• Lá Thư Paris, Nguyễn thị Cỏ May
Võ Văn Kiệt hay Võ Văn Kẹt?
Ảnh Wikipedia
Sách "Bên thắng cuộc" của Huy Đức kể lại nhiều chuyện bí ẩn trong hàng ngũ cộng sản mà người ngoài, nhất là người miền Nam, ít ai biết và cả một số chuyện liên hệ tới giới chức miền Nam sau 30.04/75 trong cải tạo và tù vượt biên dưới thời ông Võ Văn Kiệt. Có chuyện tác giả kể hấp dẫn nhưng không đúng sự thật bởi chính người trong cuộc, tức nạn nhân, đọc qua chuyện của mình đã phải ngạc nhiên. Nhưng dầu sao, sách "Bên thắng cuộc" vẫn có giá trị thông tin khá hơn nhiều sách khác của người cộng sản viết mà ta đọc qua.
Dân Nam kỳ cũng kỳ
Trong lúc làm việc ở Sài Gòn, Ông Kiệt được cảm tình của một số trí thức miền Nam thua cuộc. Họ chụp Ông Kiệt như cái bụp dừa để bám, không phải để lội qua sông, mà để khỏi chết chìm ngay trước mắt.
Ông Kiệt lúc làm Thành Ủy ở Sài Gòn đã dám mời một số trí thức miền Nam, sau thời gian học tập, giúp ông giải quyết những khó khăn kinh tế xã hội do chính sách bao cấp theo cách quản lý xã hội chủ nghĩa gây ra để kịp tránh cho Việt Nam khỏi bị sụp đổ. Khi nghe tin trí thức miền Nam vượt biên bị bắt và ở tù, ông lập tức cho người đi lãnh ra và giữ họ làm việc với ông. Bày tỏ sự cởi mở với anh em miền Nam và niềm tin tình hình Việt Nam sẽ khả quan, ông vui vẻ nói với anh em miền Nam mà ông vừa lãnh về: "Mấy anh ở lại làm việc. Trong 5 năm nữa mà Việt Nam không khá thì tôi để mấy anh ra đi tự do".
Một anh phản biện: "Thưa ông, nếu 5 năm nữa mà Việt Nam không khá, thì ông ra đi, để cho tụi tui làm việc. Chớ sao tụi tui lại ra đi?".
Thế là cùng cười với nhau. Người phát biểu câu này còn sinh sống ở hải ngoại.
Ở Sài Gòn trước 75, giới thương gia vải sợi đều biết Ông Phạm Văn Hai, biệt danh là Cậu Hai An nhân, chủ lò nhuộm. Màu đen là do ông khám phá ra từ trái rừng - trái mạc nưa. Màu đen của ông chế tạo rất tốt, đen nhánh, càng giặt càng đen, không phai màu. Lảnh mỹ a, vải ú đen, lụa đen,... đều nhuộm bằng màu đen mạc nưa. Sự tìm ra màu đen của ông đã tiết kiệm được cho chính phủ Sài Gòn hằng năm một số ngoại tệ khá lớn vì khỏi nhập cảng màu đen.
Sau 75, ông giao sự nghiệp của ông cho nhà cầm quyền cộng sản để phủi tay. Nhưng họ từ chối, bảo cái gì của ông, ông cứ giữ. Cách mạng không lấy cây kim sợi chỉ của ai hết cả.
Ông giữ và làm gác-gian cho kho hàng và cơ sở kỹ nghệ của ông. Những bành tơ sợi, thuốc nhuộm, bị bỏ lăn lóc ngoài sân dưới mưa nắng. Ông thấy xót ruột, phải tự đem vào kho cất.
Cán bộ Ban Khoa học cộng sản lấy hết tài liệu về nhuộm và bắt ông hướng dẫn cách thực hành. Xong đem ra Hà Nội nạp. Nhưng họ không áp dụng được nên phải trở vào Sài Gòn gặp lại ông và yêu cầu ông ra Hà Nội làm việc những công trình khoa học của ông, ông phải nói là do đảng lãnh đạo mà ông thành công. Ông từ chối và nói rõ công trình đó vẫn là của ông nhưng ông cho, ai muốn xử dụng cũng được.
