Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam
Khóa 16
Với 6 đại tá, 11 Trung Tá oai hùng của QLVNCH
(theo vobivietnam.org)
1. TỔNG QUÁT.Nhằm đào tạo Sĩ Quan Hiện Dịch cho cả 3 Quân Chủng: Hải, Lục và Không Quân, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã ký Sắc Lệnh số 317/QP/TT ngày 29-7-1959 cải tổ Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt thành Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (TVBQGVN) với chương trình Văn Hóa và Quân Sư 4 năm. Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ) Khóa 16 được tuyển chọn và huấn luyện theo tinh thần sắc lệnh này. Sau ngày mãn khóa, các tân sĩ quan có trình độ Văn Hóa tương đương năm thứ 2 Đại Học Dân Sự và trình độ Quân Sự vững chắc để chỉ huy đơn vị cấp Trung Đội và Đại Đội trong cuộc chiến tranh mới chống lại ý thức hệ cộng sản. Khóa 16 là khóa đầu tiên đặt nền móng cho chương trình huấn luyện mới, tạo tiền lệ cho các khóa sau, phải trải qua những giai đoạn thanh lọc và thử thách cam go. ![]() Khóa Sinh K16 trình diện nhập học tại TVBQGVN cũ. - Nhập Trường: Ngày 23-11-1959. - Số Khóa Sinh Nhập Trường: 326. - Thời Gian Thụ Huấn: Từ ngày 23-11-1959 đến ngày 22-12-1962. - Mãn Khóa: Ngày 22-12-1962. - Số sĩ quan tốt nghiệp: 226. - Vị Chủ Tọa Ngày Mãn Khóa: Tổng Thống Ngô Đình Diệm. - Tên Khóa: Khóa Ấp Chiến Lược. - Thủ Khoa: SVSQ Bùi Quyền. ![]() Khóa sinh K16 được các NT K14 tiếp đón tại phi trường Liên Khương 2- KHÓA 16 - THỜI GIAN THỤ HUẤN. Năm thứ 1. - Nhập học tại Trường Cũ, gần Hồ Mê Linh. - Chỉ Huy Trưởng: Thiếu Tướng Lê Văn Kim. - Trong 8 tuần sơ khởi, một số khóa sinh bị loại vì lý do sức khỏe và lý lịch. - Ngày 5-6-1960, TT Ngô Đình Diệm đặt viên đá đầu tiên xây Trường mới trên đồi 1515. Khởi đầu 8 tuần lễ sơ khởi ![]() Chuẩn bị ra bãi tập ![]() SVSQ K14 gắn Alpha cho TKS/K16 sau 8 tuần lễ Sơ Khởi. Tổng Thống Ngô Đình Diệm đặt viên đá đầu tiên xây cất TVBQGVN trên đồi 1515, ngày 5-6-1960. Đội hình Liên Đoàn SVSQ đầu tiên tại Trường mới trên đồi 1515 với 2 khóa 16 và 17. ![]() SVSQ/K16 năm thư 1, quân phục làm việc Năm thứ 2: - Chỉ Huy Trưởng: Tr/Tá Trần Ngọc Huyến thay thế Th/Tướng Lê Văn Kim sau biến cố Chỉnh Lý ngày 11-11-1960. - 52 SVSQ, vì số điểm văn hóa dưới trung bình, mặc dầu điểm quân sự cao, được chuyển về thụ huấn Khóa 2 Trường Hạ Sĩ Quan tại Nha Trang, tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn Úy Hiện Dịch. - Khóa đầu tiên được tuyển chọn về 2 Quân Chủng Hải Quân và Không Quân từ cuối năm thứ 2. Đại diện BTL/KQ lên Trường chọn 30 SVSQ, và đại diện BTL/HQ chọn 15 SVSQ. Những SVSQ này sau khi mãn khóa sẽ trình diện Quân Chủng liên hệ để theo học chương trình huấn luyện chuyên môn. ![]() SVSQ/K16 năm thứ 2, quân phục dạo phố Mùa Hè. ![]() SVSQ/K16 