Xưởng làm giấy để in tiền Hoa Kỳ thơm sực nức mùi vỏ cây tươi, thật sạch mới lấy từ đống cỏ khô. Xưởng làm giấy in tiền được xây cất từ thời 1870’s ở thành phố Dalton, Massachusetts, vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay. Nguồn điện lực của xưởng lấy từ dòng sông Housatonic River giống hệt như ngày xưa. Mùi thơm của gỗ tươi tỏa ra từ trung tâm của nhà máy. Ngay giữa trung tâm là một quả cầu bằng sắt rất lớn, lớn hơn căn nhà, được đặt ở vị trí cao hẳn lên. Mỗi ngày, người ta rót vào quả cầu hàng tấn bông gòn nguyên chất, và vải lụa, cùng pha với nước được đưa vào. Rồi cứ thế quả cầu được hâm nóng, và xoay tít, giống như máy giặt quần áo, để gỡ bung các sợi trong vỏ cây và vải lụa. Sau đó, những sợi này được đưa vào một nhà máy khác, mới hơn, ở cuối con đường gần đó để làm thành loại giấy đặc biệt dùng riêng cho việc in tiền.
Cũng tại nhà máy lập ra từ thời thế kỷ thứ 19 này, người ta trang bị thêm những kỹ thuật tối tân, mới nhất trong nghệ thuật làm giấy bạc. Ví dụ, tờ giấy bạc 100 đô la, được lồng vào trong đó sợi băng mầu xanh bằng micro-optic để bảo mật. Đó là sợi giây mầu xanh dương ngay bên cạnh mặt ông Benjamin Franklin, lồng vào đó còn có hình bóng –image- của Chuông Tự Do, và con số 100. Đặc biệt là khi tờ giấy bạc được đặt nghiêng đi, thì con số 100 di chuyển lên xuống, hay chạy qua bên phải, bên trái. Đây là một kỹ thuật đặc biệt, sử dụng một triệu microscopic lenses vào trong đó, đặt chồng lên nhau ở mức độ hết sức tinh vi, nhỏ hơn sợi tóc của con người. Công ty làm giấy bạc Crane Currency là một công ty làm giấy bạc nổi tiếng từ hơn 140 năm qua, đảm nhiệm việc chế tạo giấy bạc cho hàng chục quốc gia trên thế giới đã đạt đến mức tinh vi như vậy. Ông Tod Niedeck, Trưởng ban tiếp thị của công ty khoe rằng, công ty Crane có khả năng làm những “image” siêu hơn nữa. Chẳng hạn khi tờ giấy bạc để nghiêng, người ta trông thấy một giọt nước chảy trên mặt hình người. Ông đã lấy cảm hứng từ khi xem cuốn phim Harry Potter. Ông muốn hình ảnh trông có vẻ sống động như thật. Trong tương lai, công ty còn có thể làm thêm những hình ảnh sống động hơn thế nữa. Ví dụ có thể để ông George Washington đi tới cái ghế, và ngồi xuống, hay để ông Fraklin nheo mắt, vẫy tay.
Lý do chính sử dụng những kỹ thuật tối tân này là để tờ giấy bạc khó bị làm giả. Nhưng lý lẽ đó không đủ để giải thích sự cầu kỳ này. Trong thực tế, những trường hợp làm giấy bạc giả hiếm khi xảy ra ở Hoa Kỳ. Lấy trường hợp năm ngoái làm điển hình: Nhân Viên Mật Vụ khám phá ra số giấy bạc giả, trị giá khoảng 64 triệu đô la, hơn một nửa là số giấy bạc bị tịch thu trong một cuộc ruồng bố ở Peru. Trung bình hàng năm có khoảng một trillion đô la giấy bạc lưu hành, như thế số giấy bạc làm giả chỉ vào khoảng 5 phần ngàn của tổng số giấy bạc lưu hành.
