Giới thiệu sách: THAM NHŨNG & NHÂN QUYỀN củaThiên Bút

Giới thiệu sách

THAM NHŨNG & NHÂN QUYỀN

Thiên Bút 


Lời giới thiệu: Nạn tham nhũng tại Việt Nam từ 70 năm nay dưới chế độ độc tài toàn trị của đảng CSVN đã trở thành một cơ chế, một phương cách duy nhất để xã hội Việt Nam ngày nay vận hành. Chính sách đốt lò của ông Nguyễn Phú Trọng trong vòng 17 tháng bắt đầu từ tháng 3/2023, cách chức ông Nguyễn Xuân Phúc đến nay đã có thêm 2 ông “tứ trụ” bị ngưng công tác vì cùng một tội danh “vi phạm những điều mà một đảng viên không được làm” để lại một khoảng trống lớn về vấn đề “kế thừa” trong hệ thống lãnh đạo của đãng Cộng sản Việt Nam.
Diễn đàn Saigon Weekly vừa nhận được một quyển sách viết bởi một người trong nước về vấn nạn tham nhũng tại Việt Nam mà chúng tôi đã tiên đoán rằng điều này sẽ hủy diệt chế độ Cộng sản nhanh hơn bất cứ một thế lực “thù địch” nào khác của người Cộng sản. Chúng tôi sẽ trích đăng lại từng chương để quí độc giả dễ theo dõi nhưng cuối bài quí vị có thể vào để đọc hết cả sách nếu muốn.
Trân trọng giới thiệu và cám ơn sự đóng góp của tác giả Thiện Nhân trong việc góp nhần ghi lại những trang lịch sử ngàn người viết của Việt Nam dưới thời Cộng sản. Tất cả đều nhằm vào công cuộc đấu tranh đem lại công bằng và tự do, dân chủ cho Việt Nam. Sau đây là chương 2  của  sách Tham Nhũng và Nhân Quyền của tác giả Thiên Bút.
 
