Đào Văn Bình
Khi Mọi Người Là Tu Sĩ
(Theo giáo lý Duyên Khởi của nhà Phật mọi chuyện trên thế gia này đều có thể xảy ra khi hội đủ nhân duyên, yếu tố.)Có thể do một sự thần khải, thiên khải, mặc khải hoặc một phép mầu nhiệm, phép linh thiêng, phép huyền bí nào đó, hoặc do đại giác ngộ, đại ân sủng mà toàn thể loài người bỗng dưng trở thành tu sĩ! Thật đại phúc! Vui mừng khôn xiết! Mấy ngàn năm qua với bao lời rao giảng, truyền đạo, răn dạy mà con người vẫn cứ mê luyến vào cuộc sống phàm tục, sinh con đẻ cái, làm giàu, hưởng lạc thú trong cái cõi đời ô trọc này. Nay thì - đúng là ước mơ đã thành hiện thực của các giáo hội. Trong nỗi vui mừng khôn tả đó, việc đầu tiên là phải giải tán ngay phái bộ truyền giáo bởi vì mọi người đã trở thành tu sĩ rồi thì cần gì phải truyền đạo nữa? Tuyên truyền cho ai bây giờ? Còn đất đâu? Còn dân ngoại đạo nữa đâu mà tuyên truyền? Thôi thì cả triệu tấn giấy, hình ảnh, tài liệu, phim ảnh, CD, DVD, Video được đem ra đốt, bao nhiêu đài phát thanh, chương trình truyền hình, trang tin truyền đạo cũng đều dẹp bỏ. Tuy nhiên trong nỗi hân hoan ấy việc chuyển hóa cả một cấu trúc xã hội thế tục vô cùng phức tạp qua đời sống và xã hội tu sĩ không phải chuyện dễ dàng.
Trước hết, vị trí của các ông vua, nữ hoàng, tổng thống, thủ tướng và cả nội các, Giáo Hội tính sao đây? Đành rằng trước đây ít phút các vị này là lãnh đạo quốc gia, nhưng một khi đã trở thành tu sĩ thì họ chỉ là “tân tòng”, ”mới tu” làm sao uy đức có thể sánh bằng hàng giáo phẩm cả đời hy sinh, phục vụ cho Giáo Hội? Thế nhưng sau khi họp bàn khẩn cấp, Giáo Hội quyết định chuyển hóa các vị này thành các vị Tổng Quản Trị Hành Chánh, còn các ông bà tổng bộ trưởng thì trở thành các Ủy Viên Hành Chánh. Dầu sao đi nữa, dù cả nước đã thành tu sĩ nhưng vẫn còn vấn đề quản trị, điều hành, giấy tờ, dịch vụ, sản xuất. Mấy ông “tu sĩ cũ” đâu có kinh nghiệm gì trong vấn đề này? Dù là tu sĩ họ vẫn còn là con người. Mà con người còn sống thì không thể không có vấn đề quản trị. Chỉ khi nào chết hết mới không còn vấn đề quản trị. Quan niệm chuyển hóa rất hợp lý này cứ theo đó mà áp dụng từ trên xuống dưới. Do đó các ông bà thống đốc tiểu bang, thị trưởng, tỉnh trưởng, quận trưởng, xã trưởng sẽ trở thành Quản Trị Hành Chánh cấp tương đương. Việc chuyển hóa cơ cấu chính quyền như thế xem ra cũng tạm ổn.