Ông Larry Felix, cựu giám đốc Văn Phòng In Giấy Bạc nói cho chúng tôi biết rằng đứng về khía cạnh tài chánh mà nói, những biện pháp chống làm tiền giả chẳng có ý nghĩa là bao. Bởi vì chi phí phòng ngừa làm bạc giả tốn kém gấp bội so với số tiền thực sự bị mất vì bạc giả, rất nhỏ. Nhưng những biện pháp phòng ngừa làm bạc giả có giá trị tâm lý rất lớn. Ông Felix nói: “Giấy bạc của ngân hàng hoàn toàn dựa vào lòng tin tưởng của công chúng.”. Tờ giấy bạc của Mỹ thực ra là tờ giấy nợ về mặt kỹ thuật, nói khác đi nó chính là một tờ I.O.U (tôi mắc nợ anh) do Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang phát hành. Bạn nhận tờ giấy nợ ngân hàng bởi vì bạn biết rằng khi trao tờ giấy nợ đó cho người khác, người ta cũng sẽ chấp nhận. Đây chính là điều bí mật chính yếu của việc lưu hành của tờ giấy bạc: Giá trị của tờ giấy bạc được mọi người đồng ý tôn trọng. Đặc điểm, phẩm chất cụ thể của tờ giấy bạc chỉ làm tăng thêm giá trị khi lưu hành. Cầm tờ giấy bạc với loại giấy tốt làm bằng bông gòn, vải lụa, và hình ảnh kỹ thuật tân tiến như đồng đô la Mỹ làm cho người ta thêm tin tưởng tờ giấy bạc sẽ tiếp tục giữ giá trị của nó.
Lịch sử đã xảy ra trường hợp lòng tin vào tờ giấy bạc của một số nước bị sụp đổ trong một sớm một chiều. Nổi tiếng nhất là vụ tờ giấy bạc Weimar của Đức, và gần đây là tờ giấy bạc của nước Zimbabwe, nước Iraq, và nước Brazil. Vụ sụp đổ giá trị đồng Pengo của nước Hung Gia Lợi hết sức khôi hài: Năm 1944, một đô la Mỹ ăn 33 đồng Pengo Hung Gia Lợi, chỉ hai năm sau, một đô la Mỹ ăn hàng trillion đồng Pengo Hung.
Nói chung đồng đô la Mỹ có giá trị hết sức bền bỉ.
Cách đây một thập niên, có cuộc thảo luận nghiêm túc đòi thay thế đồng đô la Mỹ bằng đồng Euro, hay đồng Nhân Dân Tệ - renminbi- của Trung Hoa dùng làm đồng tiền chính cho toàn cầu. Sau đó, cuộc suy thoái kinh tế xảy ra, chủ yếu là vì sự thất bại của hệ thống tài chánh Mỹ. Sự kiện này tình cờ lại xảy ra cùng lúc với sự xuất hiện loại tiền “ảo”, trả tiền qua internet, chẳng hạn như loại tiền “bitcoin” và Apple Pay, và sự xâm nhập của hệ thống trả tiền bằng cell phone trong các nước phát triển. Trong tình huống đó, đồng đô la Mỹ lại tái xuất hiện, và giữ vai trò chủ yếu. Sự kiện đó cho thấy không bắt buộc phải là đồng tiền tuyệt cú mèo thì người ta mới tin, chỉ cần đồng tiền đó đừng quá tệ là đủ. (Giới tài chánh ở Wall Street ví von rằng đồng đô la Mỹ vẫn là chiếc áo sơ mi sạch nhất.).
Ngày nay hơn một nửa số giấy bạc Hoa Kỳ được lưu hành ở ngoài nước Mỹ, đa số là loại giấy bạc $100 đô la. Đồng tiền Mỹ được tin dùng, và đáng tin cậy hơn cả tiền địa phương, ảnh hưởng của Mỹ lại có dịp nới rộng thêm.
