như thế nầy, phải như thế khác, ở một nơi hoàn toàn không phải là trường thơ thi phú.

- Thi bá đó ai ? Một thực khách hỏi.
- Tôi đã trót nói là lớn nhứt thế giới nên ông ấy sẽ không bao giờ ra mặt đâu, phải chỉ ông ấy mới được.
- Yêu cầu chỉ.
Người bị chỉ, chính là Hà Thượng Nhân.

Ai cũng mỉm cười. Hà thi sĩ mỉm cười vì không lẽ lại khóc. Bọn khác mỉm cười là tức cười ông bạn Ch. Ông nầy có một anh con trai đi lính. Ông nhà thơ thì là sĩ quan cao cấp, nhưng mà là sĩ quan ở Sài Gòn, chớ không phải ở mặt trận. Nếu con trai của ông bạn Ch. mà được làm cận vệ của Hà thi sĩ thì tuyệt, khỏi đeo ba lô để trèo đèo lặn suối. Người ta mỉm cười mà nghĩ ngay đến mục đích bốc thơm của ông Ch.

- Nhứt thế giới thật hả ? Một tân khách hỏi. Xin giới thiệu thêm.
- Ông ấy làm thơ nhanh hơn Tào Thực. Tào Thực phải đi bảy bước mà chỉ làm được có một bài thơ bốn câu. Thi sĩ của tôi mà đi bảy bước thì thơ sẽ dài hơn nhiều.
- Vậy, âm nhạc yêu cầu đây. Xin Hà tiên sinh gieo vần.

Hà Thượng Nhân cứ ngồi cười, không nói năng gì hết. Ký giả Nguyễn Kiên Giang đã hơi có chén, nói: “Ông ấy mỉm cười, tức là Em chả rồi đó. Yêu cầu ông anh xuất khẩu vậy.” Nhưng một thực khách già, và có lẽ cũng đã có chén phần nào, đặt ra trò dè dặt. Ông ấy bảo: “Chưa được. Nhà thơ có thể ăn gian, làm trước vài chục bài, giờ ta xin nghe, nhà thơ sẽ cho băng cát sét chạy, thơ sẽ ra lu bù, thì ta làm sao biết có nhanh bằng Tào Thực hay không ?”

Rất nhiều người tán thành cái ý hay nầy. Nhưng khi ai đó đề nghị cụ thể kiểm soát thi nhân, thì chằng có ma nào nghĩ được cách kiểm soát hết. Ký giả Việt Nhân nói: “Ta chỉ biết có ta thôi thì sao được. Phải có sự đồng ý của Hà Đại Nhân mới được chớ.” Rồi ông bạn ký giả nầy nói lớn cho mọi người nghe, nhưng chỉ mói riêng với Hà Thượng Nhân: “Tiểu đệ xin tiên sinh nhận lời: Bấy lâu nay nghe tiếng cũng từng khao khát...”. Tôi (B.N.L.) đề nghị: “Hà thi nhân sẽ nhận, tôi tin như vậy, nhưng các anh lại đòi kiểm soát mà không đưa ra giải pháp, thì ai sẽ nhận ? Xin đề nghị lối nầy: mỗi người trong chúng ta sẽ nói lên một tiếng rồi thì Hà thi nhân sẽ làm một câu thơ trong đó có tiếng ấy. Tôi chờ đợi ý kiến của nhà thơ”. Bấy giờ Hà Thượng Nhân mới mở lời: “Thôi thì cũng được. Kiểm soát bằng lối ấy, cũng khá hay”. Tiếng vỗ tay nổi lên như pháo Tết. Không ai dè ông thi sĩ nầy lại dám nhận một điều kiện vô cùng khắt khe đến thế.

Ký giả Nguyễn Kiên Giang bắn tiếng súng đầu: “Tôi xướng đây. Xin lấy tên khổ chủ đêm nay làm đầu đề cho câu thơ đầu. Xin xướng: Đinh Văn Khai.”
Im lặng hoàn toàn. Chỉ trong chớp mắt thôi. Nhà thơ nói to:
Ông Khai mở tiệc
“Ồ... ồ... ồ... đó là tiếng kêu phản đối. Ai đó, nói rõ to ra:
- Làm thơ như vậy thì quá dễ, ai làm chẳng được. Thơ gì mà: “Ông Khai mở tiệc” ?