Chương 2

Viễn cảnh chính trị ở Việt Nam 

Có khuynh hướng cho rằng phát triển kinh tế dẫn đến mở rộng không gian chính trị, cho nên  chính trị Việt Nam sẽ thay đổi theo chiều hướng nào đã là chủ đề tranh luận của nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài cụng các nhà dân chủ trong nước.
Một xu hướng khá phổ biến phát triển kinh tế sẽ giúp tiến trình dân chủ hóa nhanh chóng hơn, nhiều người trở nên khá giả và chính họ sẽ có những nhu cầu đòi hỏi nhà nước chuyên chế phải rộng mở hơn. Thế nhưng mọi thứ ngược lại, tầng lớp mới càng lệ thuộc vào nhà nước và cùng nắm tay đồng hành của tầng lớp mới Tư bản đỏ!
Nghĩa là trong kỳ vọng về một xã hội dân sự lành mạnh từ khát vọng của giới trung lưu mới với các giá trị khác với nhà nước. Qua tác phẩm kinh điển của Barrington Moore, Social Origins of Dictatorship and Democracy (1966). Moore và nhiều người sau này như Rueschemeyer, Evelyne Stephens cho rằng thay đổi chính trị không chỉ phụ thuộc vào sự thay đổi bản chất của từng nhóm xã hội...mà còn phụ thuộc vào mối quan hệ giữa các nhóm này và nhà nước.
Theo Martin Gainsborough viết trên tạp chí Asian Survey năm 2002 thuộc trường nghiên cứu châu Phi và phương Đông (SOAS) của Anh, cho rằng: “viễn cảnh thay đổi chính trị ở Việt Nam cần được nhìn qua các thay đổi bên trong bộ máy nhà nước, hơn là nhấn mạnh sự xuất hiện của các lực đẩy bên ngoài nhà nước.”
Bài tiểu luận này có tựa đề “Political Change in Vietnam: in search of the middle class challenge to the state.” Tóm tắt như sau:
- Tầng lớp trung lưu mặc dù trong lịch sử là lực đẩy dân chủ hóa, nhưng cũng lại thường liên minh với chế độ chuyên chế.
Do đó, thực tế vì quyền lợi gắn liền với thế lực cầm quyền khiến họ có xu hướng chống lại tiến trình dân chủ hóa cho đến khi một chế độ mới dân chủ thật sự ra đời, thành phần nầy vẫn còn nhiều tư hữu để trở nên giàu có trong một chế độ hoàn toàn tự do. Đây là tầng lớp được hưởng lợi khấm khá và thật sự chỉ có người nghèo vì nhiều lý do phải nghèo là thành phần bị thiệt thòi nhất!
“Trong trường hợp Việt Nam, nhìn bề ngoài có vẻ như rõ ràng giai cấp này không tồn tại. Những đại địa chủ đã bị loại bỏ tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Bắc Việt) trong thập niên 1950, và việc này lại tiếp tục ở các khu miền Nam giải phóng trong thập niên 1960 và sau chiến thắng của đảng Cộng sản năm 1975. Chiếu theo lý thuyết, việc thiếu vắng giai cấp này có vẻ sẽ hỗ trợ một quá trình chuyển tiếp dân chủ.”
“Tuy nhiên, phải chăng Việt Nam không có các địa chủ? Bất chấp quy định hạn mức đất nông nghiệp ở nông thôn, nhưng những năm đổi mới đã đi kèm với tình trạng không có ruộng đất ngày càng tăng. Điều này dẫn đến hệ quả tất yếu là sự tái trỗi dậy của các nhà địa chủ.
Người ta cũng có thể nói rằng mặc dù những người chủ đất của chính thể cũ đã bị loại bỏ, nhưng thay vào chỗ của họ là sự xuất hiện của một tầng lớp chủ đất mới, đó là các cán bộ và viên chức chính quyền. Thông thường chính họ, hoặc thành viên gia đình họ, là người nắm ưu thế trong nền kinh tế nông thôn. Nếu phân tích này là chính xác, thì viễn cảnh cho sự mở rộng không gian chính trị không sáng sủa lắm.”