Năm nay, nhiều định chế công quyền của Hoa Kỳ bị lôi ra chỉ trích chỉ vì Hoa Kỳ có một ông Tổng thống kỳ cục. Ông này hình như không để ý gì đến tầm quan trọng của những định chế công quyền. Cho đến nay, tờ giấy bạc của Mỹ vẫn chưa bị đụng chạm đến. Giá trị của giấy bạc Mỹ được Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang bảo vệ. Ngân hàng này đứng riêng hẳn ra ngoài, không dính líu đến những chuyện “điên khùng” đang xảy ra ở Hoa Kỳ. Nhưng sang năm tới, Tổng thống có thể thay thế bà Janet Yellen, và ông Stanley Fisher, vị Thống đốc, và Phó Thống đốc khả kính của Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang bằng những nhân vật mới. Người ta không lấy làm lạ khi ông Trump sẽ bổ nhiệm những kẻ bất tài chỉ ưa nịnh hót ông, những kẻ sẵn sàng thổi phồng, hay làm xẹp giá trị của đồng đô la để đạt mục tiên chính trị cho ông Tổng thống. Cố vấn kinh tế chính của ông Trump là ông Gary Cohn được coi là nhân vật đứng hàng đầu trong danh sách được ông Trump sẽ chọn làm Thống Đốc Ngân Hàng. Ông này là điển hình của những nhân vật khả ố trong chính quyền. Ông là cựu chủ tịch công ty đầu tư Goldman Sachs. Ông ta công khai nói rằng ông làm việc cho quyền lợi của các ngân hàng và những người giầu có. Tuy nhiên, quả thực ông ta là người có đủ khả năng làm Thống Đốc. Ông cũng thừa nhận rằng những chính sách liều lĩnh của ngân hàng dự trữ liên bang có thể làm tiêu tan lòng tin nơi đồng đô la, và gây ra những hậu quả tai hại lâu dài hơn cả sự tồn tại của chính quyền hiện nay.
Bài phân tích của Adam Davidson trên THE NEW YORKER ngày 4/9/2017
Nguyễn Minh Tâm dịch
-----------------------------------------------------------------------------------------------
Khám phá
Kama Sutra
của thế giới Ả-rập
Bộ sưu tập truyện gợi tình thời thế kỷ 15, Vườn Thơm (The Perfumed Garden), thách thức các quan niệm phương Tây về tình dục và thế giới Ả-rập, theo Joobin Bekhrad.
Khi nói về văn học và niềm đam mê, người ta thường nghĩ tới một số hình ảnh cụ thể: những sắc thái của chàng Grey, cô gái mới lớn có tên là Lolita, hay có thể là quý cô quằn quại đau khổ Lady Chatterley, và những chú chim nhỏ ríu ran.
Tuy nhiên, từ rất lâu trước khi có những thứ như thế, và trước khi có Niềm hoan lạc ái ân (The Joy of Sex), cuốn sách hướng dẫn những kỹ năng giường chiếu của tác giả người Anh Alex Comfort, thì đã có Kama Sutra, cuốn sách cổ viết bằng tiếng Phạn được cho là của tác giả Vãtsyãyana, vốn được coi như sách dạy tuyệt kỹ tình dục.
Ngay cả với những ai đoan trang thẹn thùng và còn vụng dại trong ars amatoria (nghệ thuật ái ân), thì Kama Sutra vẫn là một từ rất quen thuộc; cũng nổi tiếng không kém là tập sách mỏng của Vãtsyãyana, vốn gần như được cho là đồng nghĩa với chuyện gợi tình.
Ngoài bản dịch trứ danh Kama Sutra, nhà thám hiểm đồng thời là nhà Đông phương học Sir Richard Francis Burton còn đem đến cho độc giả Anh một cuốn sách có từ Thế kỷ thứ 15, mà người ta cho rằng tác giả là Sheikh Nefzaoui vùng Tunisia.