Thế nhưng lại có vấn nạn lớn đặt ra với bộ quốc phòng. Cả triệu binh sĩ với súng ống, xe tăng tàu bò, hỏa tiễn, tàu ngầm, tàu thủy, máy bay, bom nguyên tử, vũ khí hóa học thì Giáo Hội tính sao đây? Mới đầu thì hội đồng giáo phẩm quyết định phải giải tán quân đội, hủy bỏ toàn bộ các loại vũ khí, quân xa, quân dụng, thiết bị, máy móc bởi vì đất nước đã trở thành vương quốc tu sĩ rồi thì còn gây chiến với ai nữa? Sở dĩ mấy ngàn năm qua con người gây cảnh đao binh, giết chóc nhau cũng chỉ vì chưa hiểu đạo. Nay mọi người đã thấm nhuần ý đạo, đã là tu sĩ hết cả rồi thì họ sẽ vĩnh viễn sống trong tình huynh đệ, trong bình an cho đến ngày tận thế. Thế nhưng sau khi bàn thảo thật gay cấn và cãi cọ kịch liệt, các bậc trưởng lão đã trích dẫn lịch sử và cho rằng dù tất cả đã là tu sĩ nhưng chiến tranh vẫn còn đó. Trong quá khứ biết bao cuộc thánh chiến thảm khốc xảy ra cũng chỉ vì tôn giáo này kình chống tôn giáo kia. Và ngay cả trong một tôn giáo, chỉ cần khác biệt đôi chút về cách thức thờ phượng, niềm tin, truyền thuyết không thôi cũng đã giết nhau chí mạng. Do đó vẫn phải duy trì “quân đội”, không phải để đi chinh phạt, nhưng để giữ gìn an ninh cho “Thánh Quốc” được yên ổn. Thế là chỉ trong phút chốc bao nhiêu binh sĩ với bộ quân phục biến đâu mất. Lái máy bay, xe tăng, tàu bò, tàu thủy, canh giữ các dàn hỏa tiễn, cao xạ, phòng không, tiềm thủy đĩnh, thủy thủ trên các hàng không mẫu hạm, các đơn vị biệt kích, nhảy dù, đổ bộ, súng ngắn, súng dài, canh giữ các đồn bót là các ông “lính mới” xúng xính trong bộ áo tu sĩ trông thật ngộ nghĩnh và tức cười.
Việc Giáo Hội giải quyết Bộ Quốc Phòng như thế cũng tạm yên, thế nhưng quý ông bộ trưởng tư pháp và nội vụ lại đứng ra tâu trình: Thế còn cả triệu tù nhân và hằng trăm ngàn cai tù, Giáo Hội tính sao đây? Vấn đề thật nan giải! Mới đầu Giáo Hội quyết định vẫn cứ duy trì hệ thống nhà tù và cai tù. Các tù nhân, dù nay đã trở thành tu sĩ nhưng vẫn phải ở tù cho đến ngày mãn án. Tu sĩ hay không tu sĩ không ăn thua gì đến hành động phạm pháp. Dù có ăn năn hối cải cũng không xóa được bản án mà chỉ có thể giảm án mà thôi. Thế nhưng quyết định này đã gây công phẫn kịch liệt trong hàng ngũ cai tù và cả triệu tù nhân. Trước hết là các ông, bà đang làm công việc cải huấn, họ nói rằng: Ngày nay chúng tôi đã trở thành tu sĩ, tù nhân cũng đã trở thành tu sĩ. Họ là đồng tu, đồng đạo với chúng tôi, làm sao chúng tôi có thể ngồi đây để giam giữ họ? Hơn thế nữa, kể từ giờ phút này tâm hồn họ đã trở nên thánh thiện thì giam giữ họ phỏng có ích gì? “Thánh Quốc” này cũng giống như Thiên Đình vậy. Thiên Đình mà có nhà tù thì còn ra thể thống gì nữa? Thế là Giáo Hội đành nhượng bộ và nhà tù mở cửa cho hằng triệu tù nhân nay đã trở thành tu sĩ ra về. Tràn ngập đường phố là những “tu sĩ mới” râu ria lởm chớm, xâm trổ đầy mình mà trước đây họ là những người đã phạm những tội thật ghê gớm như buôn nô lệ, chuyển vận xì ke ma túy, mua bán trẻ em, hãm hiếp đàn bà con nít rồi giết đi để phi tang, khủng bố giết hại dân lành, làm bạc giả, buôn lậu vũ khí, dâm ô với trẻ em, loạn luân, giết người hằng loạt rồi chặt đứt thân thể bỏ vào tủ lạnh ăn dần, buôn gian bán lận, lường đảo, giết con để vui vầy duyên mới, dàn dựng giết vợ, giết chồng để lấy bảo hiểm, tham ô nhũng lạm của dân, phản quốc, tội ác chiến tranh, diệt chủng, làm gián điệp cho ngoại bang v.v.. Rồi cũng theo lệnh của Giáo Hội - nay đã trở thành Hội Đồng Lãnh Đạo Tối Cao, các nhà tù, các trung tâm cải huấn được đổi thành các Trung Tâm Sám Hối. Các ông, bà tu sĩ sau này nếu làm bậy, sẽ không còn gọi là “phạm pháp” nữa mà gọi là “phạm giáo luật” sẽ được gửi về đây để “gỡ lịch” và ăn năn, sám hối. Quý vị cai tù, giám thị cải huấn từ này được đổi thành Tu Sĩ Giám Luật. Còn hệ thống mấy trăm ngàn cảnh sát vẫn còn được duy trì nhưng đổi tên thành Cảnh Sát Tôn Giáo bởi vì dù là tu sĩ nhưng vẫn có thể “phạm pháp” tức “phạm giáo luật”. Ngoài ra, cảnh sát cũng còn là “lưỡi gươm” của giáo hội. Uy quyền nào cũng vậy, kể cả tôn giáo thánh thiện cũng phải có hệ thống bạo lực trong tay thì mới duy trì được sức mạnh. Và cũng thật tức cười, chỉ trong có mấy ngày thôi, tuần hành trên đường phố, người ta thấy các ông, bà “tu sĩ mới” lái mô-tô chạy phoong-phoong với súng lục, dùi cui, còng số tám đeo kè kè bên mình.