…………………..
1. Nông dân và người lao động ở nông thôn
“Giai cấp thứ hai là nông dân và người lao động nông thôn. Theo lý thuyết, người nông dân trong lịch sử quan tâm đến dân chủ hóa, nhưng không phải là sức mạnh tạo ra nó, chủ yếu vì họ thiếu tổ chức.
Việc 20 năm sau đổi mới, Việt Nam tiếp tục là xã hội nông nghiệp dường như bao hàm ý là chỉ có một lực đẩy tương đối yếu cho dân chủ hóa.
Kể từ thập niên 1990, bất ổn ở nông thôn có vẻ trở nên thường xuyên hơn. Còn thiếu các nghiên cứu về nguyên nhân của điều này, nhưng dường như chúng thường liên quan đến các tranh chấp đất đai với giới nắm quyền ở địa phương, và đi kèm các cáo giác tham nhũng. Mặc dù không có bằng chứng về sự tài trợ trực tiếp từ nước ngoài cho bất ổn nông thôn, nhưng các nhóm phản kháng đặt ở nước ngoài và các tổ chức nhân quyền nhanh chóng ủng hộ những cộng đồng nông thôn chịu khó khăn, còn các chính phủ nước ngoài, bao gồm Mỹ, đã chỉ trích cách đối phó của chính phủ Việt Nam trước các vụ việc này.
Nhưng ngoài các trường hợp kiện tụng cá nhân, sẽ là sai lầm nếu người ta nói về một sự đối lập tại nông thôn hiểu theo nghĩa là một tổ chức có nền tảng thể chế chung và một lý luận chặt chẽ chỉ trích sự cầm quyền của đảng. Một số học giả nhắc đến sự phát triển của các nhóm độc lập đại diện cho nông dân, nhưng có ít bằng chứng cho điều này.
2. Người lao động thành thị
Giai tầng thứ ba là người lao động ở thành thị. Đây được xem là lực lượng quan trọng cho dân chủ hóa. Ở Việt Nam, số người này vẫn còn ít. Tuy nhiên, thời kì đổi mới đã đi kèm với việc đô thị hóa nhanh chóng.
Về khía cạnh lao động có tổ chức, giai cấp lao động thành thị chưa tỏ ra có sức mạnh. Quan hệ lao động đã trở nên phức tạp hơn kể từ đổi mới, và các cuộc đình công cũng phổ biến hơn. Tuy nhiên, không có các công đoàn độc lập, và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam tỏ ra vẫn chia sẻ nghị trình của nhà nước là khuyến khích kinh tế và bảo đảm ổn định chính trị, hơn là thật sự đại diện cho người lao động.
……………..
3. Tư sản
Giai cấp thứ tư là tư sản, ở đây được hiểu là tầng lớp kinh doanh hoặc sở hữu vốn. Quan niệm thông thường xem những doanh nhân là một phần của tầng lớp trung lưu, và vì thế là lực đẩy cho dân chủ hóa.
Tuy nhiên, theo quan điểm của Moore, Rueschemeyer và nhiều người khác, tư sản được xem là có quan điểm không rõ ràng đối với dân chủ hóa. Ví dụ, tác giả Richard Robison nhắc tới một “hiệp ước cùng thống trị” giữa tầng lớp doanh nhân và chế độ chuyên chế Suharto ở Indonesia – một quan hệ dựa trên các quyền lợi chung.
Dù giới doanh nhân là hiện tượng mới nếu xét về các quan tâm kinh doanh của họ, nhưng họ lại là cũ khi xét về quan hệ chính trị.
Tại Việt Nam, những năm qua đã có sự xuất hiện của một giới tinh hoa mới trong kinh doanh.
Tuy nhiên, mặc dù giới tinh hoa này là hiện tượng mới nếu xét về các quan tâm kinh doanh của họ, nhưng họ lại là cũ khi xét về quan hệ chính trị. Nghĩa là, nhiều người trong số các doanh nhân mới này xuất thân từ bên trong hệ thống hiện nay, đang là hoặc từng là viên chức, hoặc là con cái của giới lãnh đạo.