Ký giả Việt Nhân: “Xuỵt! Im. Thi nhân muốn nói cái gì kia”. Quả thật thi sĩ nói chậm rãi, điềm đạm: “Đành rằng câu đầu: “Ông Khai mở tiệc” chẳng hay ho gì hết. Nhưng xin đợi xem các câu sau có dính líu gì đến câu đầu hay chăng. Nếu dính được thì có lẽ tạm chấp nhận được chớ. Có phải thơ hay không nầy. Thử hỏi câu đầu của nào Tào Thực “Củi đậu chụm nấu đậu”, nếu đứng riêng một mình nó, có hay gì chăng ?”

Vỗ tay tán thưởng. Nguyễn Kiên Giang lại hét to: Trường Sơn ! Trường Sơn là bút hiệu của một ký giả hiện có mặt. Nhanh như cắt Hà Thượng Nhân làm câu thơ thứ nhì:

Sơn hải đủ mùi

Thiên hạ lại nhao nhao phản đối. Họ nói: “Ở đây chỉ có Hải mà không có Sơn thì dường cái ý “Sơn trâm hải vị” là không ổn ? Bào ngư thuộc về Hải, Vi cá cũng thế. Nhưng chấp nhận câu thơ nầy”.
Nhưng Hà Thượng Nhân lại bình tĩnh trả lời: “Món yến xào lấy tột đỉnh núi đá cao xuống, nếu không phải là Sơn thì là gì ?” Im lặng giây lát rồi thì đa số tán thành. Nguyễn Kiên Giang lại xướng: Nguyễn Ang Ca. Đó là bút hiệu của ký giả Nguyễn Ang Ca. Còn nhanh hơn lúc nãy nữa, Hà Thượng Nhân nói ngay tức khắc:

Ca hát. Vui tươi

Lại phản đối. Họ nói: “Các cô ca sĩ từ nãy đến giờ, ca toàn các điệu buồn, vậy không có việc vui tươi được”. Nhưng ký giả Việt Nhân binh vực thi sĩ: “Chấp nhận được. Đúng là ca sĩ chỉ ca nhạc buồn. Nhưng ta có nghe ca sĩ đâu. Ta chỉ nghe ta thôi. Và không khí ở đây quá vui tươi thật sự.” Lại tán thành và đây là tán thành Việt Nhân chớ không phải tán thành Hà Thượng Nhân. Nguyễn Ang Ca lên tiếng hỏi: “Nãy giờ có ai ghi chú gì hay không để xem coi các câu thơ ấy có dính lại hay chăng về ý tứ”, hay là một câu đi đường anh, câu khác đi đường tôi” Ai đó, đọc to lên:
Ông Khai mở tiệc
Sơn hải đủ mùi
Ca hát vui tươi

- Được, và tốt lắm. Ông Đinh Văn Khai phê. Tất cả đều dính lại chặt chẽ với nhau. Câu thứ nhì và thứ ba, tả không khí bữa tiệc, thì cũng được lắm đó chớ.
Đến phiên tôi xướng: Hà Thượng Nhân! Và thơ ta tức khắc quả là xuất khẩu thành thi:

Hồng Hà đỏ rực

Nguyễn Kiên Giang bắt bẻ: “Làm gì có sông Hồng Hà ở đây cha nội”. Ký giả Việt Nhân giải thích: “Hà là ráng chiều. Ráng chiều là mây chiều bị mặt trời nhuộm đỏ. Được và hay: Cái tiếng xướng là Hà Thượng Nhân là một tiếng xướng khó. Nhưng thi sĩ đã làm tròn nhiệm vụ.”
- Nhưng cũng đâu có ráng ở đây ? Ai đó lại bắt bẻ.
Việt Nhân chỉ tay vào tấm tường ở đàng xa. Đây là cao lâu Tàu. Tường không treo tranh, nhưng một họa sĩ vô danh nào đó đã vẽ lên tường cảnh “ngũ sắc tường vân”. Có ráng vàng, có ráng đỏ. Vậy quả có Ráng hồng đỏ rực thật sự. Ông Đinh Văn Khai lại phê:
- Cả bốn đều tả khí hậu bữa tiệc. Cũng hay đó chớ.
Nguyễn Ang Ca xướng: Bình Nguyên Lộc. Thơ ra ngaỵ:

Lộc nhung rượu cúc

- Rượu cúc là rượu gì ? Ai đó hỏi.
Hà Thượng Nhân trỏ chai rượu Tàu trên bàn.
- Nhưng sao lại lộc nhung ?
- Nhung là sừng nai non, mà ta cũng gọi là lộc nhung. Trong rượu nầy, họ có thêm hai chất: Sâm và Nhung.
- Đọc lại xem nào, Trường Sơn đề nghị, nhưng rồi chính anh ta đọc, hơn thế, ngâm chớ không phải đọc:
Ông Khai mở tiệc
Sơn hải, đủ mùi
Ca hát vui tươi
Hồng Hà đỏ rực
Lộc nhung rượu cúc

- Tốt lắm, Việt Nhân khen. Không phải dễ làm được như thế đâu nha các tía nội. Phải dính lại như keo sơn mới được. Bời rời như cơm nguội mắc mưa thì không xong. Về kỹ thuật thơ cũng ổn lắm. Câu đầu khai phá. Bốn câu sau, đi vào chi tiết. Thoạt tiên tả tổng quát là Sơn hải đủ mùi. Rồi thì tả khí hậu bằng hai câu Ca hát vui tươi - Hồng hà đỏ rực. Câu thứ năm bắt đầu chi tiết và tả rượu trước hết, đối với tụi mình, món rượu là món chánh.

Tên của người cả bốn bàn đều đuợc xướng lên, và bài thơ nầy, dài ít lắm cũng đtrợc 40 câu. Nhưng thuật giả không nhớ hết vì một phần tư thế kỷ đã qua rồi, thì còn làm sao để nhớ đủ cho được. Tôi chỉ cố nhớ được đến câu thơ thứ sáu thôi. Câu đó là “Bổ thận tráng dương”. Dương là tên của một thực khách, do ai đó, xướng lên.

Và đây là sáu câu dựng lại được hôm nay:
Ông Khai mở tiệc
Sơn hải, đủ mùi
Ca hát vui tươi
Hồng Hà đỏ rực
Lộc nhung rượu cúc
Bổ thận tráng dương

Các cụ hay nói đến sự kiện xuất khẩu thành thi, nhưng không ai tin. Mà quả có thật đó các bạn ạ, như ta vừa thấy. Có người lại nói: “Thơ hay hay dở, nào phải do làm nhanh.hay chậm.” Đành vậy, nhưng đây chỉ là một trò chơi, chớ không phải là văn thơ thật sự. Trò chơi nầy, rất tao nhã và rất khó chơi: Ai chơi được, ta nên khen họ, đừng làm bộ lên mặt thầy, chê thơ hay, thơ dở. Đã bảo, chỉ là một trò chơi thôi, và ta nên nhìn nó dưới khía cạnh một trò chơi là đủ rồi.

Đời. Số 46, tháng 10.1986





 
Viện Việt-Học và chương-trình văn-nghệ chủ-đề \"Những Tình Khúc Mùa Thu\".
Viện Việt-Học trân-trọng kính mời Quí-vị tham dự chương-trình văn-nghệ được tổ chức vào Thứ Bảy, 19 tháng Mười năm 2024 lúc 3 giờ chiều.  Chương-trình do Nhóm Bạn Văn Nghệ QGHC và Thân Hưũ thực hiện với chủ-đề "Những Tình Khúc Mùa Thu".
Tòa soạn
Do công ty Saigon News LLC thực hiện
Editor-in-chief: HOÀNG DƯỢC THẢO
Director of Marketing: ANDY TRƯƠNG
Với sự cộng tác của: LÊ TẤT ĐIỀU, HOÀNG NGỌC NGUYÊN, NGUYỄN THỊ CỎ MAY, TRẦN TRỌNG HẢI.

Email: saigonweeklyonline@gmail.com

Thư từ bài vở: 702-389-5729

Quảng cáo: 702-630-0234

702-426-4404

Hotline: 702-426-4404

back top