Được viết dựa trên bản dịch tiếng Pháp của tác phẩm nguyên gốc viết trên tiếng Ả-rập, Vườn Thơm gồm một loạt các câu chuyện, mà tất cả đều liên quan (một cách rất sinh động) tới chuyện chăn gối yêu đương. Hay như cách diễn giải đầy phấn chấn của Burton, là “sự giao cấu!”
Khác với Kama Sutra, cuốn sách ít nhiều được coi là có tính giáo dục, Vườn Thơm trong lúc khai trí cho người đọc ở nhiều chủ đề khác nhau, chẳng hạn như các cách để làm cho bộ phận sinh dục nam được to hơn, và “mọi thứ ưa thích” liên quan đến tình dục, thì nó cũng đề cao tới tính giải trí.
Nhá thám hiểm người Anh đồng thời là nhà Đông phương học Sir Richard Burton là người đã đem Kama Sutra và Vườn Thơm đến cho độc giả sử dụng tiếng Anh
Các câu chuyện được dẫn dắt một cách sống động, giống như Ngàn lẻ một đêm, và người ta có thể nói rằng những mô tả rõ về các tư thế “yêu” trong đó thậm chí khiến cho cuốn sách của Vãtsyãyana trở nên xoàng xĩnh.
Trong bản thảo tiếng Pháp mà Burton tham khảo có chương 21 nói về tình dục đồng giới và chủ đề đồng dâm nam thì không có trong bản in hiện còn.
Theo một số nguồn thì Burton định đưa nó vào bản hiệu chỉnh, được đặt tên là Vườn Hương (Scented Garden); tuy nhiên ông đã qua đời trước khi làm được điều đó, và bản hoàn toàn chưa sửa đổi này - cùng với nhiều tác phẩm khác của Burton - sau đó đã bị vợ ông là Isabel đốt bỏ.
‘Những quan niệm sai lầm’
Ngày nay, trong một thế giới Ả-rập nơi thường được phác họa như một khu vực không có tình dục và nơi mọi chủ đề liên quan tới tình dục đều bị coi là cấm kị, thì những tác phẩm như Vườn Thơm có vẻ như là điều kỳ quái, đặc biệt.Những cuốn sách như thế - “chứa đầy những lời mô tả chi tiết đam mê đầy nhục dục - thậm chí còn được coi như sự ban phước từ nơi thiên đường, theo lời học giả Sarah Irving.
“Khác xa so với một số kiểu khiêu dâm ngầm tồn tại trong thế giới Ả-rập thời Trung Cổ,” bà viết trong blog ArabLit, “những cuốn sách gợi tình đó được chấp thuận về mặt tôn giáo, những lời khuyên trong đó được coi như một phần quà tặng mà Thượng đế ban cho con người.”
Nhưng với cách nhìn ngược lại thì cuốn sách bị coi là gồm lời miêu tả của những nhà Đông phương học về một sân chơi tình dục trong đó trí tưởng tượng phương Tây được đưa ra một cách bản năng, hoang dại.
Bộ truyện Nghìn lẻ một đêm gồm các câu chuyện có nguồn gốc từ Ba Tư, Ấn Độ, Ả-rập, Hy Lạp, và các nguồn khác
Trong thế giới Ả-rập siêu phân định giới tính, Flaubert khoác lác về việc ăn nằm với vũ nữ Ai Cập Kuchuk Hanem, và bộ phận sinh dục của “gã người Thổ dâm dục” (thật ra là người Algeria) đã bị cắt phăng đi rồi được những kẻ bị hắn giam cầm cất giữ cẩn thận theo cách mà cả đến Sada Abe (một kỹ nữ Nhật Bản nổi tiếng hồi đầu thế kỷ 20 vì đã cắt bộ phận sinh dục của người tình rồi luôn mang theo người, trong chiếc kimono) cũng sẽ tán thưởng.
Cả hai ý tưởng về thế giới Ả-rập - tiết giảm và tình dục vô độ - tất nhiên đều bị bóp méo ghê gớm, thế nhưng việc tiết giảm có lẽ nghe tức cười hơn, nhất là khi đặt trong cách mà thế giới Ả-rập nhìn nhận vấn đề tình dục qua các thời kỳ.