Để làm ăn thành công, các công ty vẫn phụ thuộc nhà nước để có giấy phép, hợp đồng, tiếp cận vốn và đất, và cả sự bảo vệ. Như thế, Việt Nam vẫn thiếu “một giai cấp tư sản độc lập hoặc lớn mạnh” mà Moore xem là yếu tố cần thiết cho dân chủ hóa.
Lý thuyết về dân chủ hóa cũng nhấn mạnh sự quan trọng của quan hệ giữa tư sản với người lao động thành thị. Nếu giới trung lưu cảm thấy bị đe dọa bởi người lao động đô thị, họ có khả năng trở nên bảo thủ hơn. Nếu không, họ có thể liều lĩnh hơn.
Không có mấy bằng chứng là có sức ép mạnh mẽ đòi thay đổi chính trị từ cộng đồng kinh doanh. Đã có những kêu gọi như cần có sân chơi bình đẳng cho mọi công ty, mở rộng thông tin, bớt sách nhiễu – người ta có thể nhìn thấy ở đây giai đoạn đầu của một sự phân rẽ giữa tư sản và nhà nước. Tuy nhiên, những kêu gọi như thế không lớn khi so sánh với việc cũng chính những công ty này rất nhiệt tình (vì bắt buộc) khi tìm kiếm ưu đãi từ nhà nước.
Riêng trên đất nước này có thể nói rằng vẫn chưa có một hệ thống tiền tệ minh bạch: tiền được làm nên đó là thứ phương tiện, đúng hơn là thứ vũ khí của tầng lớp thống trị với mục đích cuối cùng là thu vén tài sản của nhân dân, người dân hoan hỷ tưởng chừng như là phương tiện thanh toán tốt nhất vào mỗi thời nhưng thật sự chính mình là nạn nhân, sự luân chuyển của đồng tiền chẳng qua chỉ là hình thức gián tiếp cống nạp cho kẻ thống trị vì cuối cùng đồng tiền chạy vào ngân khố của tập đoàn vua chúa hay đảng trị, họ muốn thu hồi từ dòng chảy trong bàn tay của chúng bất cứ lúc nào mà không có một sự giám sát của nhân dân!
Hiện nay dưới sự thống trị của tập đoàn đảng trị CSVN, sau khi con tàu quốc doanh Vinashin không còn khả năng trả nợ, người ta mới giật mình, đặt câu hỏi: ai đã quản lý, kiểm tra, giám sát các nguồn vốn của Vinashin?
4. Giới công chức và trung lưu
Nhóm xã hội thứ năm là giới công chức và trung lưu. Tại Việt Nam, nhóm này bao gồm những cán bộ, công chức nắm giữ các vị trí trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, mặc dù có thể có một số sự chồng chéo với tầng lớp kinh doanh hoặc sở hữu vốn. Một nhóm khá mới trong phạm trù này là các nhân viên Việt Nam làm việc cho công ty nước ngoài.
Một vài năm trước, một số học giả nhấn mạnh đến khoảng cách ngày một tăng giữa các nhóm như vậy với nhà nước, cho rằng con người ngày càng tổ chức đời sống tách biệt khỏi ảnh hưởng của nhà nước. Mặc dù việc một người làm cho công ty nước ngoài có thể quan trọng, nhưng Martin Gainsborough lại nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ liên tục giữa nhóm này và nhà nước, xét về nguồn gốc tương đối đặc quyền của họ, cũng như trọng tâm trung thành của họ, hay sự sẵn sàng gia nhập đảng...Như vậy, giống như giới tư sản, các nhân viên người Việt làm cho nước ngoài vẫn “thuộc về hệ thống”.
Qua bộ phim Đường Tới Thành Thăng Long hiển hiện rõ: Cả một dân tộc đến gần con số trăm triệu người, hàng ngàn tiến sĩ gọi là được phong hàm giáo sư… nhưng để tâm vào chuyện gì? Quả là nhân cách cá nhân do sợ hãi trở nên ngu muội đưa đến vong thân về tinh thần mà vốn truyền thống của dân tộc này hào hùng, khí khái, hiên ngang, bất khuất!