Chuyện bộ quốc phòng, bộ nội vụ, bộ tư pháp giải quyết vừa xong thì bộ xã hội bước ra điều trần: Thế còn cả triệu cô gái điếm, hằng trăm ngàn cô gái hành nghề thoát y vũ, hằng trăm ngàn ông bà, cô cậu chuyên đóng “phim con heo”, điều hành các website dâm ô trẻ em, làm tình với súc vật thì Giáo Hội tính sao? Chà! Chà! Đây là vấn đề thật đau đầu! Cả triệu cô gái điếm, vài trăm ngàn con người đang làm các nghề nhơ bẩn như thế mà nay trở thành tu sĩ thì có gì rắc rối không? Có làm hoen ố Giáo Hội không? Chính vì thế mà Hội Đồng Giáo Phẩm quyết định - thôi thì dù họ đã trở thành tu sĩ nhưng cũng cứ tạm cô lập họ một thời gian vào một trung tâm gọi là “Trung Tâm Phục Hồi Nhân Phẩm” để họ từ từ chuyển hóa. Thế nhưng quyết định này lại gây bất mãn cho khối người nói trên. Cả triệu cô gái điếm và vài trăm ngàn người sống bằng “kỹ nghệ Sex” xuống đường biểu tình, tuyệt thực để phản đối. Họ nói rằng ngày nay chúng tôi đã trở nên thánh thiện, tâm hồn chúng tôi đã trắng tinh như tờ giấy. Chúng tôi đã nhìn thấy tội lỗi nhơ bẩn trong quá khứ. Nói thật ra chưa chắc các vị “tu sĩ cũ” đã thánh thiện hơn chúng tôi. Các ngài chẳng qua cũng chỉ “sống lâu lên lão làng” chứ chưa hẳn đã là bậc chân tu. Còn chúng tôi đã trải qua một cuộc “đại giác ngộ” đã quay đầu về với chân lý thì phải đối xử công bằng với chúng tôi chứ? Trước lý luận quá sắc bén đó giáo hội đành phải nhượng bộ. Thế là cả triệu cô gái điếm, nam nữ tài tử chuyên “đóng phim con heo” được khoác lên mình bộ quần áo trang trọng của tu sĩ. Họ là tầng lớp tu sĩ mới, rất lạ mắt và dĩ nhiên gây náo nhiệt cho đường phố, nhất là những trung tâm tụ họp của con người trước đây.Vì mới trở thành tu sĩ trong một sớm một chiều, một số cô “ngựa quen đường cũ” tuy đã là tu sĩ rồi nhưng vẫn còn thích ăn mặc hở hang, phô diễn thân hình cho nên đã cắt, sửa quần áo để hở mông, hở vú, hở rốn trông rất ngộ nghĩnh. Giáo Hội biết vậy nhưng cũng đành làm ngơ vì biết rằng đầu óc con người dù đã thay đổi nhưng quán tính, tập quán hay thói quen có khi cả trăm năm vẫn chưa thay đổi được. Cũng nhân dịp này cả triệu cuốn băng sex, phim sex, tạp chí dâm ô, website dâm ô được đem ra đốt hoặc phá bỏ. Tất cả đã là tu sĩ thánh thiện rồi thì coi phim sex, tạp chí dâm ô làm gì? Cả ngàn cuốn phim đánh đấm, bắn giết, lãng mạn, diễm tình trước đây đoạt những giải thưởng điện ảnh cao quý cũng đều đem ra cúng Bà Hỏa. Đã là tu sĩ rồi thì thú giải trí duy nhất là tĩnh tâm và cầu nguyện, đâu còn chuyện yêu đương lãng mạn, mộng mơ, da diết nữa? Thế giới từ đây quay trở về với thanh tịnh. Đó là giấc mơ của các bậc hiền thánh khát khao cả mấy ngàn năm qua.