Vườn Thơm có thể được đặt bên cạnh các tác phẩm văn học kinh điển của Ả-rập như Ngàn lẻ một đêm (Alf Layla wa Layla), là tác phẩm mà Burton đã dịch rất tuyệt. Nội dung căn bản của nó là về chủ đề tình dục.
Tuy nhiên, Burton đặt tên bản dịch là Những đêm Ả-rập (The Arabian Nights) gây hiểu nhầm, bởi các truyện trong đó thật ra là từ cuốn sách Ba Tư có tên là Hezar Afsaneh, tức là Một ngàn câu chuyện, tập hợp từ các truyện gốc của Ba Tư, Ấn Độ, Ả-rập, và Hy Lạp, chưa kể từ cả các nguồn khác nữa.
Trong câu chuyện nổi tiếng, vị vua Ba Tư Shahryar giết chết vợ sau khi biết hoàng hậu ngoại tình. Trở nên căm thù hôn nhân, nhà vua mỗi đêm ngủ với một trinh nữ rồi sáng ra hạ lệnh đem giết chết để không người đàn bà nào còn có thể phụ tình vua.
Cuối cùng, con gái của vị tể tướng là Shahrzad (hay với độc giả phương Tây thì tên nàng là Scheherazade) trở thành trinh nữ trong đêm. Trong long sàng, người con gái Ba Tư khôn khéo, thông minh đã kể các câu chuyện hấp dẫn, đêm này qua đêm khác, khiến nhà vua không dứt ra được và rồi bị cảm hóa, cuối cùng xóa lệnh giết người mỗi sáng, và cưới nàng làm vợ.
Tuy một số truyện nổi tiếng nhất trong Ngàn lẻ một đêm đã được chuyển thể thành phim và phim hoạt hình dành cho thiếu nhi (như Aladdin, Thủy thủ Sinbad, Alibaba và 40 tên cướp thành Baghdad), nhưng bản gốc các truyện thì không hề ngây thơ. Những câu chuyện qua lời thầm thì dẫn dắt của nàng Shahrzad đầy mô tả chi tiết về những người tình quằn quại trong cơn đam mê.
Pier Paolo Pasolini có lẽ là một trong số ít những người nhận ra và trân trọng sự gợi tình trong các truyện đó. Cho tới nay, cảnh nổi tiếng nhất trong bộ phim ra năm 1974 của ông, Bông hoa trong Ngàn lẻ một đêm (The Flower of the Thousand and One Nights - được quay một phần tại Iran và Yemen) là cảnh chàng trai trẻ Ninetto Davoli khỏa thân giương mũi tên có hình dương vật nhắm vào nơi góc xương chậu của người tình.
“Rõ ràng là những nội dung mạnh mẽ, đầy đam mê nhục dục thậm chí khiêu dâm trong Đêm Ả-rập có thể song hành trong văn học Ả-rập,” học giả Robert Irwin viết nằm 2010 khi bình luận về Ngàn lẻ một đêm.
Thực sự, vượt lên trên khu vườn và những đêm thâu của nàng Shahrzad, người ta có thể nhắc tới các tác phẩm khác mang đậm chất gợi tình, như các bài viết của nhà thơ, nhà văn Al-Jahiz (sống thời thế kỷ 8-9) về nam nữ, Bách khoa Toàn thư về Khoái lạc của Al-Katib hồi thế kỷ 10, hay thậm chí Assemblies of al-Hariri, bản sách có từ thời đế chế Seljuk với những đoạn viết về tình dục đồng giới.
Thêm nữa, những nội dung do nhà thông thái hồi thế kỷ 13 Nasireddin Tusi viết ra về các cách kích thích và những tư thế làm tình khác nhau gần đây đã được dịch ra cho các độc giả tiếng Anh trong cuốn The Sultan’s Sex Positions (tạm dịch là Những tư thế làm tình khác nhau của vua Sultan).