Từ tiến sĩ đến các nghệ sĩ, nào phong cho nhau những mỹ từ danh giá ‘nhân dân, ưu tú..’ Và trên một ngàn nhà văn theo con số chính thức nhưng quá hèn không viết nổi, không đạo diễn nổi, không đóng nổi các vai…nên đành đoạn ‘giao trứng cho ác’, ‘bán mình cho quỷ dữ’ !
Không có trận Chi Lăng, Bạch Đằng, vậy lịch sử dân tộc này là dân tộc nào, cảnh chém giết tàn ác của Tàu  thể hiện trong phim thành gia sản của người Việt như một bộ lạc hoang dã! Một sự phỉ báng Tổ Tiên dân tộc này!
5. Nhà nước yếu hay mạnh?
Bên cạnh việc phân tích thái độ của các tầng lớp xã hội và quan hệ giữa các nhóm này, người ta cũng cần phân tích bản chất của quyền lực nhà nước để soi sáng câu hỏi liệu một nước có dân chủ hóa hay không.
Nhiều năm qua, bản chất của quyền lực nhà nước ở Việt Nam đã thu hút những cách phân tích khác nhau.
Quân đội và công an vẫn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống chính trị Việt Nam
Ví dụ, Joel Migdal (1988) mô tả Việt Nam là “nhà nước mạnh”, đặt nó chung với Israel và Nhật cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác. Migdal cho các nhà nước này là mạnh vì theo ông, chúng có khả năng điều động các định chế nhà nước thực hiện các công việc chính sách bất chấp sự tồn tại của các trung tâm quyền lực khác. Một số người khác lại cho rằng khả năng của nhà nước Việt Nam không mạnh như người ta nghĩ.
Martin Gainsborough lại cho rằng tựu trung nhà nước ở Việt Nam mạnh, nhưng nó phụ thuộc vào từng hoàn cảnh, vì thế mà tạo nên các phân tích khác nhau. Nếu quan sát công việc hàng ngày của các định chế và bộ máy nhà nước, người ta thấy thói thường quyền lực ở các định chế nhà nước bị phân lập, và các cơ quan cao hơn trong bộ máy chỉ có khả năng hạn chế khi muốn điều động các cơ quan bên dưới ('trên bảo dưới không nghe'). Vì thế quyền lực bị phân tán. Nhà nước ở thế yếu. Tuy nhiên, nếu quan sát vai trò của công an trong cuộc sống hàng ngày của người dân, nhà nước lại có vẻ mạnh.
Ngoài ra, trong các cuộc thanh tra định kỳ (periodic) nhắm vào các hoạt động kinh doanh khả nghi, và trong việc truy tố các vụ tham nhũng lớn, nhà nước chứng tỏ khi bộ máy cảm thấy phải chuyển động, nó có thể rất mạnh mẽ.
Như vậy, 20 năm sau đổi mới, việc nhà nước vẫn có một quyền chủ động tương đối có vẻ không thuận lợi cho tiến trình chuyển tiếp dân chủ. Lý thuyết về dân chủ hóa nhấn mạnh rằng sự có mặt thường xuyên của quân đội và công an trong nhà nước đặc biệt bất lợi cho một sự chuyển tiếp. Tại Việt Nam, hai định chế này đã luôn có mặt trong các vị trí lãnh đạo chủ chốt.
Song, môi trường giáo dục của Việt cộng đang hỏng trầm trọng, từ chuyện học sinh nữ đánh nhau, thầy mua dâm học trò, đổi tình lấy điểm, mua điểm...
Những người có điều kiện tầm vóc quốc gia, ngay cả trong ngành giáo dục đều tìm cách cho con đi học ở nước ngoài, mặc cho nền giáo dục nước nhà theo kiểu ‘nước chảy bèo trôi’ !
Con người của Hà Nội cổ xưa thanh lịch và sâu sắc từ dáng đi, lời ăn tiếng nói, đến cư xử giữa người với người là vậy. Trí tuệ của Hà Nội xưa cũng uyên bác và thực chất hơn nhiều. Dưới trào cộng sản mở đầu câu chuyện là câu láo khoét giả dối làm đầu nào ‘nhờ ơn Bác Đảng…mà em thế này… nhà u nó ra sao?’