Những chuyện phức tạp của bốn bộ nói trên vừa giải quyết xong thì hai ông bộ trưởng ngân khố và thương mại lại bước ra thỉnh ý: Thế còn các ngân hàng, các trung tâm tài chánh, tín dụng Giáo Hội tính sao? Chà, chà! Đây lại là chuyện rắc rối nữa! Đối với giáo hội, trong bao ngàn năm qua, tiền bạc là nguyên do gây ra tội lỗi trên cõi đời này. Chính đồng tiền đã làm tan nát gia đình, phá vỡ tình nghĩa anh em, vợ chồng, con cái. Chính tiền bạc đã phá hoại công lý, gây nhũng lạm trong chính quyền, làm hoen ố tôn giáo và bất công xã hội. Bao nhiêu tội lỗi xấu xa nhơ bẩn, bao cô gái phải buôn hương bán phấn, hành nghề đĩ điếm, bao thanh niên sa ngã, buôn bán xì ke ma túy, băng đảng, trộm cướp cũng chỉ vì tiền bạc. Vậy thì đây là cơ hội bằng vàng để hủy bỏ cái cội nguồn của tội ác ấy đi. Các công khố phiếu mà các công dân mua bán, tích trữ trước đây cũng phải đem cúng vào tài sản Giáo Hội. Đã là tu sĩ rồi thì còn tích chứa tiền bạc làm gì? Thế là các trung tâm tài chánh khổng lồ của thế giới như Bombay, Hongkong, Tokyo, Luân Đôn, Nữu Ước v.v.. được lệnh đóng cửa. Tất cả các hãng sản xuất thực phẩm, nhà hàng đều biến thành nhà ăn tập thể của Giáo Hội. Các tu sĩ đi công tác hoặc tới giờ ăn chẳng cần phải nấu nướng ở nhà cho thêm mệt, chỉ cần tới các nhà ăn tập thể này là được các bồi bàn , đầu bếp nay đã trở thành các tu sĩ phục vụ chu đáo. Không cần phải dùng tiền, không cần phải viết chi phiếu, cũng không cần phải cho “tiền trà nước” nữa. Cả hệ thống tín dụng cũng hủy bỏ luôn. Tài sản của quốc gia nay trở thành tài sản của Giáo Hội và cũng là tài sản của tu sĩ, do đó không có vấn đề cho vay lấy lãi cắt cổ. Vì tất cả đã trở thành tu sĩ thì đâu còn tư doanh? Tu sĩ mà kinh doanh à? Kinh doanh, làm ăn buôn bán xuất phát từ quan niệm sở hữu tư nhân. Nay của cải đã trở thành sở hữu tập thể của Giáo Hội cho nên cả hệ thống sản xuất đều trở thành đại công xã, hợp tác xã, tập đoàn, cung cấp trực tiếp cho con dân - bây giờ là tu sĩ - không qua trung gian cho nên giá thành hạ giảm, giống như quan niệm của Karl Marx năm xưa. Các ngân hàng tạm thời chuyển thành các cơ sở phát hành tem phiếu của Giáo Hội. Với tem phiếu này, các tu sĩ có thể mua tất cả các món cần thiết tại các siêu thị, tiệm bán lẻ v.v...Tuy nhiên vì đời sống tu sĩ vốn kham khổ, đạm bạc cho nên rất nhiều khu thương mại phải đóng cửa. Một số đông các hãng sản xuất đã dẹp tiệm và chuyển sang