trong một lớp học Văn Hóa. ![]() Phòng thí nghiệm hóa học Năm thứ 3: - Sau ngày Khóa 15 mãn khóa, kể từ ngày 3-6-1961, Khóa 16 đảm trách Hệ Thống Tự Chỉ Huy Liên Đoàn SVSQ/TVBQGVN (LĐ/SVSQ). - Tháng 8/1961, K16 và K17 được chuyển sang doanh trại Trường Võ Bị mới tại đồi 1515. LĐ/SVSQ gồm 2 khóa. - Ngày 23/11/1961 Khóa 18 nhập học, K16 đảm trách huấn luyện TKS Khóa 18. - Du hành quan sát: Thăm các quân trường (Pháo Binh, Hải Quân, Biệt Động Quân, Công Binh, Truyền Tin). Thăm các BTL/TQLC, SĐ5/BB. Quan sát nhẩy dù biểu diễn tại bãi nhẩy dù Củ Chi. - Thụ huấn khóa Rừng Núi Sình Lầy nửa tháng tại TTHL/BĐQ Dục Mỹ, Nha Trang. Doanh trại TVBQGVN trên đồi 1515 ![]() TVBQGVN chiếm giải Nhất Diễn Hành Quốc Khánh, ngày 26/10/1961, với 2 khóa 16 và 17 tại Sài Gòn. ![]() Huấn luyện TKS/K18 ![]() ![]() ![]() Du hành quan sát Lữ Đoàn Dù ![]() Du hành quan sát TTHL/HQ Nha Trang ![]() Năm thứ 4. - Ngày 21-11-1962 K19 nhập học, LĐ/SVSQ có 4 khóa: 16, 17, 18 và 19. - Hoàn tất chương trình thụ huấn 4 năm thu gọn trong 3 năm 1 tháng theo chỉ thị của TT Ngô Đình Diệm vì tình hình chiến sự. - Tuyển chọn đơn vị. Các tân thiếu úy được phân phối: TT Ngô Đình Diệm và Đại Tướng Lê Văn Tỵ duyệt đội hình SVSQ/K16 TT Ngô Đình Diệm và Tr/Tá CHT Trần Ngọc Huyến gắn cấp bậc Th/Úy cho Thủ Khoa Bùi Quyền Tân Th/Úy K16 tuyên thệ Tân Th/Úy K16 diễn hành qua khán đài ![]() Tân Thiếu Úy K16 chụp hình lưu niệm TT Diệm ăn trưa sau Lễ Mẵn Khóa 16 Lục Quân. - Lưu dụng tại Trường: Vì muốn duy trì các hệ thống chỉ huy và huấn luyện theo tinh thần cải tổ của TVBQGVN, 15 tân sĩ quan K16 được BCH Trường đề nghị, Bộ TTM cho lưu giữ sau khi tốt nghiệp, để đảm nhiệm các chức vụ chỉ huy trong LĐ/SVSQ và huấn luyện viên quân sự. Sau đó, số sĩ quan này đã được thuyên chuyển về các đơn vị. Thời gian sau lại có một số khác từ các đơn vị tác chiến được thuyên chuyển về Trường . - Nhẩy Dù: 3 tân sĩ quan được tuyển chọn. Sau này được thuyên chuyển về thêm 2 sĩ quan K16. - Thủy Quân Lục Chiến: 10 tân sĩ quan được tuyển chọn. 3 SQ/K16 khác cũng đã được thuyên chuyển về Binh Chủng. - Biệt Động Quân: 13 tân sĩ quan được tuyển chọn. - Lực Lượng Đặc Biệt: Không ai được tuyển chọn. Về sau, 3 SQ/K16 được thuyên chuyển về. - Các Sư Đoàn Bộ Binh: 166 tân sĩ quan chọn phục vụ 9 SĐ/BB. Không Quân:- 30 tân sĩ quan được chọn, tuy nhiên 2 người vì lý do an ninh nên BTL/KQ chỉ nhận 28. Trong số này có 11 sĩ quan theo khóa hoa tiêu trực thăng và 2 sĩ quan theo khóa hoa tiêu khu trục tại Hoa Kỳ. Số còn lại theo học khóa hoa tiêu trực thăng tại phi trường Tân Sơn Nhất. Gần cuối khóa, 2 sĩ quan qua ngành quan sát. Sau có 1 sĩ quan từ TQLC thuyên chuyển về TTHL/KQ Nha Trang, một thời gian lâu sau lên giữ chức Liên Đoàn Trưởng LĐ/SVSQ/KQ, và