Hà Nội đang rồng rắn lên mây, những giá trị ảo đó rồi cũng tan biến theo thời gian, những hàng mã trong lễ hội càng tiêu nhanh, tất cả sẽ qua đi, nhưng ‘văn hóa là những gì còn lại’, những giá trị nhân văn thể hiện qua nhân cách, trí tuệ người Hà Nội sẽ còn mãi và không biến mất trong máu huyết người Việt. Nhân sĩ và trí thức Hà thành đang cất cao tiếng gọi, nhân quyền không còn là chuyện phê phán người khác, cũng không chỉ với vài bài viết của một tờ Tạp chí gọi là làm chuyện nhân quyền. Nhân quyền là dấn thân, hành động thiết thực qua giáo dục để nhằm biến đổi con người rồi tự thân con người biến đổi xã hội.
6. Các lực lượng xuyên quốc gia
Lý thuyết về dân chủ hóa cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của các lực lượng xuyên quốc gia trong vấn đề thành công hay thất bại của một tiến trình chuyển tiếp.
Sự chấm dứt chiến tranh lạnh cũng chấm dứt cái nhìn xem Đông Nam Á là các quân bài domino trong cuộc tranh đấu ý thức hệ. Vì thế, các nước này đã chịu sức ép từ Mỹ và EU quanh các vấn đề nhân quyền và cai trị. Việt Nam cũng chịu sức ép này. Nhưng mặt khác, dường như Việt Nam không đến mức dễ bị đe dọa trước các luồng xâm nhập tư tưởng từ ngoài – khác với Lào, chẳng hạn.
Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc cũng có thể nói góp phần củng cố chế độ tại Việt Nam. Dù hai nước này có khác biệt thế nào, họ đều có chung sự không tin tưởng trước quyền lực toàn cầu của Mỹ và cả hai đều theo quan điểm cải tổ kinh tế mà không mất quyền kiểm soát chính trị.
Ngoài ra, một thiên hướng phổ biến là nhấn mạnh rằng trong thời đại toàn cầu hóa, việc hòa nhập vào nền kinh tế thế giới thường bất lợi cho chế độ chuyên chế. Tuy nhiên, ở Việt Nam, tài trợ nước ngoài và vốn tư bản đổ vào lại giúp củng cố quyền lực nhà nước, vì chính các định chế và công ty nhà nước thường là người hưởng lợi chính.
Năm mươi năm qua vẫn chưa đủ đã làm nghèo đất nước này đến dường nào so với  mức tăng trưởng kinh tế thế giới, hãy bần cùng đến nhiều thế hệ hơn nữa, cương lĩnh hứa hẹn ‘Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa’ !
Từ định hướng đến phương hướng là phương nào khi báo cáo đưa ra 8 danh mục cơ bản mà bất cứ một học sinh phổ thông nào cũng nói được có khi càng bốc hơn, xin ghi lại nguyên văn cho rõ với phản đề ngắn gọn của người dân trên chữ đậm, nghiêng:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
- Kinh tế tri thức: hiện nay Việt Nam là sân sau, một bãi rác của Trung Quốc!
- Môi trường tài nguyên thiên nhiên: Thảm họa môi trường và an ninh quốc gia qua bauxit Tây Nguyên vẫn đang ám ảnh người Việt Nam yêu nước! Rừng vàng biển bạc đều dần dần rơi vào tay Trung Quốc trong một chiến lược thôn tính lâu dài của Đại Hán!
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
 - Lịch sử từ cổ chí kim chưa ai biết cái định hướng này là gì, sẽ đưa dân tộc về đâu? Hiện chỉ thấy các cán bộ, đảng viên Cộng sản hành động càng ngày càng xằng bậy!
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
 -Nghĩa là Tàu sao ta vậy! Tàu cộng đưa ra ‘Xã hội hài hoà’, ta cũng ‘Hài hoà xã hội và sáng tạo thêm chữ Hoà giải nữa!
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
-Ra đường là kẹt xe, tai nạn giao thông…đó là trật tự an toàn xã hội! Quốc phòng và an ninh quốc gia đã có Trung Quốc lo vì trên căn bản những gì đã ký kết ngầm với Tàu cộng ‘chỉ mong sao trở thành một khu tự trị như Tân Cương, Tây Tạng…qua mô hình một quốc gia nhiều chế độ!
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
-Cứ thỏa mái ký kết và không thi hành vì bản chất của CSVN là thế!
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
-Trong lịch sử cũng chưa ai thấy dân chủ kiểu Việt cộng như thế này, sự thường nhân loại gọi kiểu cai trị này là độc tài toàn trị!
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
-Pháp luật chỉ là thứ trò chơi của giai cấp tư sản theo quan niệm của Mác, như vậy kêu gọi tôn trọng pháp luật không khác gì chống lại học thuyết Mác!
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
-Ngày nay chống tham nhũng là chống đảng, vậy chỉ có thể diệt hết tham nhũng khi đảng CSVN không còn, hay tồn tại trong chế độ đa đảng với sự cạnh tranh lành mạnh giữa các đảng sẽ giảm bớt lạm dụng quyền lực để tham ô!
7. Sau chế độ một đảng sẽ là gì?
Từ đầu, bài viết nhấn mạnh sự quan trọng của việc thoát ra khỏi cách nghĩ rằng Việt Nam nhất định sẽ đi trên con đường lịch sử hướng tới chế độ dân chủ kiểu phương Tây. Như vậy, câu hỏi trong bài đặt ra là còn hướng đi nào khác cho việc mở rộng không gian chính trị tại Việt Nam?