nghành khác như các nghành giải trí, games, đồ phấn son, mỹ phẩm, nữ trang, giầy dép, quần áo lót sang trọng cho đàn bà. Bây giờ đã trở thành nữ tu rồi mà còn phấn son, đeo nữ trang đầy người, quần áo mỏng dính, sang trọng, lòe loẹt sao? Cả triệu tiệm uốn tóc, làm móng tay, massage, đấm bóp, tắm hơi, quán nhậu cũng dẹp luôn. Khu Hollywood bây giờ thì vắng như Chùa Bà Đanh. Cả những khu kỹ nghệ điện ảnh nổi tiếng của Pháp như Cannes cũng trở thành hoang phế. Đã là tu sĩ rồi thì còn đóng phim đâm chém, bắn giết, hôn hít làm gì nữa? Thánh Quốc mà như thế này mới thật bình an, thật đạo hạnh và thật yên ổn. Sẽ không còn chuyện náo loạn cả xã hội vì các xì-căng-đan của các tài tử màn bạc. Các ca sĩ nhạc Rock, nhạc Rap, nhạc Jazz, nhạc kích động cũng giải nghệ và chuyển qua hát thánh ca, đạo ca. Các hệ thống phát thanh, truyền hình lúc nào cũng vang vang tiếng thánh nhạc. Không còn những lời nỉ non, rên rỉ, than khóc, anh anh, em em như thời xưa. Các sòng bài, quán rượu cũng dẹp tiệm để chấm dứt thời kỳ tội lỗi kéo dài biết bao thế kỷ.
Vấn đề xã hội giải quyết như thế cũng tạm ổn thì hai ông bộ trưởng nông nghiệp và gia cư bước ra trình bày: Mọi người bây giờ đã trở thành tu sĩ rồi thì vấn đề nhà cửa, điền trang, tài sản giải quyết như thế nào? Chuyện này cũng dễ thôi bởi vì theo Giáo Luật đã mấy ngàn năm nay, các tu sĩ không cất giữ của cải riêng tư. Mọi thứ tài sản như nhà cửa, ruộng đất, nông trại, xí nghiệp, hãng xưởng, phương tiện chuyên chở, tàu bè, máy bay, xe cộ đều thuộc quyền sở hữu của Giáo Hội. Do đó các nông trại trở thành nông trang tập thể. Nông dân, chủ trại bây giờ vẫn cày cấy, chăn nuôi nhưng không phải là làm cho mình mà làm cho Giáo Hội. Nông phẩm gặt hái xong đem cất vào kho của Giáo Hội. Công nhân trở thành “lực lượng sản xuất” theo kế hoạch do Giáo Hội vạch ra. Hơn thế nữa tu sĩ không thể sống tại nhà riêng mà phải sống tập thể cho nên trong khi chờ đợi xây cất thêm các tu viện, một số tu sĩ “tân tòng” già yếu tạm thời có thể lưu lại nhà mình, kỳ dư phải di chuyển vào các khách sạn nay trở thành các giáo khu tập thể. Các hình ảnh, kỷ vật, kỷ niệm riêng tư cũng phải bỏ lại hoặc thiêu hủy vì cuộc sống tu hành không thể mang theo những kỷ niệm cũ như đám cưới, vợ chồng, tình ái lăng nhăng của thời còn nhuốm bụi trần. Tất cả phải bắt đầu một cuộc đời mới thánh thiện và cống hiến cả đời mình cho đấng giáo chủ thiêng liêng.