một sĩ quan bộ binh được tuyển về KQ phục vụ tại đơn vị phòng thủ căn cứ.Hải Quân:15 tân Th/Úy được thực tập trên các chiến hạm trong thời gian chờ nhập học Khóa 13/HQ vào tháng 5-1963. Nhưng vì không đồng ý đeo Alpha trở lại, 8 SQ/K16 xin đổi Quân Chủng được bộ TTM chấp thuận, chỉ còn 7 SQ/K16 nhập học Khóa 13/HQ và tốt nghiệp ngành chỉ huy vào tháng 12-64.3- KHÓA 16 - THÀNH TÍCH TỔNG QUÁT.Sĩ quan Khóa 16 mang cấp bậc cao nhất: 6 Đại Tá, trong đó 1 Đại Tá tử trận, 1 Đại Tá bị bức tử trong trại tù lao động khổ sai CS tại Hoàng Liên Sơn năm 1976, và 1 Trung Tá tử trận được truy thăng Đại Tá. SQ đảm nhiệm các chức vụ quân sự tại: - Trường VBQGVN: Các sĩ quan cán bộ Trung Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, và Đại Đội Trưởng của Trung Đoàn SVSQ; Trưởng Phòng Điều hành quân sự vụ, và các SQ/HLV các bộ môn quân sự. - Không Quân: 1 Không Đoàn Trưởng, 1 Không Đoàn Phó, 6 Phi Đoàn Trưởng, 1 Tham Mưu Phó An Phi SĐ, 1 Trưởng Phòng kế hoạch BCH/Liên Đoàn Kiểm Báo, 1 Trưởng Phòng Thống Kê & Huấn Luyện BCH/HQ/KQ, 1 sĩ quan phòng thủ căn cứ, 1 Liên Đoàn Trưởng LĐ/SVSQ thuộc TTHL/KQ Nha Trang. - Hải Quân: 3 Hạm Trưởng, 1 CHT của BTL/HQ, 1 CHT/Căn Cứ HQ Nha Trang, 1 sĩ quan Đại Diện HQ tại Bộ TTM, 1 sĩ quan đại diện HQ tại TT/Phát Triển Khả Năng Tác Chiến. - Bộ TTM: Trưởng Ban các Phòng, Sở và Tổng Hành Dinh, ĐĐT/ĐĐ1/Quân Cảnh. - Nhẩy Dù: 2 Lữ Đoàn Trưởng (LĐT), 1 LĐ Phó, 1 Tiểu Đoàn Trưởng. - Thủy Quân Lục Chiến: 2 LĐT, 2 LĐP, 3 Trưởng Phòng BTL/SĐ/TQLC, 5 TĐT, 1 LĐT và 1 LĐP mất tích, 1 LĐT chết trong trại tù lao động khổ sai của CS tại Bắc Việt. - Lực Lượng Đặc Biệt: 1 CHT Đoàn Công Tác 11 thuộc Sở Công Tác Nha Kỹ Thuật TTM, 1 Phụ tá B Trưởng KonTum, 1 HLV/LLĐB tại Long Thành, 1 Chỉ Huy Toán. - Biệt Động Quân: 1 Liên Đoàn Trưởng và một số TĐT. - Bộ Binh: 7 Tr/Đoàn Trưởng (2 tử trận và 1 bị CS Hà Nội sát hại trong trại giam ở Miền Bắc) và một số Trưởng Phòng cấp SĐ, Tr/Đoàn Phó, Liên Đoàn Trưởng Địa Phương Quân. * Nha Quân Pháp: 1 Giám Đốc Quân Lao, 1 CHT Trại Giam tù phiến cộng. * Chức vụ hành chánh: 2 Tỉnh Trưởng, và 27 Quận Trưởng (6 QT đã hy sinh) Một số Trưởng ty các Bộ trong chính phủ. BTL Cảnh Sát, và 4QT Cảnh Sát. - Chức vụ Dân Cử: 3 Nghị Viên. - Bằng cấp đại học: 3 người, 1 đậu Cao Học Khoa Học vi tính (mất cuối năm 1992), 1 thương binh loại 2 giải ngũ, đậu KS Công Nghệ tại TT/KT Phú Thọ, đậu thêm Cao Học Đông Y tại HK, và 1 đậu bằng cử nhân Luật Công Pháp, năm thứ nhất cao học. 4- KHÓA 16 - HY SINH 1, 2 NĂM ĐẦU.Vì tình hình chiến sự do CSBV gây ra từ đầu thập niên 1960, Bộ TTM/QLVNCH theo lệnh của Tổng Thống, đã cho rút ngắn chương trình huấn luyện, khởi đầu từ Khóa 16, giảm từ 4 xuống 3 năm, và các Khóa 17,18,19,20,21 và nửa Khóa 22 xuống 2 