Một phần câu trả lời có thể nằm trong việc xem lại các quan niệm như nhà nước và xã hội. Thay vì đi tìm sự xuất hiện của một xã hội dân sự (civil society) lớn mạnh đối lập với quyền lực nhà nước, bài viết muốn người ta tìm hiểu những gì xảy ra bên trong nhà nước.
Một số học giả khác đã theo quan điểm tương tự. Trong quyển Toward Illiberal Democracy in Pacific Asia (1995), Daniel Bell và Kanishka Jayasuriya viết:
“Động lực cho cải tổ chính trị xuất hiện không phải từ việc khẳng định các quyền lợi độc lập của các giai cấp xã hội, mà từ xung đột bên trong nhà nước; cải tổ chính trị liên quan việc đối phó với xung đột bên trong nhà nước, hơn là liên quan sự tái cơ cấu căn bản quan hệ giữa nhà nước và xã hội.”
Martin Gainsborough cho rằng điều này thể hiện các nhà nước tại châu Á xây dựng trên một di sản triết học và văn hóa khác phương Tây. Khi Lý Quang Diệu nói về nhu cầu hạn chế “cách người dân dùng lá phiếu để mặc cả, ép buộc, xô đẩy” chính phủ, ngôn từ đó không đơn giản là nói lấy được, mà thể hiện một cách hiểu hoàn toàn khác về quan hệ giữa nhà nước và xã hội.
Đã nhiều người nhấn mạnh đến các yếu tố như xã hội dân sự, tầng lớp trung lưu, tôn giáo đối lập, trí thức phản kháng, bất mãn của thanh niên, bất ổn ở nông thôn.
 “Sự mở rộng không gian chính trị có nhiều phần khả năng xuất phát từ thay đổi bên trong các định chế nhà nước, hơn là nhờ sự xuất hiện của một xã hội dân sự năng động.”
 Martin Gainsborough
Theo Martin Gainsborough, tất cả những điều này đều là hiện tượng có thật, nhưng ở Việt Nam, đấu trường chính là ở bên trong nhà nước. Vì thế, nếu quan sát một số các cuộc tranh luận chính trị liên quan mối quan hệ giữa đảng và chính quyền, vai trò Quốc hội, vấn đề tập quyền và tản quyền, hay cách thức điều hành doanh nghiệp nhà nước, thì mức độ thay đổi hay việc mở rộng không gian chính trị phải được xem trong quan hệ với các định chế nhà nước. Ví dụ, đảng có thể vẫn giữ quyền tối cao, nhưng phải chấp nhận cho phép các định chế chính quyền mạnh mẽ hơn, một Quốc hội mạnh mẽ hơn.
Cũng như vậy, các quan tâm của giới kinh doanh, thay vì tìm cách biểu đạt qua một tổ chức tách khỏi nhà nước, thì lại chuyển vào kênh của các tổ chức như Phòng Thương mại Công nghiệp hay Hiệp hội ngân hàng. Ngay cả nếu người ta dự đoán một ngày nào đó các tổ chức này sẽ tách khỏi nhà nước, thì có thể cho rằng họ vẫn duy trì một cách hiểu khác phương Tây về mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội.
Thay đổi chính trị ở Việt Nam tất yếu sẽ diễn ra, nhưng một bài học từ châu Á là sự mở rộng không gian chính trị có nhiều phần khả năng xuất phát từ thay đổi bên trong các định chế nhà nước, hơn là nhờ sự xuất hiện của một xã hội dân sự năng động như tưởng tượng tại phương Tây.
Bài viết kết luận: Liệu điều này có tạo ra sự thoát khỏi hoàn toàn hệ thống độc đoán hay không còn là điều bàn cãi. Có thể đoán rằng khả năng lớn hơn cả là sẽ có sự nới lỏng dần dần những mặt cứng nhắc của hệ thống quản lý nhà nước.”
Đất nước Việt Nam đang đi trên con đường với những khái niệm mù mờ rất đáng sợ, ngay chính những người soạn ra nó chắc chắn cũng không hiểu nó là cái gì! Nên đã khiến mọi thứ khác xa lời Thi hào Nguyễn Trãi ‘Hang cùng ngõ hẻm không còn tiếng khóc than’. Lời vọng từ năm xưa, đó là mục tiêu của một chính quyền vì dân, đạo đức của những nhà lãnh đạo đất nước - ‘Cái Đạo làm Vua’ !
- ‘Hãy ngồi vào bàn ăn mới biết ngon hay dở’ như ngạn ngữ Phương Tây đã viết! Người Việt chúng ta còn rất hoài nghi chưa chịu ngồi vào bàn, vì những tỵ hiềm đố kỵ hận thù do lịch sử để lại quá nặng nề! Hãy ngồi vào bàn để biết thật rõ bạo quyền là cái ác, độc tài đảng trị là gian trá, biết rằng bàn ăn có nhiều món vẫn thích hơn chỉ một món lại là khoai mì, nhất là loại khoai mì có tên Ấn Độ H34 gì đó vẫn mãi mãi là nỗi kinh hoàng với các tù nhân trong các trại tù CSVN. Loại khoai đó ăn vào thường ngộ độc ói mửa, tháo dạ nhưng phải cứ ăn!
Hãy ngồi vào bàn có nhiều món vẫn thích hơn! Các anh muốn hạnh phúc và chúng tôi cũng vậy ‘…tuy là khác giống nhưng chung một giàn’. Giàn bầu, giàn bí, giàn nho…đều cần phải có những nhà kỹ thuật nông nhiệp hướng dẫn việc cắt tỉa mới sinh hoa trái hầu được mùa. Không thể kêu chú đánh trâu dạy kỹ thuật nông học, chăn trâu chỉ có thể thống lĩnh trâu bò, càng không thể giữ bò, thiến bò, thiến heo lên làm lãnh đạo quốc gia! Một dân tộc như thế dù cho có ít người vẫn đang rơi vào mạt vận!