Ông Hai là bạn cỡi trâu với Ông Kiệt ở nhà quê Vũng Liêm. Con nhà nghèo chỉ mới đi học trong làng. Lúc vừa lớn lên, có nhà điền chủ nhờ ông dẫn hai người con trai qua Pháp du học. Ông nhận lời. Ở Paris, có sẵn chỗ ăn, chổ ở. Ngoài công việc dẫn hai công tử đi học, ông rảnh rang. Ông đi học thêm và sau cùng, ông ghi tên học ở Conservatoire National des Arts et Métiers có lớp dành cho người lớn tuổi tới học đủ ngành nghề thực dụng tùy theo khả năng của mình. Điều kiện vào học rất dễ nhưng thi lên lớp mới khó nên bằng cấp của trường có giá trị không thua nhiều trường kỹ sư có thi tuyển.
Ông tốt nghiệp kỹ sư Hóa học
nên về Sài Gòn lập Lò Nhuộm An Nhân.
Sau thời gian vài năm sống với cộng sản, ông quyết định phải tìm cách đi khỏi xứ. Ông vượt biên nhiều lần bị bắt và mỗi lần bị bắt, thì được ông Kiệt can thiệp thả ra. Khuyên ông đừng đi nữa vì lãnh ông ra hoài cũng khó. Lần sau cùng, trước khi đi, ông viết thư để lại “chuyến đi này là hoàn toàn do tôi quyết định. Vợ con của tôi chỉ nghe lời tôi đi theo. Nếu tôi bị bắt, cứ giết tôi nhưng hãy thả gia đình tôi”.
Ông bị bắt. Và Võ Văn Kiệt thêm một lần nữa can thiệp. Và lần này, Ông Kiệt nói với ông: “Tôi ký giấy cho anh đi chính thức qua Thụy sĩ. Anh ở đây có ngày tụi nó giết anh”.
Khi làm thủ tục xuất cảnh, công an giằn mặt ông: “Anh tưởng chúng tôi cần những thứ ngụy như anh à? Chúng tôi làm xã hội chủ nghĩa hai mươi năm nữa cũng được. Miễn là chính chúng tôi làm và thành công”.
Qua thời kỳ đổi mới, Ông Phạm Văn Hai trở về Sài Gòn và gặp Ông Kiệt. Ông Hai tìm hiểu về đá saphir của Việt Nam. Theo ông, Thái Lan qua mua đem về rồi mài lại, bán ra, hằng năm thu về được 600 triệu đô-la. Ông đem chuyện nói với Ông Kiệt là nếu để ông mua lại saphir và trau dồi tại Sài Gòn, mỗi năm ông có thể thu về cho Việt Nam tới cả tỷ đô-la. Ông Kiệt đồng ý yểm trợ thực hiện dự tính kinh doanh của ông. Có ngay 3 ngân hàng tham gia. Ông Hai trở về Los Angeles học nghề với một nhà kỷ nghệ saphir ở Los Angeles vốn là người kế nghiệp của nhà kỹ nghệ Thụy Sĩ tại Genève. Về mặt kỹ thuật, ông thành công qua vài cuộc triển lãm saphir ở Hoa Kỳ.
Ông trở về Sài Gòn với những viên saphir sản phẩm của ông. Ông nhận tiền ngân hàng mở Labo và làm việc. Ông đào tạo một lớp chuyên viên. Khi những hột saphir bắt đầu bán ra thị trường thì cũng là lúc đảng cộng sản ra tay phát huy quyền làm chủ cơ sở của ông. Thế là ông chạy trở về Mỹ. Ông Kiệt cũng “kẹt” nên không làm gì giúp người bạn thời niên thiếu đầy thiện chí.
Bạn bè trách ông cứ để cho bọn cộng sản gạt. Ông thản nhiên nói “Anh em biết tánh tôi mà. Tôi chỉ cần cho thấy là tôi thành công, còn ai giựt thì cứ giựt. Nhưng giựt rồi có làm được hay không?”.
Ông Võ Văn Kiệt trước sau vẫn là người cộng sản mà với người cộng sản thì “áo làm sao mặc qua khỏi đầu” được? Nên người ta đặt cho Ông Kiệt cái tên phù hợp với ông “Võ Văn Kẹt”. Nhờ biết giữ thế “kẹt” mà ông leo lên tới ghế Thủ tướng và sống giàu sang tới 85 tuổi với bà vợ trẻ, bà Phan Lương Cầm, biệt danh là “Bà 10%” khi xây dựng đường giây cao thế Bắc-Nam. Bà Cầm có thời du học về môn Hóa học ở Hòa Lan.