năm. Mấy năm đầu sau khi mãn khóa, các sĩ quan Khóa 16 đã hứng chịu nhiều thương vong. Sau đây là một số hy sinh đáng nhớ: * Th/Úy NHỮ VĂN HẢI, SĐ21/BB, SQ tử trận đầu tiên của * Th/Úy LÝ VĂN QUẢNG TĐ8/ND, tử trận tháng 4-1963 lúc 26 tuổi. * Th/Úy NGUYỄN TẤN MỸ Tr/Đoàn 44/SĐ23/BB tử trận giữa năm 1963. * Th/Úy HỒ XUÂN QUANG Tr/Đoàn 45/SĐ23/BB tử thương giữa năm 1963. * Th/Úy NGUYỄN THẾ ĐỨC tử thương ngày 1-4-1963. * Th/Úy TRẦN THIỆN GÁI, SĐ1/BB, tử trận tháng 5-1963 lúc vừa qua 24 tuổi, tại Căn Cứ A Lưới, phía Tây Thành Phố Huế. Vài năm sau, một con đường trong Thành Nội được đặt tên: Đường TRẦN THIỆN GÁI. * Th/Úy VŨ CHẤN HÙNG BB, tử trận ngày 25-11-1963. * Th/Úy TRẦN TRỌNG MINH tử trận ngày 27-10-1963. * Th/Úy TRỊNH AN THẠCH TĐ1/TQLC, tử trận ngày 6-12-1963, mới 24 tuổi. * Tr/Úy BÙI THANH TÂM SĐ22/BB, tử trận tại đồi Dương Liễu, Tam Quan, 1965. * Th/Úy LÊ ĐỨC RIỆP, tử trận ngày 27-7-1964. * Th/Úy NGUYỄN PHƯƠNG SANH, tử trận tháng 7-1964. * Th/Úy TRẦN NGỌC SƠN, tử trận ngày 8-4-1964. * Th/Úy BẢO SUNG và Th/Úy PHAN VĂN TÂN. ![]() * Đ/Úy MAI NGUYÊN HƯNG KQ, phi công khu trục cơ AD-6. Sau một phi vụ Bắc Phạt năm 1965, trên đường bay đêm về căn cứ KQ Biên Hoà, phi cơ của Tr/Úy Hưng, phần vì bị trúng đạn phòng không địch, phần cạn xăng, phải đáp khẩn cấp xuống phi trường Phước Long. Vì phi đạo ngắn, phi cơ lâm nạn, Tr/Úy Mai Nguyên Hưng tử thương. được Truy Thăng Đại Úy, mất ở tuổi 24. * Thiếu Tá HOÀNG LÊ CƯỜNG. Từ 24-4-72 đến 1-5-72, địch vây hãm 2 căn cứ Bình Dương. Quận Phù Mỹ và Đệ Đức, Quận Hoài Nhơn, Bình Định. Vì áp lực địch đè nặng lên khu vực trách nhiệm, Th/Tá Cường cùng viên Cố Vấn Hoa Kỳ từ Quận lái xe qua cầu Bồng Sơn đến TĐ/ĐPQ thuộc quyền để duyệt xét tình hình. Sau đó, Th/Tá Cường đến BCH/TĐ2/40 để yêu cầu phối hợp phòng thủ Quận. Th/Tá Cường trở về BCH Chi Khu để chỉ huy lực lượng tại đây đang trong tình trạng nguy hiểm. Khi lái xe qua cầu Bồng Sơn trở về Quận, xe jeep của Th/Tá Cường đã bị VC bắn cháy trên cầu, chỉ cách quận lỵ khoảng 500 thước, Th/Tá Cường hy sinh tại chỗ. Bộ TTM đã đặt tên cho K29/TVBQGVN là: Khóa Hoàng Lê Cường. 5- KHÓA 16 - THÀNH QUẢ THEO THỜI GIAN. Đại Tá NGUYỄN HỮU THÔNG. Trung Đoàn Trưởng Tr/Đoàn 42 SĐ/22BB. Tháng 3-1975, khi Ban Mê Thuột thất thủ, SĐ 22 chỉ còn 3 Tr/Đ để phòng thủ Bình Định vì Tr/Đ 40 đã phải tăng phái cho SĐ23 BB tại tuyến bắc Khánh Dương. Tại Bình Định, Tr/Đoàn 47 của Đ/Tá Lê Cầu (K18) được giao khu vực bắc Bình Định, lo trấn giữ Bồng Sơn, cửa ngõ ra vào thung lũng An Lão (Xem tiếp phần Đại tá Nguyễn Thiều, phần sau). Trung Tá NGUYỄN XUÂN PHÚC. Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2/TQLC - LĐ Phó LĐ147 và LĐ Trưởng LĐ369/TQLC. "Khi tôi về làm TĐT/TĐ2 thay ông Minh tử trận tháng 6-1966 thì ông Chùa làm TĐP, Phúc làm ĐĐT/ĐĐ4. Tôi đề nghị cho ông Chùa về Sư Đoàn để ông Phúc làm TĐ Phó. Ngay những ngày đầu hành quân ở khu Cồn Thiên Gio Linh Quảng Trị, tôi đã nhận biết được Nguyễn Xuân Phúc TĐ Phó là một SQ gan dạ và là cấp chỉ huy tôi có nhiều cảm tình. Đến năm 67 tôi đề nghị cho anh đi học Chỉ Huy Tham Mưu. Đi học về, vì nhu cầu anh được làm TĐP/TĐ5, đánh trận Rạch Ruông, một trận chiến thắng lớn của TĐ5 năm 1968, sau đó anh được đi nhận chức TĐT/TĐ6 hành quân Mậu Thân ở Gia Định. Năm 1969, tôi bị thương nặng anh ra lãnh trách nhiệm chỉ huy TĐ2 thay tôi. Năm 1970, TĐ2 do anh chỉ huy trong trận Preveng ở Miên, đã đem vể cho hiệu kỳ TĐ2 một ngành Dương Liễu, và đây là Dương Liễu thứ 8 nên TĐ2 được mang dây biểu chương mầu Tam Hợp. Năm 1971 anh dẫn Trâu Điên sang Hạ Lào, anh thăng trung tá và vẫn coi TĐ2 cho đến khi đánh vào QT 1972 thì giao TĐ2 cho Thiếu Tá Hợp và đi làm Lữ Đoàn Phó 147...và sau đó làm Lữ Đoàn Trưởng LĐ 369/TQLC. Anh là một SQ quan giỏi, không bao giờ biết đến đồng xu cắc bạc nào của anh em. Không làm điều gì mất danh dự của Quân Đội và TQLC. Anh mất đi để lại cho tôi niềm luyến tiếc.". Tr/Tá Phúc được ghi nhận mất tích sau cuộc triệt thoái của SÐ/TQLC khỏi Ðà Nẵng sáng ngày 29-3-1975. Trung Tá ĐỖ HỮU TÙNG. Tiểu Đoàn Trưởng TĐ6/TQLC - Lữ Đoàn Phó LĐ258 và 369/TQLC. "Qua đợt đầu Cộng sản Bắc Việt tấn công mãnh liệt, hung hãn, ồ ạt, các căn cứ hỏa lực Carroll (Trung đoàn 56 thuộc Sư đoàn 3 Bộ binh) đầu hàng và Mai Lộc (Lữ đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến) phải cầm cự lui dần, khi căn cứ Pedro trở nên tuyến đầu phòng thủ. Thiếu tá Đỗ Hữu Tùng, Sĩ quan khóa 16 đalat, phong thái trầm tĩnh, luôn như suy nghĩ điều gì, từ từ, thủng thẳng trong mọi biến cố, kinh nghiệm chiến trường, một trong các Tiểu đoàn trưởng cự phách của Thủy Quân Lục Chiến, là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến biết thế nào căn cứ cũng bị chiến xa cùng quân bộ Cộng sản Bắc Việt tấn công kế tiếp, nên anh phối hợp với Lữ đoàn 258 xin đặt mìn chống chiến xa sâu về hướng Tây đường tiến sát đến căn cứ...". TĐ6/TQLC đã xử dụng tối đa mìn chống chiến xa, súng phóng hỏa tiễn chống chiến xa M72 và đại bác không dật 57 ly cơ hữu để tiêu diệt chiến xa địch, bắn cháy và gây tổn thất nặng cho gần 20 chiến xa địch. Th/Tá Đỗ Hữu Tùng được vinh thăng Trung Tá qua chiến thắng này. Ngày 1-10-1972, đảm nhận chức vụ LĐ Phó LĐ258, và ngày 1-7-1974 nhận chức vụ LĐ Phó LĐ369. Sáng ngày 29-3-1975, Tr/Tá Tùng được ghi nhận mất tích sau cuộc triệt thoái của SÐ/TQLC khỏi Ðà Nẵng. Trung Tá NGUYỄN VĂN CẢNH, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ3 và TĐ14/TQLC. Trung Tá NGUYỄN ĐẰNG TỐNG. Lữ Đoàn Phó LĐ147 - Lữ Đoàn Trưởng LĐ468/TQLC. Tháng 7-1974, sau khi được thăng cấp, Tr/Tá Nguyễn Đằng Tống được thăng chức LĐ Phó LĐ147 đến cuối tháng 3-1975. Ngày 24-4-1975, Tr/Tá Tống được bổ nhiệm làm LĐ Trưởng LĐ468 thay thế Đại Tá Ngô văn Định, chỉ huy các Tiểu Đoàn TQLC phòng thủ tuyến Biên Hòa. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tr/Tá Tống bị CS đi tù lao động khổ sai CS ngoài Bắc, và chết tại trại tù Yên Bái năm 1977. Trung Tá NGUYỄN KIM ĐỄ. Tiểu Đoàn Trưởng TĐ9/TQLC - Trưởng Phòng 3/SĐTQLC. Trước khi về Sài Gòn thụ huấn Khóa CH/TM Cao Cấp tại Long Bình, ngày 1-10-1974 Tr/Tá Đễ bàn giao P3/SĐ lại cho Tr/Tá Trần Văn Hiển TĐT/TĐ6/TQLC, vị TP3/SĐ cuối cùng của SĐ/TQLC. Cố Tr/Tá Nguyễn Kim Đễ qua đời ngày 9-12-2015 vì bạo bệnh tại TP Portland, TB Oregon, USA, hưởng thọ 76 tuổi. Đại Tá ĐẶNG PHƯƠNG THÀNH. Anh hùng Đặng Phương Thành, nguyên Đ/Tá Tr/Đoàn Trưởng Tr/ Đoàn 12/SĐ7BB QLVNCH là Danh Nhân Quân Sự Việt Nam. Danh tánh, sự tích của Đ/Tá Thành được ghi vào Tân U Linh Việt Điện (quyển sách ghi chép sự tích thần kỳ của những người đã lao tâm lao lực cứu nước giữ nước trong lịch sử Việt Nam cận, trung và hiện đại). Sự tích: Anh hùng Đặng Phương Thành đã tạo chiến thắng lớn trong trận cuối cùng tại Thủ Thừa tiêu diệt một trung đoàn VC trong tháng 4-1975, nhờ đó giữ vững đưọc Quốc Lộ 4 trong thời gian dầu sôi lửa bỏng này. Khi Đ/Tá Đặng Phương Thành đi tù CS ngoài miền Bắc, nhân lúc ông vượt ngục bất thành và bị bắt lại, hậm hực vì mối nhục thua trận Quốc Lộ 4, bọn cai ngục CS đã treo ông lên và đánh đập tàn nhẫn cho đến chết, ngày 9/9/1976. Trung Tá TRƯƠNG THÀNH TÂM. Không Đoàn Trưởng KĐ 64 Chiến Thuật, KQ. - Tháng 6-1970, tình nguyện bay nhiều phi vụ trực thăng võ trang đầu tiên của KQ/VNCH yểm trợ cho 4 Tiểu Đoàn TQLC/VN tái chiếm thành phố Prey Veng Cam Bốt từ quân CSBV. Sau cuộc hành quân này, PĐ/217 được ân thưởng huy chương Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu. - Tháng 1-1971 theo học Khóa CHTM Cao Cấp tại Long Bình và giữa năm này được thăng cấp Trung Tá. - Năm 1972, gởi 2 bạn cùng K16 Trần Châu Rết và Lê Văn Châu đang bay ở PĐ/217 qua nhận lãnh chức vụ PĐ Trưởng PĐ/225 và 227. - Tháng 5-1973, được chỉ định giữ chức vụ KĐ Phó KĐ/64 CT tân lập. Sau 3 tháng, đảm nhận chức vụ Không Đoàn Trưởng, chỉ huy 3 PĐ 217, 249 và 255, cùng Phi Đội Tải Thương 259 cho đến ngày 30-4-1975. Trung Tá Tâm định cư tại Nam California, qua đời ngày 6 tháng 9 năm 2016, hưởng thọ 77 tuổi. Trung Tá NGUYỄN VĂN ỨC. KQ. - 11-1959: Gia nhập Khoá 16 Trường VBQGVN. - 2-1962: Khi tốt nghiệp được tuyển về Quân Chủng KQ. - 4-1963: Học Khóa Hoa Tiêu Trực Thăng tại Hoa Kỳ. - 5-1964: Tốt nghiệp về phục vụ tại PĐ/217, KĐ/33 CT, sau được chuyển về KĐ/74 CT tại Cần Thơ. - 10-1969: Sĩ quan liên lạc Không Quân tại Hoa