Vấn đề xã hội, sản xuất, nông nghiệp, nhà ở giải quyết như thế cũng tạm xong thì quý ông bộ trưởng giáo dục và văn hóa lại tâu trình: Thế bây giờ vấn đề giáo dục và văn hóa giải quyết sao đây? Theo quan điểm của hàng giáo phẩm thì dù cả nước đã trở thành tu sĩ rồi nhưng vấn đề giáo dục vẫn phải duy trì. Tuy nhiên trước đây giáo dục nhằm phục vụ quốc gia, nay quốc gia không còn nữa mà chỉ còn Giáo Hội cho nên giáo dục phải thay đổi. Tên các trường từ mẫu giáo đến tiểu học, trung học, đại học sẽ phải gỡ xuống và thay vào đó bằng tên các vị thánh, các vị thánh tử đạo, các thiên thần, các nhà tiên tri của giáo hội và các vị vua, hoàng đế đã có công truyền bá, bành trướng đạo. Chương trình giảng dạy cũng phải duyệt xét lại. Các môn như khoa học, vật lý, y khoa, toán học, khoa học không gian vẫn còn được lưu giữ. Còn các môn như văn chương, sử học sẽ không còn thích hợp với nhu cầu đào tạo tu sĩ nữa. Tất cả sẽ tập trung vào việc giảng dạy kinh điển, trau giồi đạo đức, hành đạo, tu chứng và có khi phải tu khổ hạnh nữa cho nên cả triệu cuốn sách giáo khoa, các truyện ngắn truyện dài, các tập thơ, các áng văn chương cũ, các truyện cổ tích thuộc về “chuyện đời” cũng phải tiêu hủy đi và lần hồi sẽ thay vào đó bằng các mẩu chuyện đạo, các thiên hồi ký về hành đạo, cuộc đời của các vị thánh, công nghiệp của các vị thánh, các tác phẩm luận giải về kinh điển v.v... Cả hình tượng của các ông tổng thống, tài tử ci-nê, ca sĩ nổi danh, các vị anh hùng liệt sĩ có công dựng nước, các văn hào, nhạc sĩ, họa sĩ trứ danh của nhân loại, các nhà giáo dục và văn hóa lớn của đất nước đang trang trí tại các công viên, dinh thự, lâu đài cũng phải dẹp bỏ. Tất cả những thứ này đều là biểu tượng của xã hội thế tục chứ không phải là biểu tượng của tâm linh, tôn giáo. Và cũng thật là điều vui mừng khi thấy các em nhỏ, đang còn học mẫu giáo, tiểu học, xúng xính trong bộ áo tu sĩ, tay còn cầm cà-rem, bong bóng chạy nhảy tung tăng trên sân trường. Lát nữa đây, sau giờ ra chơi, các em sẽ được các thầy, cô nay đã là các tu sĩ, giảng dạy kinh điển. Lớp học được trang trí như các nơi thờ phượng. Trên bàn học của mỗi em đều để một cuốn kinh dày cộm. Hình của tổng thống, vua, nữ hoàng trong lớp học cũng được gỡ xuống và thay vào đó bằng tấm hình của vị giáo chủ và rất nhiều hình tượng của các ông, bà thánh. Cũng kể từ khi loài người bỗng nhiên giác ngộ để trở thành tu sĩ, vì chưa có thống kê nên không biết nạn tình ái, yêu đương bồ bịch lăng nhăng khiến mang bầu, phá thai tại các trường trung học và đại học có giảm bớt không? Thế nhưng nạn bỏ học, trốn học đã hạ giảm. Nạn xì ke ma túy, đem súng vào trường bắn giết thày cô, du đãng lần hồi cũng sẽ biến mất. Đây là một đại phúc cho giáo dục mà không một chính quyền thế tục nào trước đây có thể giải quyết được.
***
Trong khi cả thế giới đang chuyển hóa từ một xã hội thế tục sang một giáo đoàn khổng lồ như thế thì tại một bệnh viện, Ông Bob, trong một tai nạn xe hơi cách đây ba tháng, bị chấn thương ở não bộ, động chạm tới thần kinh cho nên nằm đó bất tỉnh. Không hiểu do một may mắn nào mà hôm nay ông tỉnh lại. Có thể trong khi ông nằm mê man như thế “phép thiên khải” hoặc “thần khải” hoặc “đại ân sủng” nói ở trên không tác động tới ông cho nên tâm trí ông vẫn là tâm trí của một người bình thường. Khi ông vừa mở mắt ra thì đã thấy các vị nam, nữ tu sĩ đứng ở bên cạnh giường. Họ cùng reo lên những tiếng vui mừng. Ông Bob sau khi dụi mắt nhiều lần, lấy tay sờ vào thân hình. Rõ ràng là ông thấy mình tỉnh lại thật rồi nhưng dường như ông mơ màng không rõ đây có phải là bệnh viện - chỗ ông nằm trước đây hay không? Ông lên tiếng hỏi:
-Tôi đang nằm ở bệnh viện hay ở một tu viện nào đây? Các y tá và bác sĩ đâu cả rồi?