Khi cưới bà Cầm, Ông Kiệt đã có tuổi nên dân chúng Sài Gòn hát tặng ông:
“Cụ Kiệt cưới Cô Cầm.
Cái Cô Cầm cần, Cụ Kiệt cốc có
Cái Cụ Kiệt có, Cô Cầm cóc cần”.
Nhưng nghe nói bà Cầm có bầu và qua Thụy Sĩ sanh đẻ cho chắc ăn. Ông Kiệt già mà có con mọn. Cũng hay. Dầu sao ông cũng là ủy viên Chính trị bộ, chớ bỏ sao?
Vì chuyện gia đình, Ông Phạm Văn Hai thường qua Paris. Một hôm, tình cờ gặp lại Ông Trịnh Vĩnh Bình tỵ nạn ở Hòa Lan, đi bán sữa đặc có đường Ông Thọ, ông bảo ông Trịnh Vĩnh Bình hãy làm chả giò bán kiếm lời mau và nhiều hơn. Ông cho bí quyết làm chả giò giữ giòn được lâu. Ông thương Ông Trịnh Vĩnh Bình vì lúc ở Sài gòn, ông thấy Ông Bình là một thanh niên có tài buôn bán vải. Ông Bình nắm trong tay một khúc vải, vò vò rồi buông ra, có thể cho biết khá chính xác thành phần vải có bao nhiêu phần trăm coton, polyester,… Nhờ đổi qua làm và bán chả giò theo công thức của ông Phạm Văn Hai cho, Ông Trịnh Vĩnh Bình phất lên làm “vua chả giò” (cũng là vua chớ bộ?) và ngày nay cũng là Đại gia ở Sài Gòn nhờ biết cách làm ăn theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vả lại Ông Trịnh Vĩnh Bình là người gốc tàu thì chỗ nào có dưỡng khí là sống được và sống theo đuổi triết lý “lượm bạc cắc”! Mà bạc cắc thì xưa nay là thứ xuyên quốc gia và không có mùi, cả mùi cộng sản!
Lần này, bạn rủ ông qua Miên tìm saphir làm nữa vì vùng có saphir lúc đó không còn dưới sự kiểm soát của Khờ-me đỏ, ông Hai nhận lời liền. Con trai của ông ngăn cảng nhưng ông bảo “Tao còn mạnh mà mậy. Mới có 80 ăn thua gì!”. Chờ qua sau Tết, có người đưa qua Miên và giới thiệu với chính quyền sở tại để bắt tay thực hiện dự tính khai thác saphir. Noël tới. Ông viết thiệp chúc Noel bạn bè, chưa kịp gởi đi, thì ông đột ngột mất!.
Không có người cộng sản khác hơn
Nguyễn Văn Linh, tự Mười Cúc, gần như suốt đời hoạt động trong Nam. Ông phải am hiểu tâm tình người Nam hơn ai hết. Các bà già trầu Nam kỳ đều thương ông vì thấy ông chỉ có một thân một mình ở đây đi làm kháng chiến. Ông sống xót để leo lên tới tột đỉnh danh vọng trong hệ thống cộng sản là hoàn toàn nhờ gáo nước, nồi cơm của đất Nam kỳ. Nhưng khi có quyền, không chỉ vô ơn bạc nghĩa theo bản chất người cộng sản chuyên chính, mà ông còn tìm cách ám hại, triệt tiêu những đồng chí Nam kỳ của ông. Như Hồ Chí Minh đã hạ Nguyễn Văn Cừ giữ quyền lãnh đạo đảng cho Miền Bắc, sát hại tất cả những người yêu nước chân chính thời kháng chiến để cướp công kháng chiến cho cộng sản quốc tế. Vì bản chất thật của người cộng sản là “mục tiêu”. Mục tiêu giờ đây sẽ không phải là mục tiêu của thời hô hào toàn dân kháng chiến. Tình cảm, ơn nghĩa, ăn ở có trước, có sau,… là những thứ sản phẩm của tiểu tư sản, không phải đạo đức cách mạng của cộng sản thứ thiệt.
Tháng 3 năm 1988, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng đột ngột qua đời. Theo Hiến pháp thì ông Kiệt sẽ lên thay cho đến khi Quốc hội bầu ra người mới.
Tháng 6 cùng năm, Quốc hội nhóm họp đã bầu Đỗ Mười mặc dù rất nhiều đoàn đại biểu đề nghị ông Kiệt. Hơn nữa, ai cũng biết Đỗ Mười dốt đặc cán mai, cốt tử thiến heo và còn mang bịnh tâm thần trầm kha, đêm từng leo lên cây bàng cạnh bịnh viện hát nghêu ngao “Ai yên Bác hồ hơn….”. Đám y tá đã phải “lạy cụ tuột xuống cho chúng con nhờ”.