Tình yêu hiện đại
Sự gợi tình trong văn học Ả-rập không hề chỉ gói gọn trong thời Trung Cổ. Các thế hệ tác giả Ả-rập mới tiếp tục viết về vấn đề này.Chẳng hạn như cuốn The Sexual Life of an Islamist in Paris (tạm dịch, Đời sống tình dục của một người Hồi giáo tại Paris, phát hành năm 2010) của Leïla Marouane kể về những rủi ro bất ngờ hài hước của một chàng thanh niên Algeria còn trinh và những lần định làm tình nhưng rồi đều bị gián đoạn. Hay các truyện Menstruation (2001) của tác giả Ammar Abdulhamid, Season of Migration to the North (1966) của Tayeb Salih, và nhiều cuốn khác.
Liệu độc giả không phải là người Ả-rập có ngạc nhiên về sự tồn tại của những đầu sách như thế không, cả sách có từ ngày xưa lẫn các tác phẩm đương đại?
Theo học giả đồng thời là nhà văn người Syria, Salwa Al Neimi, thì không hề. “Tiếng Ả-rập là thứ ngôn ngữ đậm chất tình dục,” bà viết trong cuốn tiểu thuyết The Proof of the Honey (2009).
Quả thật, tương phản với sự hiểu nhầm rằng tình dục là điều cấm kỵ trong đạo Hồi và trong các xã hội Hồi giáo Ả-rập, Al Neimi, cũng giống như những người khác từng nghĩ trước bà, cho thấy rằng nó không hề, và còn được tán dương nữa là khác.
Cho dù các hiện tượng xã hội và tôn giáo có thể khiến người ta phải tuân theo những nguyên tắc nhất định trước xã hội, nhưng đằng sau những cánh cửa đóng kín ở thế giới Ả-rập (và trên những trang giấy), thì con trai vẫn là con trai, và con gái vẫn là con gái, giống như ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
• BS Trần Mộng Lâm
Những con
Robo giết người
Trong những thập niên sắp tới, chúng ta sẽ thấy xuất hiện trong quân đội, nhất là quân đội Hoa Kỳ, nhiều người lính đặc biệt : Những đội quân rô bô. Những người lính không bao giờ biết đói, không biết nhỏ lệ khi đồng đội ngã xuống, không biết sợ hãi , không lãnh lương, không có quỹ hưu bổng, và có thể bắn cả ngàn viên đạn trong một phút và nhất là không bao giờ biết trái lệnh cấp trên.Những con rô bô biết chiến đấu là những thực thể không thể tránh trong tương lai.
Vào khoảng tháng bẩy năm 2016, tại Dallas, Hoa Kỳ, Micah Johnson, 25 tuổi, ám sát năm người cảnh sát da trắng rồi rút vào cố thủ trong một garage. Ông David Brown cảnh sát trưởng Dallas đến thương lương với hung thủ và cho anh ta biết là anh có thể chọn giải pháp ra đầu hàng hay cố thủ. Micah Johnson chọn giải pháp thứ hai và sau đó bị giết, thân thể tan tành vì một con rô bô. Cảnh sát trưởng sau đó giải thích : Chúng tôi bắt buộc dùng giải pháp này vì không muốn mất thêm một người cảng sát nào. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặc trọng đại trong ngành cảnh sát nói riêng, và trong các lực lương vũ trang nói chung.
Trong quân đội Hoa Kỳ, một dự án mang tên là Future Combat System có ngân khoản lên đến 127 tỷ đô la. Người ta dự đoán đến năn 2035, sẽ có những người lính rô bô biết suy nghĩ và biết chiến đấu như một người lính bằng xương, bằng thịt. Hiện nay, Ngũ Giác Đài còn thiếu các người lính trong quỹ hưu bổng của họ 653 tỷ đô la.Sẽ đến một lúc mà gánh nặng tài chánh khiến họ bắt buộc phải thay những người lính bằng những con rô bô, ít tốn kém và ít rắc rối hơn .