Mấy vị nam-nữ tu sĩ đứng vây quanh cùng cười vui vẻ, nói:
- Chúng tôi là “tu sĩ bác sĩ “ và “tu sĩ y tá” đây. “ Bạn đồng đạo” đang ở bệnh viện cũ chứ còn ở đâu nữa. Sau khi tỉnh lại rồi, chúng tôi có lệnh thay quần áo mới cho “đồng đạo”
-Tại sao lại là bộ quần áo này? Tôi có phải là tu sĩ đâu? Quần áo cũ của tôi đâu?
Nghe Ông Bob nói thế thì tất cả các vị tu sĩ đứng vây quanh, mắt mở tròn xoe, rồi cùng lên tiếng:
- Bạn đồng đạo nói gì vậy? Bộ đồng đạo không biết gì hết sao?
- Biết cái gì mới được chứ?
Ông Bob gặng hỏi.
- Ba tháng nay, tất cả mọi người trên trái đất này, già trẻ lớn bé, đều đã trở thành tu sĩ cả rồi. Cả “vợ con” đồng đạo cũng vậy! Đồng đạo không nhìn thấy chúng tôi sao?
- Nhưng tôi có phải là tu sĩ đâu!
Ông Bob vẫn cãi lại. Tới đây thì câu chuyện không còn là chuyện bình thường nữa mà nó trở nên nghiêm trọng cho nên sau khi tham khảo ý kiến với nhau, vị “tu sĩ bác sĩ” nói:
- Chúng tôi sẽ thông báo cho “gia đình” đồng đạo biết, trước hết để thăm viếng, sau đó để đồng đạo thấy rõ sự thực rồi chuẩn bị di chuyển về sinh sống ở “Giáo Khu Tập Thể”.
Khoảng tiếng đồng hồ sau, cô “nữ tu y tá” cho Ô. Bob biết là gia đình ông đã tới. Khi một người đàn bà và một cậu bé bước vào. Về hình dáng rõ ràng là vợ và con trai của ông nhưng cả hai lại mặc trang phục tu sĩ. Ông há hốc miêng, ngồi nhỏm dậy, ôm chầm lấy vợ, xúc động hỏi:
- Tại sao em và con ăn mặc kỳ lạ như thế này?
- Bộ anh không biết giáo luật sao? Bây giờ chúng ta đã là tu sĩ cả rồi, đâu còn tình cảm thường tình của nhân thế như xưa nữa?
- Nhưng em trở thành tu sĩ hồi nào? Nguyên do nào khiến em bỏ gia đình để hiến mình cho cuộc sống kham khổ như thế này?
- Đầu óc anh làm sao vậy? Anh không biết gì về đại ân sủng, đại ơn phước sao? Bây giờ mọi người đã trở thành tu sĩ. Anh cũng vậy và cả con chúng ta cũng vậy.
Vừa nói người đàn bà vừa lấy tay chỉ vào cậu thanh niên đứng bên cạnh. Nghe nói thế Ông Bob quay qua nắm tay cậu thanh niên, mếu máo hỏi:
-Con cũng trở thành tu sĩ rồi sao?
Nghe hỏi thế “cậu tu sĩ” khẽ gật đầu, nói:
- Tất cả mọi người bây giờ đã trở thành tu sĩ do đó tình cha con đổi thành tình đồng đạo. Xin “đồng đạo” tĩnh dưỡng ít ngày, thay quần áo mới rồi chuẩn bị trở về sinh sống ở Giáo Khu Tập Thể.
- Nhưng ba đâu có phải là tu sĩ? Ba muốn trở về sống với gia đình, với mẹ, với con.
- Bây giờ gia đình là giáo đoàn. Tình nghĩa cha con là tình nghĩa giữa tu sĩ và giáo hội. Gia đình cũ đâu còn nữa. Tất cả đã trở thành dĩ vãng, dĩ vãng rất nhỏ bé, ích kỷ của trần gian.
-Trời ơi! Thế là tôi không còn gì nữa sao? Tôi biết đi về đâu bây giờ?
Cùng với câu nói này Ông Bob gục mặt xuống khóc nức nở.