Kỳ. - 1-1971: Phi Đoàn Trưởng PĐ/221, KĐ43 CT, thuộc SĐ3/KQ tại Biên Hoà, trách nhiệm chỉ huy lực lượng trực thăng, yểm trợ cho mặt trận An Lộc. - 1-1973: Không Đoàn Phó KĐ/64 CT, thuộc SĐ4/KQ tại Cần Thơ. - Tham gia các sinh hoạt Cộng Đồng, đặc biệt ở các Hội Đoàn CQN tại TP Orange County, TB California từ tháng 4-1975 cho tới nay. HQ Trung Tá NGUYỄN NHƯ PHÚ. Hạm Trương Dương Vận Hạm Quy Nhơn HQ504. ![]() Cũng như một số rất đông Quân Dân Miền Nam không có phương tiện ra đi ngày 30 tháng tư năm 1975, hoặc vì lý do này hay lý do ![]() HQ Trung Tá Nguyễn Như Phú qua đời sau cơn bạo bệnh tại Kaiser Hospital, Anaheim, California ngày 6 tháng 3 năm 2016, hưởng thọ 78 tuổi. (Trích tin trên Net) Trung Tá LÊ MINH NGỌC, LĐT/LĐ4/ND và Trung Tá TRẦN ĐĂNG KHÔI, LĐT/LĐ3/ND. "... Về phần Lữ Đoàn 4, từ Đà Nẵng được rút về Sài Gòn giữa tháng 02-74, biệt phái Biệt Khu Thủ Đô. Chính Lữ Đoàn 4, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Minh Ngọc, mà anh em Dù chúng tôi âu yếm gọi là "Ngọc Nga", đã chận VC ở cửa ngõ Thủ Đô, ngang Xa Lộ Biên Hòa, trong những giờ khắc Sài Gòn bắt đầu rơi vào rối loạn. Lữ Đoàn 3 của Trung Tá Trần Đăng Khôi (Lữ Đoàn Phó mới thay thế Đại Tá Phát trong chức vụ Lữ Đoàn Tưởng Lữ Đoàn 3 Dù, Trung Tá Bùi Quyền Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5, thay thế Khôi trong chức vụ Lữ Đoàn Phó) từ Phan Rang rút về đóng ở Hoàng Hoa Thám, đánh những trận chót ngay trong lòng Thủ Đô, mặc dù trăm nghìn giao động cho tới phút chót. Đến những giây phút cuối cùng, anh em Dù vẫn giữ vững từng tấc đất được giao phó, hoàn thành nhiệm vụ thiêu thân nút chặn để đồng bào ra đi, để được ngã gục trên thân thể của Quê Mẹ nghìn đời...". Trung Tá NGUYỄN PHÚ THỌ. Trung Đoàn Phó Tr/Đoàn 3 SĐ1/BB. Ngày 21-4-72, nhân dịp ra Vùng I CT duyệt xét tình hình quân sự, TT Nguyễn Văn Thiệu đã quyết định thăng đặc cách thực thụ cho mọi quân nhân đang tử thủ tại 2 căn cứ trên. Cặp cấp hiệu Tr/Tá được thả theo dù tiếp tế và được binh sĩ Tiểu đoàn 1/54 thu nhặt mang về. Tr/Tá Thọ đã cười và nói một câu để đời bao hàm nhiều ý nghĩa: - “Tổng Thống thăng cấp cho tao nhưng lon lại do chính lính gắn cho tao”. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đơn vị được lệnh rút khỏi căn cứ. Lúc 13.00g ngày 30-4-72, trên đường rút lui, TĐ 1/54 bị Tr/Đoàn 29 của địch truy kích. TĐoàn 1/54 đã anh dũng chống trả một cách mãnh liệt. Sau trận này, Tr/Tá Nguyễn Phú Thọ được bổ nhiệm làm Tr/Đoàn Phó Tr/Đoàn 3/SĐ 1/BB. Họp Bạn Sau Ngày Rời Trường. ![]() Họp Khóa năm 1965 tại CLB/SQ An Đông, Chợ Lớn. Đứng: HTrang, NXPhúc, NVLong, TDQuang, NMChánh NDSự, NVBiên, BQPhầu, NVSử ĐHTùng, TNToàn, PNTỷ, LSĐức, PQDuy, TNLượng, LHCương. Ngồi: PKĐan, NVKim, ĐQHùng, NXQuang, LTTài, VKSinh, NĐThủy.