Ông Linh cho tới lúc hấp hối vẫn hô hào hạ bệ cho kỳ được ông Kiệt khỏi những chức vụ lãnh đạo tối cao. Giữa năm 1995, Chính phủ ông Kiệt gặt hái được nhiều thành tích, uy tín của ông lên cao. Khi đó Tổng bí thư Đỗ Mười đã ở tuổi 80. Ông Kiệt trở thành một ứng cử viên nặng ký cho chức tổng bí thư vào kỳ Đại hội VIII.
Điều này đã làm cho Ba Tàu Bắc Kinh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, và đặc biệt là ông Linh trở nên quyết liệt hơn, tàn nhẫn hơn đối với ông Kiệt. Ông Linh tung ra trận đánh tổng lực với nhiều chiến thuật khác nhau. Vừa triệt hạ uy tín ông Kiệt, ông Linh tìm cách cô lập và loại ông Kiệt ra khỏi Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị. Ông Kiệt không được tham dự vào các quyết định quan trọng nữa.
Đồng thời, ở Hà Nội, ông Linh lôi kéo ông Nguyễn Hà Phan khi Phan được ông Kiệt cất nhắc ra Hà Nội làm Phó cho ông năm 1986. Ở đây, Phan tưởng tương lai sẽ rộng mở cho mình nên cấu kết với nhóm của ông Linh. Phan bắt đầu trở mặt tấn công nhằm hạ bệ ông Kiệt để giật chiếc ghế Thủ tướng. Nhờ thành tích tấn công ông Kiệt, tháng 1/1994, nhân Hội nghị giữa nhiệm kỳ, Phan được kết nạp vào Bộ Chính trị.
Trước thế lực mới và âm mưu thâm độc của đối phương trong đảng, ông Kiệt kỳ này sẽ thật sự bị kẹt và suy vong luôn?
Nhưng không. Nhờ một cựu cán bộ đảng ở Cà Mau mách nước cho Nguyễn Tấn Dũng tố cáo tội lỗi của Nguyễn Hà Phan lúc ở tù, Phan khai rõ tổ chức của Phan giúp Pháp bắt và tiêu diệt sạch. Khi ra tù, Phan còn khai thành tích lấy công của đồng đội chết... Sự tố cáo của Nguyễn Tấn Dũng vừa cứu nguy ông, vừa giành chiếc ghế Thủ tướng cho ông, vừa dọn đường cho Phan Văn Khải và, nhất là Nguyễn Tấn Dũng, người có công lớn tiến thân tiếp theo. Ngôi sao của cộng sản Nam kỳ bỗng nhá lên sáng!
Võ Văn Kiệt là người cộng sản đặc sệt, gốc Nam kỳ, tranh đấu gần như trọn đời ở trong Nam hẳn phải hiểu rõ hai điều. Tại sao đồng bào Miền Bắc di cư 54 khi cộng sản về Hà Nội và dân Miền Nam vượt biển 30/04/75 khi cộng sản Hà Nội chiếm được Miền Nam. Điều thứ hai là lịch sử xuyên suốt của cộng sản, đối với đối phương, là cướp đoạt chính quyền bằng bạo lực và dôi trá; đối với đồng chí, là thẳng tay hạ nhau để trèo lên.
Cộng sản bạc đầu, ông Kiệt phải lao mình vào trò chơi tương quan lực lượng theo qui luật biện chứng “ai thắng ai”. Ông thật tình làm tên Võ Văn Kẹt!
Thật ra trong con người của Ông Kiệt, tuy Nam kỳ nhưng không có chất Nam kỳ thứ thiệt vì ông không phải nông dân mà cũng không phải tiểu tư sản thật lòng lên đường làm chiến tranh giải phóng dân tộc! Ông theo cộng sản, cũng như bao nhiêu người khác, chỉ vì không biết làm việc gì khác hơn!
Rất tiếc trường hợp ông Võ Văn Kiệt vẫn chưa đủ làm bài học chơi với cộng sản cho đám Nam kỳ chạy theo cộng sản từ thành phần thứ ba, từ chính phủ lâm thời cho tới ngáy nay, về đầu tư, về giúp nước!
Nguyễn thị Cỏ May