Bart Everett, giám đốc kỹ thuật của Trung Tâm Chiến Tranh Hải Quân và Không Gian của San Diego mơ uớc một ngày nào đó sẽ chế tạo được những con rô bô giống như người thât để chiến đấu ngoài chiến trường. Một kiểu mẫu rô bô cao 1m20 , chỉ có một mắt, và có cánh tay có thể xử dụng được như một vũ khí đã được đem trình diện. Con rô bô xuất hiện, dùng cánh tay nó, bắn thẳng vào một hộp lon sô đa, chứng tỏ nó có thể giết bất cứ ai. Một con rô bô khác có khả năng lục lọi các đường hầm, các căn phòng. Con thứ ba có thể mang hàng tấn các vũ khí, đồ trang bị. Con thứ tư là một máy bay không người lái, bay với vận tốc 711 cây số một giờ ở độ cao 11 cây số và phóng xuống đất một trái bom nhỏ nhưng thông minh. Con thứ năm có thể làm nhiệm vụ canh gác. Rồi đây những nhà giàu có thể mua một con rô bô làm người bảo vệ .
Charles Shoemaker, thuộc trung tâm nghiên cứu người máy của Lục Quân đóng tại Aberdeen Maryland tuyên bố đã đạt được những tiến bộ rất khích lệ .
Những tiến bộ về việc chế tạo các con rô bô biết chiến đấu, không những chỉ tại Hoa Kỳ mà còn tại nhiều quốc gia khác trên thế giới, thí dụ như tại ngay một nước nhỏ bé như Norvège, làm các nhà khoa học phát hoảng. Mới đây, hàng trăm người giám đốc các cơ xuởng chế tạo rô bô được trang bị một trí thông minh nhân tạo trong đó có Elon Musk, người đã sản xuất ô tô không người lái Tesla đã cùng nhau ký một lá thư thỉnh nguyện đưa lên Liên Hiệp Quốc để báo động và kêu gọi tìm biện pháp ngăn cấm loại rô bô giết người này. Lý do là hiện nay những tiến bộ về kỹ thuật trong việc chế tạo rô bô đã lên đến một vận tốc mà con người không sao có thể tiên đoán được. Một tên tuổi khác ký tên trong thỉnh nguyện thư là ông Mustapha Suleyman, của công ty Anh Deepmind, chuyên về thông minh nhân tạo. Những người ký tên trong lá thư này nêu lên vấn đề là những tên độc tài, quân phiệt có thể xử dụng loại rô bô này để áp đảo một dân tộc, những người lương dân vô tội. Ngoài ra còn nhiều hiểm nguy khác nữa như bọn Mafia, cướp bóc, bọn quá khích về tôn giáo hay khủng bố…v..v. Cho đến nay người ta vẫn chỉ thấy những tên khủng bố mang bom hay lái xe bạt mạng cán người tại Nice, hay Barcelone, nhưng một ngày kia, nếu thủ phạm là những con rô bô, thì không biết nhân loại sẽ đi về đâu.
Tuy lá thư đã được ký và gửi lên Liên Hiệp Quốc và được công bố bởi Future of Life Institute nhưng hiệu quả của bức thư này lên đến mức nào, có lẽ chúng ta không cần suy đoán nhiều cũng biết là mọi sư đã an bài, khó có thể ngăn cấm được việc sản xuất ra những con rô bô biết giết người không gớm tay này.
Trong lúc các quốc gia thi nhau trang bị vũ khí ghê gớm đến như vậy, thì Việt Nam vẫn lẹt đẹt với Chủ Nghĩa Mác Lê, tư tưởng Hồ Chí Minh và một bô máy cầm quyền nặng nề, tham nhũng và với những lãnh tụ chưa học hết lớp ba trường làng !!!
Ngày mất nước không xa.