![]() Ba Ông Cọp nhà Nguyễn: Nguyễn Đ. Tống, Nguyễn X. Phúc và Nguyễn K. Đễ ![]() Thầy Trò hội ngộ ĐH/K16, Nam Cali USA, 22/11/2009 Từ trái: CaoYết, BNgô, SQCB LV Lữ, LSĐức, SQCB HB Sơn, BQuyền, HĐKhuê, PMĐức, NVAn 6- KHÓA 16 - VÀ SÁU (6) VỊ ĐẠI TÁ.Đại Tá NGUYỄN VĂN HUY, BĐQ. Một trong Ngũ Hổ Miền Tâỵ ![]() - Thăng Thiếu tá tháng 11-1965 (người đầu tiên K16 thăng thiếu tá). Năm 1968 Tr/tá Liên Đoàn Trưởng LĐ1/BĐQ, tái chiêm thị xã Huế, Tết Mậu Thân. - 1969-1973: Trung Đoàn Trưởng Tr/Đ 12/SĐ7/BB. Tham dự chiến trường Mộc Hóa, Compuchia. - 1973-1975: Đại tá Tỉnh Trưởng kiêm TKT Kiến Tường. - Được tưởng thưởng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, 21 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, 4 Chiến Thương Bội Tinh và 2 huy chương Hoa Kỳ. - Sau 1975, bị tù CS hơn 13 năm từ Nam ra Bắc. Hiện định cư tại Nam California, HK từ tháng 11-1991 (Trích từ cuốn "Lược Sử QL/VNCH" của 3 soạn giả: Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân và Lê Đình Thụy, trang 387). Đại Tá ĐẶNG PHƯƠNG THÀNH, SĐ7/BB. Khi Anh hùng Đặng Phương Thành đi tù cộng sản ngoài miền Bắc, nhân lúc ông vượt ngục bất thành và bị bắt lại, hậm hực vì mối nhục thua trận Quốc Lộ 4, bọn cai ngục cộng sản đã treo ông lên và đánh đập tàn nhẫn cho đến chết, ngày 9/9/1976..." (Trích từ trang Web của Hội Sử Học Việt Nam). Đại Tá NGUYỄN THIỀU, SĐ22/BB. Ngày 31-3-75, theo lệnh của BTL/QĐ II, Th/Tướng Phan Đình Niệm, TL SĐ22, cho lệnh 3 Tr/Đoàn còn lại của ông rút về phòng thủ thị xã cùng quân cảng Qui Nhơn và chuẩn bị để SĐ 22(-) được hải vận về Nha Trang rồi chuyển lên tăng cường cho mặt trận Khánh Dương. Trong đêm 31-3-75, Tr/Đoàn 41 đã chọc thùng vòng vây của Tr/Đoàn 2 SĐ3 Sao Vàng của địch ở phía nam Bình Khê và trưa ngày 1-4-1975, Tr/Đoàn 41 đã rút về được tuyến sau của Tr/Đoàn 42...(đọc phần kế tiếp) Đại Tá NGUYỄN HỮU THÔNG, SĐ22/BB. Đại Tá VĨNH DÁC, SĐ3/BB. Cố Đại Tá ĐOÀN CƯ, SĐ21/BB. Thăng chức Trung Tá năm 1972 giữ chức Trung Đoàn Trưởng Tr/Đoàn 32/SĐ21BB. Trong một cuộc hành quân lớn tại Quận Kiên Hưng, tỉnh Sóc Trăng năm 1972, Trung Tá Đoàn Cư bị tử thương bởi hỏa tiễn pháo kích của quân CS, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu Truy Thăng Đại Tá. 7- KHÓA 16 - LỜI KẾT. Chủ biên xin mượn Tâm Bút của Vị CHT/TVBQGVN khả kính, Cố Đại Tá Trần Ngọc Huyến, gửi cho Khóa 16 trong Cuốn Lưu Niệm, để thay cho Lời Kết: Thân gửi Sĩ Quan Khóa XVI, Sáng kiến của các Bạn in thành sách những kỷ niệm trong thời gian thụ huấn tại Trường, sẽ mở đầu cho một truyền thống mới của Trường Võ Bị Quốc Gia. Quyển sách này là giây liên lạc kết chặt các Bạn với nhau và cũng là nhịp cầu tưởng nhớ giữa những người đang chiến đấu bốn phương trời với "Mái Trường Mẹ" đã đào luyện nên họ. Tuy là Khóa thứ 16 của Trường Sĩ Quan Hiên Dịch, nhưng thật ra Khóa các Bạn là Khóa đầu tiên của Trường Võ Bị Quốc Gia được cải tô" lại, với một hệ thống tổ chức mới, một chương trình huấn luyện mới, những cơ sổ và tiện nghi mới. Những cái mới ấy có điều hay nhưng cũng có điều bất lợi cho các Bạn. Một thí dụ cụ thể là trong hơn 3 năm thụ huấn tại Trương, Khóa các Bạn đã phải chuyển hướng chương trình huấn luyện hai lần: lần đầu từ chế độ "Liên Quân" sang chế độ huấn Luyên "Võ Bị Quốc Gia"; lần thứ hai, từ chế độ "thời bình 4 năm" sang chế độ "thời chiến 2 năm".
Ban Biên Tập: Bùi Quyền, Trần Khắc Thuyên, Trần Ngọc Toàn, Nguyễn Đức Thu, Nguyễn Văn An, Trần Văn Hiển |
Trang Tưởng Niệm CSVSQ Khóa 16 Đã Mãn Phần
www.k16tvbqgvn.org/tuongniemk16.htm