Tin Ông Bob cho rằng mình không phải là tu sĩ loan đi nhưng một cơn địa chấn. Hội Đồng Giáo Luật của Giáo Hội triệu tập phiên họp khẩn cấp để nghe các “tu sĩ bác sĩ” của bệnh viện phúc trình về tình trạng tâm thần của Ông Bob. Theo quan điểm của Hội Đồng Giáo Luật, nếu Ông Bob mắc bệnh tâm thần thì là chuyện bình thường, bởi vì người điên có làm ngược với cả xã hội là lẽ đương nhiên. Nhưng theo các “tu sĩ bác sĩ” thì tâm trí Ông Bob lại bình thường cho nên đây là chuyện trọng đại. Do phép mầu, cả loài người đã trở thành tu sĩ thì không thể có một ngoại lệ nào. Nếu có một ngoại lệ thì kẻ đó hoặc bị quỷ ám hoặc cố ý chống lại Giáo Hội, cho nên phải đưa Ông Bob ra Tòa Án Tôn Giáo xét xử. Theo Giáo Luật, kẻ nào chống lại Giáo Hội kẻ đó phải chết. Thế nhưng trước tòa, các luật sư tôn giáo - trước đây vốn là các luật sư về nhân quyền - cho nên vẫn còn giữ được tinh thần bao dung, đã tranh cãi kịch liệt.
Theo các luật sư này thì không thể ghép Ông Bob vào tội “chống đối Giáo Hội”. Ông Bob không có một hành vi nào làm tổn hại Giáo Hội, không hề công kích, chê bai việc làm của Giáo Hội mà ông chỉ không muốn trở thành tu sĩ. Ông chỉ muốn sống cuộc đời của một con người bình thường như chúng ta trước đây mà thôi. Dĩ nhiên việc Ông Bob không phải là tu sĩ sẽ là cái gai nhọn trước mắt Giáo Hội. Do đó các luật sư đề nghị một bản án bao dung cho Ông Bob, chẳng hạn như cô lập ông vào một trại giam nào đó. Khi cả loài người đã chuyển hóa như thế này, dù có để ông sống tự do ngoài đời thì ông cũng không thể tồn tại được. Nó giống như một cây sậy sống giữa một rừng tre, như ném một con cá lên bờ vậy. Thế nhưng đề nghị của luật sư đã bị các tu sĩ điều hành các trung tâm cải huấn - nay gọi là các Trung Tâm Sám Hối - phản đối kịch liệt. Quý vị này cho rằng các Trung Tâm Sám Hối chỉ để giam giữ các tu sĩ vi phạm giáo luật, không thể giam giữ các “thường phạm”. Thường nhân không thể sống chung với tu sĩ. Cuối cùng, sau khi nghị án, Tòa Án Tôn Giáo tuyên bố Ông Bob bị quỷ ám, không thể sống chung trong giáo đoàn và phải bị lưu đày vĩnh viễn ra ngoài hoang đảo.
Ngày Ông Bob bị áp tải xuống tàu, vai ông đeo một chiếc ba-lô trong đó đựng một chiếc rìu, một cái chăn, một cái bát ăn cơm, một cục đá lửa, còn tay thì xách chiếc cần câu. Đó là tất cả vật dụng mưu sinh mà ông được phép mang theo. Ông trông giống như Robinson Crusoe ngày xưa. Trong khi bước đi, nước mắt ông trào ra. Nhìn lại sau lưng mình, một rừng, một rừng tu sĩ đang ngắm nhìn ông, một con người lạ kỳ bị quỷ ám. Bị quỷ ám cho nên không trở thành tu sĩ như tất cả mọi người. Với ý nghĩ mình bị quỷ ám ông phá lên cười như một người điên rồi ông lẩm bẩm;
“Chắc chắn mình không bị quỷ ám nhưng trong một xã hội, nếu mọi người làm đúng mà một mình mình làm sai thì mình là một gã điên. Còn trong khi cả xã hội làm sai mà chỉ có mình làm đúng thì mình cũng là một gã điên! Mà người điên thì không thể sống chung với người không điên. Hy vọng ra ngoài hoang đảo mình sẽ gặp một con khỉ nào đó để bầu bạn cho khuây khỏa!”
Đào Văn Bình
(Trích tuyển tập Mê Cung do Ananda Viet Foundation xuất bản, Amazon phát hành)