Bấm vào đây sẽ đọc được hết sách Tham Nhủng và Nhân Quyền của tác giả Thiên Bút

 https://www.saigonweeklyonline.com/lich-su-nnv/thien-but-tham-nhung--nhan-quyen.html
Viện Việt-Học và chương-trình văn-nghệ chủ-đề \"Những Tình Khúc Mùa Thu\".
Viện Việt-Học trân-trọng kính mời Quí-vị tham dự chương-trình văn-nghệ được tổ chức vào Thứ Bảy, 19 tháng Mười năm 2024 lúc 3 giờ chiều.  Chương-trình do Nhóm Bạn Văn Nghệ QGHC và Thân Hưũ thực hiện với chủ-đề "Những Tình Khúc Mùa Thu".
Tòa soạn
Do công ty Saigon News LLC thực hiện
Editor-in-chief: HOÀNG DƯỢC THẢO
Director of Marketing: ANDY TRƯƠNG
Với sự cộng tác của: LÊ TẤT ĐIỀU, HOÀNG NGỌC NGUYÊN, NGUYỄN THỊ CỎ MAY, TRẦN TRỌNG HẢI.

Email: saigonweeklyonline@gmail.com

Thư từ bài vở: 702-389-5729

Quảng cáo: 702-630-0234

702-426-4404

Hotline: 702-426-4404

back top